TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. (Ga 20, 19-23)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Lời Chúa THỨ TƯ TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

Thứ sáu - 06/06/2025 14:15 |   20
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy… Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,8-10)

11/06/2025
THỨ TƯ TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN
Thánh Barnaba, tông đồ 

t4 t10 TN

Mt 10,6-13

ĐEM TIN MỪNG BIẾU KHÔNG
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy… Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,8-10)

Suy niệm: Giáo Hội không sống nhờ giàu có của cải hay sự bảo trợ của quyền bính trần thế nào, mà sống nhờ mọi thành phần hăng hái loan báo Tin Mừng. Chính vì thế Chúa Giê-su nhắc nhở Giáo Hội đừng lo tích góp vàng bạc, tiền giắt lưng, bao bị, giày gậy… Những thứ đó không phải là sức mạnh của Giáo Hội và cũng không là thước đo sự lớn mạnh của Giáo Hội. Chúa Giê-su khẳng định, sự phát triển Giáo Hội tùy thuộc vào việc toàn thể Giáo Hội chú tâm “cho không” Tin Mừng.

ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI quả quyết, Giáo Hội lớn mạnh nhờ sự hấp dẫn, chứ không nhờ chiêu dụ. Do đó, đem Tin Mừng cho không, biếu không là bằng chứng Giáo Hội đang sống và đang lớn mạnh nhờ Chúa Thánh Thần. Thánh Phao-lô xem việc đem Phúc Âm biếu không là bổn phận của ngài (x 1Cr 9,18). Tuy nhiên, làm sao Ki-tô hữu quảng đại loan báo Tin Mừng được, nếu không nhận ra đức tin họ đang có là nhờ ơn Chúa ban cách nhưng không? Và cũng dễ dàng đem Phúc Âm biếu không, một khi Ki-tô hữu nhận thức rõ ràng: đức tin tôi đang có vì từng được cho không như vậy.

Mời Bạn: Sự tính toán hơn thiệt nơi bạn làm cản trở bổn phận truyền giáo của bạn thế nào? Lời Chúa hôm nay có lay chuyển được bạn trở thành người dám đem Phúc Âm biếu không như thánh Phao-lô đã sống không?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày nhắc cho gia đình bạn sống một câu lời Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Thánh Tâm Chúa, xin ban cho con một tấm lòng quảng đại dám xả thân cho sứ vụ truyền giáo.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
THỨ TƯ TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Ca nhập lễ

Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? Khi những đứa ác xông vào để xả thịt tôi, bọn thù ghét tôi sẽ siêu té và ngã gục.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 3, 4-11

“Người đã làm cho chúng tôi trở nên thừa tác viên của Tân Ước, không phải của văn tự, mà là của Thần Trí”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúng tôi tin tưởng như thế trước mặt Thiên Chúa nhờ Ðức Kitô. Không phải chúng tôi có thể nghĩ tưởng điều gì như là bởi chính chúng tôi, nhưng điều đó là do Thiên Chúa: chính Người là Ðấng đã làm cho chúng tôi trở nên thừa tác viên của Tân Ước, không phải của văn tự, mà là của Thần trí, vì văn tự chỉ giết chết, còn Thần trí mới tác sinh.

Nếu việc phục vụ sự chết, được khắc thành chữ trên bia đá, rạng ngời vinh quang, khiến con cái Israel không thể nhìn thẳng vào mặt Môsê vì vinh quang trên mặt ông, dầu đó chỉ là vinh quang nhất thời, thì việc phục vụ Thần trí lại chẳng được vinh quang hơn sao? Thật vậy, nếu việc phục vụ án phạt đem lại vinh quang, thì việc phục vụ công chính lại càng đem vinh quang rực rỡ hơn; và về phương diện này, điều xưa kia là vinh quang, không còn vinh quang nữa so với sự vinh quang cao cả này. Bởi lẽ điều nhất thời mà còn được vinh quang, thì điều vĩnh cửu lại càng được vinh quang nhiều biết mấy.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 98, 5. 6. 7. 8. 9

Ðáp: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh

Xướng: Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hãy sấp mình dưới bệ kê chân Ngài, đây là bệ ngọc chí thánh.

Xướng: Trong hàng tư tế của Ngài có Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh Ngài: các ông kêu cầu Chúa và chính Ngài nhậm lời các ông.

Xướng: Trong cột mây, bấy giờ Ngài phán bảo, các ông đã nghe những huấn lệnh của Ngài, và chỉ thị Ngài đã truyền cho các ông giữ.

Xướng: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài đã nhậm lời các ông; lạy Chúa, với các ông Ngài xử khoan hồng, tuy nhiên, Ngài đã oán phạt điều các ông lầm lỗi.

Xướng: Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúa chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Ngài: vì Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh.

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 1 V 18, 20-39

“Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ”.

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Vua Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.

Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: “Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!” Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: “Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa”. Toàn dân đồng thanh đáp: “Ðề nghị hay đấy!”

Vậy Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: “Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm lửa”. Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: “Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng tôi!” Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng: “Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy”. Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.

Bấy giờ Êlia nói với toàn dân rằng: “Hãy lại gần tôi”. Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như sau: “Ngươi sẽ gọi là Israel”. Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Ðoạn ông nói: “Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi”. Và họ làm như thế. Ông còn dạy: “Hãy làm như vậy một lần thứ hai”. Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: “Hãy làm như thế một lần thứ ba”. Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.

Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ”. Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: “Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!”

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).

Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con.

Xướng: Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi.

Xướng: Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 17-19

“Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.

Ðó là lời Chúa

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa chúng con dâng tiến lễ vật này, để tỏ lòng thần phục suy tôn; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận và cho chúng con được thêm lòng mến Chúa. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Chúa là sơn động chỗ tôi nương mình, là Đấng cứu độ và là sức hộ phù tôi.

Hoặc đọc:

Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, xin dùng ơn thiêng của bí tích này để chữa lành và bổ dưỡng chúng con, cho chúng con thoát khỏi mọi khuynh hướng xấu và bước đi vững vàng trên con đường thánh thiện. Chúng con cầu xin. . . . .

Suy niệm

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT (Mt 5,17-19)

1. Chúa Giê-su truyên bố cho mọi người biết: Ngài đến không phải để bãi bỏ luật Mai-sen và lời dạy của các tiên tri trong Cựu ước, nhưng làm cho hoàn hảo và đầy đủ hơn.

Vì Chúa Giê-su dạy một số điều xem ra không đúng với luật Mai-sen và giáo huấn của các tiên tri theo lối giải thích của những người Biệt phái, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ Luật Mai-sen. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không hủy bỏ mà là kiện toàn chúng. Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoản luật đó trong tinh thần Cha – con.

2. Hôm nay, khi thấy Chúa Giê-su làm phép lạ trong ngày Sa-bat, giới lãnh đạo Do thái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Chúa Giê-su bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Chúa Giê-su lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Biệt phái: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay lời các tiên tri; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn (Mt 5,17).  Khi nói như thế, Chúa Giê-su muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.

3. Chúa Giê-su không phải là con người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do-thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Mai-sen truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ Lề luật, thì Chúa Giê-su lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giê-su tuân giữ Lề Luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho Lề Luật một tinh thần mới, tức là tình mến (Mỗi ngày một tin vui).

4. Ngay những năm đầu của lịch sử Giáo hội  đã xảy ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng có nguy cơ làm tan nát Giáo hội còn non trẻ : đó là có cần phải tuân giữ những truyền thống của Luật Mai-sen hay không. Luật giữ ngày hưu lễ có còn đòi buộc nữa không một khi người ta đã trở nên môn đệ của Chúa Giê-su? Đó cũng là những vấn nạn của mọi thời: trung thành bảo vệ truyền thống hay cách mạng đổi mới tận căn? Người ta nghĩ rằng đối với người môn đệ của Chúa Giê-su, mọi giáo huấn Cựu Ước không còn giá trị nữa. Chúa Giê-su đã trả lời: “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”.

Đối với Ngài, vấn đề không hệ tại ở việc bảo thủ một ý hướng cứng nhắc, cũng chẳng phải là lật đổ đổi mới, mà là trao ban cho quá khứ một sự sống mới. Vì đâu có phải mọi truyền thống đều tốt và nên bảo vệ cả đâu. Cũng chẳng phải hễ cái gì mới cũng quí cả đâu! Điều mà các bậc tổ tiên đã sống, đã hệ thống hóa  trong những thời xa xưa là điều đáng quí, nhưng chúng cần được Chúa Giê-su kiện toàn bằng cách lột bỏ sự khô cứng của Lề Luật (5 phút Lời Chúa).

5. Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy niên, chiếc nhẫn đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta đối với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc.

6. Truyện: Tiếng nói lương tâm của một vị vua.

Dạo tháng 04 năm 1990 để khỏi ký đạo luật cho phép phá thai do Quốc hội thông qua. Vua nước Bỉ đã từ chức trước đó hai ngày, vì với tư cách là Kitô hữu, lương tâm không cho phép ông ký nhận. Theo hiến pháp Bỉ, do sự từ chức của Nhà vua, Hội đồng Bộ trưởng sẽ thay nhà vua  để công bố đạo luật. Theo đạo luật này, nếu gặp khủng hoảng khó khăn và có chứng nhận của bác sĩ, người phụ nữ có quyền phá thai trong 12 tuần lễ đầu. Nhà vua từ chức được đúng hai ngày, Quốc hội tuyên bố việc từ chức của ông chấm dứt, và ông lại tiếp tục cai trị.

Một ông vua từ chức để một luật lệ bất nhân ra đời, đó là hình ảnh của luật pháp loài người: hoặc con người tìm kẽ hở của luật pháp để thủ lợi và hành động ngược với tiếng lương tâm, hoặc do con người nhân danh pháp luật để chà đạp người khác. Mục đích của luật pháp là  để phục vụ con người, do đó nếu luật pháp đi ngược lại con người và chối bỏ Thiên Chúa, thì lúc đó thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người (Mỗi ngày một tin vui).

                                                                   Lm. Giu-se Đinh Lập Liễm

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Barnaba, tông đồ 

 

Ca nhập lễ

Phúc cho vị thánh đã xứng đáng được liệt kê vào sổ các Tông đồ, vì Ngài là người tốt lành đầy Thánh Thần và đức tin.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Ba-na-ba là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa nhân loại về với Chúa. Xin cho mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm để trung thành loan báo Tin Mừng Ðức Kitô như thánh nhân đã can đảm rao truyền. Chúng con cầu xin… 

Bài Ðọc I: Cv 11, 21b-26; 13, 1-3

“Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đệ lần đầu tiên nhận tên là “Kitô hữu”.

Bấy giờ trong hội thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thư ấu, và Saolô.

Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: “Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định”. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3a. 3cd-4. 5-6

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ trước mặt chư dân (c. 2a).

Xướng: Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.

Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối nhà Israel..

Xướng: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng tôi. Toàn thể địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng hoan lạc và đàn ca.

Xướng: Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ râm ran: Hãy thổi sáo và rúc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua.

Alleluia:

Alleluia, alleluia! – Chúng con ca ngợi Thiên Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang của các Tông đồ ca ngợi Chúa. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 10, 7-13

“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.

“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.

“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin thánh hoá của lễ chúng con dâng, và ban cho chúng con lửa yêu mến nồng nàn xưa đã thiêu đốt lòng thánh Ba-na-ba và thúc đẩy thánh nhân đem ánh sáng Tin Mừng đến cho dân ngoại, Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng các Tông Ðồ

Ca hiệp lễ        

Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, nhân ngày lễ thánh Ba-na-ba tông đồ, Chúa đã ban cho chúng con bảo chứng của cuộc sống vĩnh cửu. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho chúng con một ngày kia được chiêm ngưỡng chính Ðức Kitô, Ðấng chúng con vừa đón rước trong mầu nhiệm thánh lễ này. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Suy niệm

LỜI CHÚA TRONG LỜI TÔNG ĐỒ

“Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Anh em hãy chữa lành người đau yếu.” (Mt 10,7-8)

Suy niệm: Chúa đòi buộc các tông đồ phải rao giảng lời của Chúa, để lời của các tông đồ rao giảng phải là lời của Thiên Chúa và phải được đón nhận như lời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội tiên khởi, thánh Phao-lô cho biết, các tín hữu đầu tiên đã ý thức và đón nhận lời các tông đồ rao giảng “không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy” (1Th 2,13). Vì thế, khước từ lời rao giảng Tin Mừng của các tông đồ cũng là khước từ lời rao giảng của Chúa Giê-su và khước từ những người Chúa Giê-su sai đến là khước từ chính Chúa Giê-su. Người ta không thể ngụy biện rằng, chúng tôi tin Chúa Giê-su và nghe lời Ngài, nhưng chúng tôi không nghe lời các tông đồ Chúa sai đến. Lối ngụy biện đó không có đất sống, vì lời Chúa đã nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy ; và ai khước từ các con là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16). Chính vì tầm quan trọng của lời rao giảng, các tông đồ được đòi hỏi phải trung thành với lời Chúa hơn.

Mời Bạn: Những lời rao giảng và khuyên bảo của các linh mục được bạn và gia đình đón nhận như thế nào? Như lời của Thiên Chúa hay như lời người phàm? Nghe những lời Chúa dạy hôm nay, bạn quyết tâm thực hiện điều gì?

Sống Lời Chúa: Lắng nghe lời các linh mục giảng dạy hay khuyên bảo và cám ơn Chúa đã gởi các linh mục đến coi sóc, chỉ bảo.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con có lòng kính trọng các linh mục và cầu nguyện cùng cộng tác với các ngài lo việc tông đồ như cộng tác với Chúa vậy

Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Từ thế kỷ XI lễ nhớ thánh Barnaba được cử hành ngày 11 tháng 6 tại Rôma. Ngày tháng này được thống nhất chung cho cả Đông Phương lẫn Tây Phương, kỷ niệm ngày tìm thấy thi hài của người. Kinh Nguyện Thánh Thể của Giáo triều Rôma nêu tên Barnaba cùng với Stêphanô và Matthias.

Trong Công vụ Tông Đồ, ngài được gọi là Joseph và biệt hiệu là Barnaba (người có tài yên ủi). Ngài là một thầy Lêvi, quê quán ở đảo Cypre, xứng đáng mang danh “Tông Đồ” trong Giáo hội tiên khởi. Ngài lấy tiền bán đất đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 37). Loan báo Tin Mừng ở Antiochia, thành phố thứ ba của đế quốc Rôma và đã tìm Phaolô thành Tarsus đến với cộng đoàn. Hơn một năm, ngài cùng Phaolô chuyên tâm rao giảng Tin Mừng cho cộng đoàn mới trong thành phố. Nơi đây, các tín hữu lần đầu tiên nhận danh hiệu “Ki-tô hữu”, nghĩa là “môn đệ của Đức Kitô” (tiếng Hy Lạp: Christianos).

Barnaba theo Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất (Cv13,2-4), đi khắp đảo Cypre và khắp bờ biển miền nam Tiểu Á. Nhưng sau Công đồng Giêrusalem, năm 49, Barnaba chia tay Phaolô để cùng người anh em họ Gioan Márcô trở lại đảo Cypre. Các tư liệu xưa cho chúng ta biết ngài đã qua Rôma và bị người Do Thái ném đá gần Salamine. Có lẽ người ta đã tìm thấy thi hài của ngài tại đó, vào thế kỷ V.

Truyền thống xem ngài là một trong bảy mươi môn đệ của Chúa và cho rằng ngài là tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái, cũng như Thư của Barnaba, có lẽ gửi từ Alexandrie. Ngược lại, chắc người ta đã đọc trong Giáo hội tiên khởi một bản Tin Mừng mang tên ngài, nhưng bản Tin Mừng này đã không đến tay chúng ta.

Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện nhập lễ lấy lại lời ca ngợi của Công vụ khi gọi Barnaba là “Người đầy ơn Thánh Thần và lòng tin”: Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnaba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin (Cv 11, 24).

b. Lời nguyện trên lễ vật nhắc đến “tình yêu nồng nàn đã thúc đẩy Barnaba chuyển trao ánh sáng Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo”. Trước lòng hăng say hoạt động Tông Đồ của Phaolô thành Tarsus, Barnaba không phải là người đứng bên lề do khiêm tốn giả tạo, nhưng ngài muốn dành cho Phaolô tác vụ rao giảng lời Chúa (Cv 14, 12 b). Còn về phần mình, ngài vẫn tiếp tục hợp tác, nêu gương sẵn sàng hy sinh phục vụ. Chính Barnaba là người đi tìm Phaolô ở Tarsus để đưa về Antiochia và cho hội nhập vào một cộng đoàn đang dè dặt nghi kỵ, trước khi cùng nhau đem Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo sống ở các bờ biển phía nam Tiểu Á.

c. Khi nhắc đến việc Đức Giêsu sai các Tông Đồ ra đi truyền giáo: Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước trời đã đến gần…, bài Tin Mừng Thánh lễ (Mt 10,7-13) cũng gợi lại tinh thần hành động của Hội thánh dựa trên ý muốn của Đấng sáng lập, như được mô tả trong Công vụ (xem bài đọc một: Cv 11, 21..13, 3): Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”. Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.

Như thế việc sai đi truyền giáo được thể hiện như một hành vi trang trọng của Hội thánh (kinh nguyện, chay tịnh, đặt tay…) dâng hiến con người để phụng sự Chúa.

Enzo Lodi

ĐƯỢC CHO KHÔNG – HÃY CHO KHÔNG
(THỨ TƯ - LỄ THÁNH BANABA 11/06) 
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Banaba hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Banaba là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa dân ngoại về với Chúa. Xin Chúa cho mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm mà trung thành loan báo Tin Mừng Đức Kitô, như thánh nhân đã can đảm rao truyền. Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkhia, nơi người đã giới thiệu ông Saolô thành Tácxô với các anh em. Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.

Dùng lời nói và việc làm mà loan báo Tin Mừng, kể lại những kỳ công Chúa đã làm cho ta, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Giôsuê nói về: Những kỳ công trong cuộc Xuất Hành lại tái diễn, vào lúc thực hiện lời đã hứa, Thiên Chúa làm lại dấu lạ Người đã làm nơi Biển Đỏ. Mỗi thế hệ đều được Người cho chứng kiến các dấu chỉ quyền năng và lòng thương xót của Người. Ítraen đã qua sông Giođan này ráo chân, vì Đức Chúa đã làm cạn sông, như trước kia Người đã làm cạn Biển Đỏ. Như thế, mọi dân trên mặt đất sẽ biết rằng tay Đức Chúa mạnh mẽ dường bao! Biển kia ơi, việc gì mà trốn chạy? Giođan hỡi, cớ chi chảy ngược dòng?

Dùng lời nói và việc làm mà loan báo Tin Mừng, bước đi trong ánh sáng và chiếu giãi ánh sáng cho thế gian, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Cơrômaxiô nói: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Khi đến Antiôkhia và thấy ơn Thiên Chúa, ông Banaba mừng rỡ. Ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Ông khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa.

Dùng lời nói và việc làm mà loan báo Tin Mừng, tin tưởng cậy trông phó thác vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Ông Banaba là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97, vịnh gia cho thấy: Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Chúa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, vì thế, ta hãy mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng, ta đã được cho không, thì cũng hay cho không như vậy. Chúng ta đã nhận được ánh sáng từ Đức Kitô, Người mời gọi ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Đức Kitô là Mặt Trời công chính, ta như những tia sáng rạng ngời, qua ta, Người tuôn đổ ánh sáng thông biết của Người xuống toàn cõi địa cầu. Quả vậy, ta phải chiếu giãi ánh sáng chân lý mà xua đuổi bóng tối lầm lạc ra khỏi lòng người. Ngọn đèn đức tin đã được thắp sáng, để ta dùng mà lo cho mình được ơn cứu độ, ngọn đèn ấy phải luôn cháy sáng trong ta. Ngọn đèn ấy chính là những huấn lệnh bởi trời và ân sủng thiêng liêng, mà ta đã được cho không, vậy ta hãy cho không như vậy. Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Banaba là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa dân ngoại về với Chúa. Ước gì ta dùng lời nói và việc làm mà trung thành loan báo Tin Mừng Đức Kitô, như thánh nhân đã can đảm rao truyền. Ước gì được như thế!

PowerPoint-t4-t10-TN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây