Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Ban Mê Thuột - 2020
Chiều ngày 9.11.2020, hơn 150 Linh mục Dòng và Triều, các Thầy phó tế, đang phục vụ tại Giáo phận Ban Mê Thuột, đã quy tụ về Tòa Giám mục (số 104 Phan Chu Trinh, TP.BMT) để tham dự Tuần Tĩnh Tâm thường niên 2020 của hàng Giáo Sĩ.
Tuần Tĩnh Tâm khai mạc vào lúc 16g30, Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu, Linh mục Tổng Đại Diện, thay mặt Linh mục đoàn cảm ơn Đức Cha Giáo phận đã chăm lo hết mình cho đời sống tâm tinh, tinh thần của anh em linh mục và trong dịp này, đã mời Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, đến hướng dẫn thiêng liêng.
Đáp từ, Đức Cha Vinh Sơn -Giám mục Giáo phận, tỏ ra hết sức vui mừng vì các Cha đã có mặt đông đủ. Điều đó chứng tỏ rằng Quý Cha ý thức sâu sắc về sự quan trọng và cần thiết của Tuần Tĩnh Tâm, sự ưu tiên dành cho việc đầu tư năng lượng thiêng liêng. Bởi, không có những giây phút hồi tâm, các linh mục sẽ đánh mất sức bật nội tâm, trở nên trống rỗng và chao đảo định hướng.
17g15, Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu, Linh mục Tổng Đại diện, chủ sự Chầu Phép lành Mình Thánh Chúa Giêsu, khai mạc Tuần Tĩnh Tâm.
19g15, Linh mục đoàn Lần hạt Kinh Mân Côi. Đức Cha Vinh Sơn chủ sự nghi thức viếng mộ hai Đức Cha cố Giuse. Sau đó, bắt đầu giờ tĩnh tâm theo chương trình do Đức Cha Louis hướng dẫn.
Trong những ngày tĩnh tâm, Đức Cha Louis sẽ trình bày về đời độc thân Linh mục, gồm 7 bài:
1. Tất cả đều có đôi
2. Tính dục mầu nhiệm
3. Khám phá lại thân xác
4. Độc thân như một đề nghị từ Tin Mừng
5. Độc thân như một dấn thân của đời linh mục
6. Mẻ lưới rỗng và mẻ lưới đầy
7. Chỉ tình yêu của Đức Kitô thúc bách.
Phần hướng dẫn thiêng liêng tối hôm nay, ngài trình bày Bài thứ nhất: Tất cả đều có đôi.
“Tất cả đều có đôi, cái này đối cái kia; / Người không làm gì dang dở./ Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, / nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được?” (Hc 42, 24-25).
“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1, 26).
Ađam được tạo dựng theo hình ảnh Đức Kitô vì Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1, 15).
(xem Tài liệu)
VHTT-GP.BMT
Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Ban Mê Thuột
Ngày 10.11.2020
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm nay (2020) bước sang ngày thứ hai. Thánh lễ đồng tế cử hành vào lúc 5g sáng do Đức Giám mục Giáo phận chủ sự; Cha GB. Hồ Quang Lâm, CSsR chia sẻ sau Phúc Âm. Giờ chầu Thánh Thể cử hành vào lúc 17g00 chiều do Cha Giuse Nguyễn Văn Thiện, O.Cam, chủ sự.
Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, tiếp tục đồng hành với các linh mục Ban Mê Thuột trong Tuần Tĩnh Tâm qua những bài hướng dẫn thiêng liêng: “SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU” VÀ ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC.
Bài 2: TÍNH DỤC MẦU NHIỆM
Con người được tạo dựng có nam có nữ. Hai người khác giới nhưng cùng là một bản tính người. Nhân tính họ có chung ấy là căn tính (identity) của con người. Còn giới tính nam và nữ khác biệt là dị biệt tính (difference). Họ có chung một căn cước lưỡng tính được biểu lộ ra là một người nam hoặc một người nữ.
Tại sao lại có sự khác biệt nam nữ ấy? Ý nghĩa của sự dị biệt giới tính là gì? Giới tính làm nên sự khác biệt. Dị biệt giới tính là một giới hạn của con người. Chính sự giới hạn bởi dị biệt giới tính này làm nổi bật hình ảnh của Thiên Chúa trong mối quan hệ nam-nữ.
Tính dục: một cơ hội để tương quan
Dị biệt tính dục mở ra với truyền sinh (dị biệt thế hệ) - Nhờ tính dục phong nhiêu, quan hệ hôn phối mở rộng ra với một mối quan hệ sau cùng, là con cái. Tính dục mở ra với sự sống. Tặng phẩm sự sống được tích hợp trong tặng phẩm người nam trao hiến cho người nữ, và ngược lại.
Sự dị biệt nam-nữ là mầu nhiệm khôn dò - Sự dị biệt tính dục nam-nữ không những là khác biệt nhau, nhưng còn là một bí ẩn, là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm khôn dò.
Ý nghĩa của hành vi phu thê. Trong hành vi vợ chồng vốn có tính bổ túc vừa tương hỗ vừa giao thoa, hai người giới tính khác biệt nhau - một nam một nữ - với thân xác và nhờ thân xác có phân giới của họ, mà họ gặp lại được mình trên cơ sở cùng một bản tính nhân loại trong tình yêu thương phu thê hiệp nhất.
Hành vi vợ chồng là nền tảng cho hai sự dị biệt, và từ đó, cho cả đôi bạn, gia đình, xã hội, và toàn thể nhân loại. Hành vi vợ chồng là nền tảng thiết yếu bảo đảm cho người nam và người nữ kết hợp trong hôn phối nên một xương một thịt, tiếp tục phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei).
Bài 3: THÂN XÁC MỘT TẶNG PHẨM TÌNH YÊU
Thiên Chúa đã muốn làm cho Mầu nhiệm của Ngài trở nên thấy được đối với chúng ta, nên Ngài đã ghi dấu nó vào trong thân xác chúng ta bằng cách tạo dựng chúng ta có nam có nữ theo hình ảnh của Ngài (St l, 27).
Từ các chương đầu của sách Sáng thế và suy tư thần học về thân xác của đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho thấy:
Thân xác con người có tính biểu tượng
Con người là một hữu thể hợp nhất, kết hợp cái hữu hình và cái vô hình. Hai chiều kích thấy được và không thấy được này tồn tại và tạo nên một nhân vị. Thân xác con người là vật mang vác cái vô hình.
Đó chính là vai trò của một biểu tượng, nghĩa là: làm cho cái vô hình hiện diện, trở nên hữu hình. Biểu tượng kết hợp thế giới hữu hình và thế giới vô hình lại thành một thực thể duy nhất.
Thân xác có “ý nghĩa hợp hôn”
Ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông hiểu có cái gì khác biệt ở đây. Một thân xác con người khác đang có đó sẵn sàng thiết lập cùng ông một mối quan hệ thân mật. Nàng là một bổ túc cho ông. Điều đó có nghĩa là họ có thể trở nên “một”.
Đàn ông và đàn bà hấp dẫn lẫn nhau. Có hấp dẫn thể xác bên ngoài mà cũng có hấp dẫn tinh thần từ bên trong. Họ kết hôn và hợp hoan nên một. Hành động ấy vừa thuộc thể xác vừa thuộc tinh thần, bởi thân xác con người có tính biểu tượng.
Thân xác con người có tự do nhưng trong tình trạng yếu đuối vì sa ngã
Trước khi phạm tội, thân xác con người hay nhân vị vốn tự do, nghĩa là không bị nô lệ cho tội lỗi cùng những dục vọng của nó. Tự do ấy của thân xác là sự tự do của tặng phẩm dành trao hiến cho nhau, như đã nói trên đây, và là nền tảng cần thiết để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Không có tự do, người nam và người nữ không thể trao ban cũng không thể đón nhận tình yêu.
Thế nhưng, thân xác của con người đã bị tội lỗi làm ảnh hưởng. Thân xác không là nguyên nhân của tội. Nhưng vì chúng ta là hữu thể thống nhất của hồn và xác, và tội lỗi xuất phát từ sự lạm dụng tự do vốn thuộc lãnh vực tâm linh, nên thân xác bị ảnh hưởng.
Hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là cái chết. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để chết. Sự chết không có ý nghĩa gì cả. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Ngài muốn chúng ta được sống, và sống viên mãn. Như sách Khôn Ngoan đã viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1, 13-14).
Nhưng thân xác con ngươi đã được Đức Kitô cứu chuộc
Nhưng tất cả không bị đánh mất. Đức Kitô, nhờ cái chết và sự phục sinh của Người, khôi phục lại cho chúng ta ý nghĩa của cuộc sống và thân xác con người. Thân xác Người đã bị đóng đinh. Bởi cái chết thể lí của Người, thân xác chúng ta được “phục hồi”.
Kết
Thân xác chúng ta và chính chúng ta được tạo dựng để yêu thương, chứ không để phục lụy dục vọng thấp hèn. Như thế, chúng ta khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm rằng thân xác là để tương giao hơn là để cho khoái lạc tính dục. Tính dục chỉ quan trọng trong mức độ khi nó phục vụ cho sự tương giao.
VHTT-GP.BMT
[1] LACROIX, Le corps retrouvé, op. cit., 92 (bản dịch tiếng Ý), 263.
[2] SANT’AGOSTINO, Enchindion de fide, spe et caritate, VII, 22.
[3] GIOAN PHAOLO II, Thần học về thân xác. op. cit., 170: toàn thể cấu trúc bên ngoài của thân thể người phụ nữ, sắc đẹp riêng của họ, những phẩm chất với sức hấp dẫn luôn luôn vốn hiện diện ở khởi đầu của “cái biết”: mà St 4, 1-2 nói tới, đều liên kết chặt chẽ với mẫu tính. [...]. “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy” (Lc 11, 27). Đó là những lời ca tụng mẫu tính, nữ tính, thân xác người nữ, và là diễn tả tiêu biểu của tình yêu sáng tạo”.
[4] HADJADI. Mistica della carne, op. cit., 164: “Cái gì chạm vào xác thịt tôi cũng chạm sâu xa vào linh hồn tôi. Dấu ấn đó có thể có một âm hưởng thiêng liêng còn lớn hơn các kết luận luận lí của lời lẽ tôi nói. Nhưng âm hưởng này lại hoạt động âm thầm trong bóng tối, trong khi tư tưởng bởi suy tư phản tỉnh thì được sáng tỏ phần nào đó”.
Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Ban Mê Thuột
Ngày 11.11.2020
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm nay (2020) bước sang ngày thứ ba. Thánh lễ đồng tế cử hành vào lúc 5g sáng do Đức Giám mục Giáo phận chủ sự; Cha Vicente Phạm Tiến Duẩn, OP, chia sẻ sau Phúc Âm. Giờ chầu Thánh Thể cử hành vào lúc 17g00 chiều do Cha Đa Minh Nguyễn Đức Duy, OMI, chủ sự.
Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, tiếp tục đồng hành với các linh mục Ban Mê Thuột trong Tuần Tĩnh Tâm qua những bài hướng dẫn thiêng liêng: “SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU” VÀ ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC.
Bài 4: ĐỘC THÂN NHƯ MỘT ĐỀ NGHỊ TỪ TIN MỪNG
1. Chúng ta sẽ suy tư về đề tài liên hệ đến chúng ta rất sâu xa và quyết liệt: độc thân. Chúng ta sẽ lần lượt nói về sự độc thân như một lời đề nghị từ Tin Mừng và rồi độc thân như một sự dấn thân sống chức linh mục.
Một đặc sủng biệt lệ
2. Độc thân tự nguyện và hôn nhân cả hai đều là những hồng ân tốt đẹp và đáng quí về mặt thiêng liêng. Thánh Phaolô nói: “Mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, người thế này kẻ thế khác” (1Cr 7, 7).
Độc thân bởi tự do chọn lựa vì Tin Mừng là một đặc sủng (chàrisma), nghĩa là một ơn của Chúa ban cho cá nhân nhằm lợi ích của cộng đồng.
3. Đức Giêsu nói về chuyện độc thân (“hoạn”) có một sức diễn đạt kì lạ: “Có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).
Vì Nước Trời
4. “Vì Nước Trời”
“Nước Thiên Chúa” hay “Nước Trời”, theo ngôn ngữ của Phúc âm, là một thực tại vừa mang chiều kích cánh chung vừa mang chiều kích Giáo hội. Độc thân vì Nước Trời trước hết như là một lời tiên tri loan báo trước thế giới tương lai, thế giới của phục sinh, khi “người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22, 30).
Để cứu vớt đời sống tính dục
5. “Chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” đời sống độc thân dâng hiến, vốn đã được Hội Thánh đón nhận và tôn vinh, đối với toàn thể thế giới cổ đại là một điều hoàn toàn mới mẻ, và một cách nào đó, còn là một “gương xấu”.
Dấu hiệu sự hiện diện của Đức Vua
6. Trong Thánh thi Giáng sinh thánh Ambrôsiô khẳng định rằng chính sự đồng trinh của Đức Maria là bảo chứng khách quan cho tính hiện thực của phép lạ Nhập Thể: “Talis decet partus Deum”[1] [sinh hạ (đồng trinh) như thế phù hợp với Thiên Chúa].
Hướng đến sự độc thân linh mục
7. “Đặc sủng của ơn gọi linh mục, vốn nhằm đến phụng tự và phục vụ việc tôn giáo và mục vụ của Dân Thiên Chúa, thì khác với đặc sủng độc thân của đời sống thánh hiến”.[2]
Bài 5: ĐỘC THÂN NHƯ MỘT DẤN THÂN CỦA ĐỜI LINH MỤC
Đức Kitô Tân Lang
1. Thắc mắc đầu tiên của chúng ta là: tại sao Đức Giêsu ở độc thân? Tại sao Người không kết hôn, dù đã đến tuổi trưởng thành lâu rồi và lại đang sống trong một xã hội người ta vốn không có tập tục sống độc thân?
Đức Giêsu rõ ràng sống độc thân, thực ra theo nghĩa tuyệt đối Người là một “Tân Lang”: Người không kết hôn vì đã kết hôn rồi.
2. Thánh Phaolô nhìn thấy “bản chất thần học” của hôn nhân Kitô giáo nơi “mầu nhiệm” hôn phối của Đức Kitô và Hội Thánh (cf. Ep 5,32), nghĩa là biểu trưng và sự hiện diện của ân sủng thực tại hôn phối tối thượng kết hợp Đức Kitô và Hội Thánh thành “một xương một thịt”. Từ phân tích này của Thư Êphêsô cho ta hiểu ý nghĩa của sự độc thân của Đức Kitô.
Ý nghĩa hôn phối của Đức Kitô
3. Câu hỏi thứ hai được đặt ra là: Đức Kitô là Hôn Phu của Hội Thánh được hiểu như thế nào?
Là Hôn Phu có nghĩa là Đức Kitô là “Đầu” của Hội Thánh, và Hội Thánh là thân mình của Người và tùng phục Người (cf. Ep 5, 23.24).
Như chúng ta thấy, bản tính hôn phu của Đức Kitô gợi ra tất cả những chức năng như “hướng dẫn”, “dạy dỗ”, “thánh hóa”, “chăn dắt”. Đó là các nhiệm vụ, theo chứng cứ của Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu đã trao lại cho các kẻ “Người sai đi” trong lệnh truyền sau cùng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19.20). Đó cũng chính là các nhiệm vụ đã được ủy thác cho chức linh mục.
Linh mục, bí tích của Đức Kitô Hôn Phu
4. Linh mục thừa tác làm Chúa Giêsu hiện diện giữa Dân Chúa và dược nhận biết qua những phận vụ vương đế, giảng dạy và phụng tự của Người. Vì thế chức linh mục thừa tác, nhờ bí tích truyền chức, về bản thể, tham dự vào đặc tính hôn phu của Đức Kitô.
5. Kết luận này được xác nhận trong Giáo luật: tất cả các Giáo hội, dù Tây phương hay Đông phương, đã bảo tồn một chiều kích bí tích thật sự, đều cùng nhau không nhìn nhận thừa tác viên thánh chức (phó tế, linh mục, giám mục) có thể kí kết hôn nhân.
6. Giờ đây, có lẽ đối chiếu bậc độc thân như lời đề nghị lừ Tin Mừng và sự độc thân như một dấn thân của đời linh mục sẽ ích lợi cho chúng ta.
Lối sống thứ nhất, vượt qua nẻo đường thông thường của hôn nhân, là một cách thức sống đặc biệt mầu nhiệm tình yêu mà Hội Thánh nuôi dưỡng vì Chúa của mình. Còn lối sống thứ hai được hình thành như là sự tham dự vào phận vụ hôn phu của Đức Kitô đối với cộng đoàn Kitô hữu, và được biện chính và nâng đỡ bởi tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh.
Những điều kiện của sự trung thành
7. Trong viễn cảnh đó, ta có thể hiểu được rõ ràng những điều kiện tiên quyết và thiết yếu để vẫn mãi trung thành với “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô”, nhất là từ phía các thừa tác viên chức thánh. Những điều kiện ấy phát sinh từ một động thái mà chúng ta có thể gọi là “tâm lí học siêu nhiên”.
Điều kiện thứ nhất là làm sao để biết Chúa Giêsu rõ ràng, chắc chắn và không ngừng, làm sao để cho tình yêu cá nhân của tôi dành cho Người luôn sống động và tăng trưởng.
Điều kiện thứ hai là biết nhận ra vẻ đẹp của Hội Thánh (dĩ nhiên với con mắt đức tin, cũng chính là cái nhìn của Đức Kitô trở thành của chúng ta).
Điều kiện thứ ba là quyết tâm muốn yêu mến (hay ít là cố gắng yêu thương mỗi ngày) con người với tâm hồn của Chúa Giêsu, Người nhìn con người như hình ảnh biến dạng của Chúa Cha và muốn phục hồi họ và cứu độ họ;
8. Đối với thế gian và lí trí không cởi mở để được ân sủng trên cao khai sáng thì độc thân như là “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” như thế xem ra quá cao vời đối với tầm mức nhân bản và không thực tế. Người ta không tin một lí tưởng độc thân theo Tin Mừng và độc thân của người Tông đồ như thế có thể thực hiện được trong thế giới này.
Cuộc sống của Chúa Giêsu và của Đức trinh nữ Maria - và việc chúng ta kết nối sống động với các mẫu gương cao cả và hiệu quả này của lòng quảng đại - có thể được hiện tại hóa cho thế giới hôm nay, bởi “sự hiện diện của Đức Kitô” nơi “những người được Thiên Chúa ban cho” (cf. Mt 19, 11).
VHTT-GP.BMT
[1] SANT’AMBROGIO, Inno In Natali Domini.
[2] Paolo IV, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, 15, 24/06/1967.
Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Ban Mê Thuột
Ngày 12.11.2020
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm nay (2020) bước sang ngày thứ tư. Thánh lễ đồng tế cử hành vào lúc 5g sáng do Đức Giám mục Giáo phận chủ sự; Cha Gioan Vianey Ngô Hồng Phúc, SVD, chia sẻ sau Phúc Âm.
Hôm nay, Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, tiếp tục hướng dẫn thiêng liêng 2 bài cuối: “SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU” VÀ ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC.
Bài 6: MẺ LƯỚI RỖNG VÀ MẺ LƯỚI ĐẦY
Cần một lý tưởng
1. Chúng ta để ý tới tâm trạng của 7 người môn đệ trong trình thuật Ga 21,1-11. Họ không còn thất vọng nhưng đã thấy vui mừng vì được gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh. Mỗi người đã lấy lại được niềm tin, cậy và sự thanh bình. Thế nhưng, họ vẫn còn loạng choạng chưa có được một định hướng và dự phóng nào trong tư thế như là của một Hội thánh.
2. Các môn đệ này dù đã nghe Đấng phục sinh nói: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21), tức là đã có một “sứ vụ”, nhưng như đang ở trong đám mây mù dày đặc họ chưa thấy trong thực tế con đường phải đi. Chúng ta cũng đôi khi rơi vào tâm trạng này, mong chờ “những dấu chỉ” chỉ đến điều cần phải làm cụ thể. Khi gặp phải kinh nghiệm này ta cần cầu nguyện, xin Chúa cứu gỡ ta khỏi sự nóng vội mất kiên nhẫn, ngã lòng, cám dỗ buông mình cho tính bốc đồng, hay cứ ngần ngại mãi.
Sự hiệp thông Hội thánh là điều quan trọng
3. Simon Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21, 3). Đó là một sáng kiến cá nhân chỉ liên hệ đến bản thân Simon, với lời nói đó ông không thi hành một quyền bính nào và không áp đặt quyền uy trên ai cả. Những người bạn kia đáp lại: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Trong khi không biết làm gì, họ chỉ theo đuôi cùng tham gia với Simon. Kết quả của lối hành động tự do độc lập này là “họ không bắt được gì cả”. Họ là những người chuyên nghề thuyền chài, ở đây xem ra họ có vẻ hành động bộc phát và tài tử nhưng không có Chúa Giêsu ở cùng, họ không có một khởi nguyên qui tụ lại trong một mối hiệp thông duy nhất.
Chiếc lưới không rách
4. “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6). Ở đây họ có Chúa Giêsu, Người truyền lệnh và họ làm theo, kết quả là: “họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”. Cả Simôn Phêrô cũng thay đổi: “ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ” (Ga 21, 11). Simôn bây giờ không còn chỉ là một cá nhân tự mình hành động, mà là một Phêrô thủ lãnh hành động với quyền bính và quyết định thay mọi người. Ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó có Hội Thánh cùng với các thừa tác viên với những trách nhiệm được giao phó; và ở đâu có Hội Thánh thì ở đó có sự phong nhiêu, nghĩa là sự sống triển nở dồi dào.
5. “Lưới không bị rách” (Ga 21, 11): một sự may mắn chăng? Vì lẽ ra lưới vốn vô dụng ấy phải rách vì đầy cá như thế trong lần đánh bắt thứ hai nhọc nhằn đến kiệt sức sau một đêm.
Câu phúc âm ấy mang một ý nghĩa biểu tượng rõ ràng: cho dù sứ vụ được giao phó có lớn lao và không tương xứng với tầm vóc và sức lực nhỏ bé của mình, Hội Thánh vẫn cố gắng kiên trì đảm nhận, và sau cùng sẽ là khí cụ hữu hiệu mang ơn cứu độ cho con người.
Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh
6. “Chúa đó” (Ga 21, 7) người môn đệ Chúa yêu mến đã hứng khởi thốt lên như thế lập tức chạm tới Phêrô và lan đến những người khác. Họ không chỉ nhận ra Đức Giêsu mà còn nhận ra Người như là “Đức Chúa”, nghĩa là Đấng duy nhất mà họ phải vâng phục tuyệt đối và vô điều kiện.
Chúa Giêsu đứng đó, trên bờ hồ trước mắt họ, cả trong thời gian các ông thực hiện mẻ lưới thất bại cũng như trong lúc diễn ra mẻ cá phong nhiêu. Như đã thấy, trong mẻ lưới đầu tiên các ông thực hiện theo tư cách cá nhân, dựa trên sáng kiến riêng tư; còn trong mẻ lưới thứ hai, các vị đã vâng theo lời mời gọi của Đức Kitô. Trong việc thứ nhất, các ông chỉ là một nhóm người như mọi tập thể con người; trong công việc thứ hai họ là một cộng đoàn Giáo hội.
Một điều quan trọng nữa, đó là: trong công việc thứ nhất, khi không là Giáo hội họ không nhận ra sự thật Chúa Giêsu hiện diện (“họ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu”, c. 4); còn trong công trình thứ hai, khi đã là Hội Thánh Chúa các ngài nhận ra Người: “Chúa đó!”.
Bài 7: CHỈ TÌNH YÊU THÁNH THỂ THÚC BÁCH
1. Bữa ăn sáng trên bờ biển hồ Tibêriat của Chúa Giêsu Phục sinh với các môn đệ được Tác giả Phúc âm thứ tư mô tả với ám chỉ rõ ràng đến bữa tiệc Thánh Thể (Ga 21, 9-19).
Thức ăn ở đây là bánh và cá, giống như trong đoạn nói về dấu lạ bánh hóa ra nhiều của Phúc âm Gioan chương 6 dẫn vào bài giáo lí căn bản về đề tài “Bánh hằng sống” (Ga 6, 35) và “Thịt ban cho thế gian được sống” (Ga 5, 51). Phần thứ nhất của chương 21 này gợi cho ta suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa như là yếu tố căn bản làm nên Hội Thánh và sự thuộc về Hội Thánh là điều kiện cốt yếu để ta được phát sinh hoa quả dồi dào (phong nhiêu).
2. Trên bờ biển Chúa Giêsu đang chờ các ngư phủ trở về với bữa ăn chuẩn bị sẵn: “các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” (Ga 21, 9). Nhưng Người muốn họ mang đến cho Người những gì họ kiếm được bằng sức của con người: “Đem ít cá mới bắt được tới đây” (Ga 21, 10); đó là cá bắt được từ sáng kiến của Người, và là ơn huệ bởi lòng nhân lành của Người.
Ta thấy ở đây có một qui luật trong mầu nhiệm Thánh Thể. Lễ vật trên đôi tay của chúng ta, làm hi lễ dâng lên Chúa, là bánh và rượu vật chất của chúng ta. Ơn ban khôn tả của Chúa có phần khởi đầu thiết yếu là từ những sản phẩm nghèo nàn của ruộng đất và lao công của con người mà chúng ta đem đặt dưới quyền năng biến đổi của Thánh Thần. Nói cách khác, hiến lễ mà chúng ta dâng lên cho Chúa Cha là “của ơn huệ Ngài ban cho chúng ta” (“de tuis donis ac datis”) do lòng nhân hậu của Ngài.
Tình yêu thống hối của Phêrô
3. Toàn thể chương 21 của Phúc âm thứ tư trình bày khuôn mặt của Simon Phêrô. Vị Tông đồ tiêu biểu cho nhiều bộ mặt. Tiêu biểu cho một con người tội lỗi được tình yêu cứu vớt; qua ngài ta nhận ra bản tính của mọi hành động mục vụ trong Hội Thánh; tầm quan trọng của đoàn sủng và phận vụ ưu việt của Phêrô trong đời sống Hội Thánh.
Trong đoạn đối thoại giữa Chúa Giiêsu và Phêrô, với câu hỏi Người hỏi tới ba lần, có một sự ám chỉ rõ ràng và chua chát về ba lần Phêrô chối Thầy. Vị Tông đồ biết điều đó và cảm thấy đau đớn vô cùng: “Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 17).
Trong cái đêm chết chóc ấy Đức Giêsu đã ngoái nhìn Phêrô sau khi chối Thầy đã khiến ông khóc thảm thiết, trong niềm cay đắng. Hình phạt ấy chẳng bao lâu sẽ biến thành niềm vui: vui mừng vì thấy mình được tha thứ. Đó là niềm vui của kẻ tội lỗi nhận ra tội lỗi của con người không bao giờ mạnh hơn Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Niềm vui khám phá ra rằng trong người Kitô hữu không có một lỗi tội nào, dù lớn đến đâu, mà không thể được tha thứ và xóa bỏ bởi tình yêu vì Chúa Giêsu.
Sứ vụ mục tử của Phêrô
4. Phêrô được Đức Kitô đặt làm mục tử. Trong chương Mười cũng của Phúc âm thứ tư này, Đức Giêsu xác định và giải thích Người là “Mục tử nhân lành”, như thế Người tuyên bố mọi người trong Hội Thánh (từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất) đều là con chiên của Người và phải cảm thấy mình thuộc về đàn chiên ấy. Nhưng ở đây đề tài được trình bày rộng hơn nữa về mầu nhiệm “tham dự vào sứ mạng mục tử”; nghĩa là về mầu nhiệm một con người, dù vẫn là con chiên như tất cả mọi người thuộc đàn chiên của Đức Kitô, vẫn tùng phục Người nhưng được đại diện Người, trở thành mục tử. Ở đây Đức Giêsu nói: “các chiên con của Thầy”, “các chiên của Thầy”; nhưng Người cũng nói: “hãy chăn dắt”. Đàn chiên luôn tuyệt dối thuộc về Chúa; nhưng Người gọi một số người trong “đàn” làm nhiệm vụ của mục tử.
Vai trò tối thượng của Phêrô
5. Ta thấy cho tới nay Phêrô là hình ảnh tiêu biểu cho mọi tín hữu và mục tử. Những vẫn còn một điều quan trọng nữa, đó là: chỉ một mình Phêrô được Chúa nói: “hãy chăn dắt các chiên của Thầy”. Rõ ràng tác giả Phúc âm có ý nêu ra cho cộng đoàn Hội Thánh sứ vụ đặc biệt và độc nhất của Phêrô, là một sứ vụ nổi bật và đứng trên giữa sứ mạng tông đồ nói chung của Nhóm Mười Hai. Bởi thế mà Phêrô được Chúa hỏi: “Anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” (Ga 21, 15).
6. Như ta thấy, từ Lời Chúa chúng ta một lần nữa được thúc đẩy tái khám phá dấu lạ về Hội Thánh. Hội Thánh khởi dầu từ việc người ta đi theo Đức Kitô. Lời Chúa kêu gọi Phêrô: “hãy theo Thầy”, cũng hướng tới mỗi người, những người không khép lòng mình lại trước lời mời gọi hấp dẫn của chân lí tuyệt đối và vẻ đẹp của vĩnh cửu. Nhưng trước hết, lời ấy hướng đến chúng ta, là những người được mời gọi thực thi sứ vụ của các Tông đồ. Chính vì Chúa Giêsu vẫn còn làm cho tâm hồn ta say mê và hấp dẫn, nên Hội Thánh, dù có như thế nào, cũng luôn được bền vững và tươi trẻ mãi.
Từ trái tim Chúa Cha đổ tràn lòng Thương Xót của Ngài xuống trên chúng ta. Mỗi ngày chúng ta hãy nài xin lòng Thương Xót ấy được chúng ta đón nhận vào thực tế cuộc sống và thúc bách chúng ta dấn thân làm việc và hiến dâng (theo lôgich mầu nhiệm sâu xa của Thánh Thể mà chúng ta cử hành hằng ngày) cho thế gian được sống.
Giờ chầu Thánh Thể và tuyên hứa linh mục cử hành vào lúc 16g30 chiều do Đức Cha Giáo Phận, chủ sự. 19g30, Đức Cha Giáo phận gặp chung Quý Cha.
VHTT-GP.BMT
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn