Với trách nhiệm năng nề đặt trên vai cụ già, Trước một thế lực binh đao, hùng mạnh đang càn quét. Cụ già với trách nhiệm không thể thoái lui, cùng với một người nữa mới được tuyển về từ Đa mát, đặt nền móng cho triều đại không binh đao, không vũ trang, xây bằng đức tin. Thật là công việc lấy trứng chọi đá. Chúng ta dành ít thời gian đọc lại phần nào tác phẩm “Quo vadis, Domine”, tác giả Henrik Sienkiewicz để suy gẫm.
Cụ già Phê rô:
Trong tác phẩm “Quo Vadis, Domine” tác giả Henrik Sienkiewicz, được lấy từ cảm hứng câu truyện về thánh đường Quo vadis, khi ông đến viếng. Lúc ấy thành Roma sau khi bị đốt cháy bởi nhà vua Neron bạo chúa, đang giết hại những người Kitô giáo. Thành đô tan hoang, Phêrô cùng vài người nữa bỏ thành ra đi. Một người đi ngược chiều vào thành, vai vác cây thập gía, làm Phêrô bối rối, hỏi người vác thập giá” Quo vadis? Domine!” Thưa Ngài, Ngài đi đâu? Đó là tựa đề của câu truyện.
Trong câu truyện thuật lại hai con người Neron và Phêrô gặp nhau qua cái nhìn: “Và khi đó những ngón tay của ngài liền đặt ngay viên ngọc bích đánh bóng lên mắt để nhìn cho rõ và nhớ mặt kẻ nào đã phát ra những tiếng kêu ấy. Chính bằng cách đó, cái nhìn của Hoàng đế chợt dừng lại ở Đức Sứ đồ đang đứng trên tảng đá cao. Trong chớp mắt hai con người ấy nhìn nhau, song không một ai - cả kẻ đang ở trong đám rước tuyệt vời kia lẫn người đang ở trong đám đông đảo nọ - lại nghĩ rằng đó là giây phút đọ nhãn quang của hai vị chúa tể trái đất, một kẻ ngay sau đó sẽ biến đi như một giấc mơ đẫm máu, còn người kia - chính cụ già mặc chiếc áo thô kệch nọ - sẽ chiếm lĩnh đến muôn đời sau cả thế gian lẫn cái thành đô này.” (Chương 36).
Một vương quốc của những con người nhỏ bé trước những hàm răng của thú dữ Những dây trường xuân quấn quanh cây khổ giá treo những thân thể đang bị đốt cháy. Điều làm cho nhà vua, triều đình và mọi người khiếp sợ, đó là những bài ca đang vang lên giữa ngọn lửa: “Christus Regnat!”.
Vương quốc cụ già xem ra yếu đuối, ngay cả trước cái chết cũng chẳng có đạo binh nào đến cứu, chỉ thấy một bàn tay của cụ già đứng từ trên cao của đấu trường La mã, đưa lên chúc phúc cho những người tuẫn đạo. Như một lời giã từ, hẹn gặp lại ở một vương quốc tình yêu trường tồn.
Cụ già Phaolô. Một cái vấp làm nên vị thánh.
Trong tác phẩm vừa đẫm máu nhưng lại vừa ghi lại trang sử của tình yêu cao đẹp giữa Vinixius và Ligia, được Phaolô chúc phúc hôn nhân. Họ cũng trải qua những thử thách, dường như mất Ligia dưới sức mạnh của con bò rừng, hung hãn. Khi Urxus đang vật lộn với con thú dữ muốn xé xác Ligia. Lúc ấy trên khán đài Vinixius không ngừng kêu lên “Lạy Chúa, con tin, con tin!” (Chương 66).
Trong kinh nghiệm của đời sống hôn nhân, khi gắn bó với nhau, họ cảm nghiệm được tình yêu là vĩnh cửu, họ sẽ bước qua mọi nghịch cảnh và ngay cả cái chết. Tình yêu có sức mạnh diệu kỳ, đủ để thay đổi mọi hoàn cảnh. Hãy yêu thương, tình yêu là vĩnh cửu của hai người dành cho nhau cứu vớt chính gia đình của mình và tình yêu nhân loại.
Cuối cùng, UrXus đã bẻ gẫy cổ con bò rừng, Chúa đã trả Ligia về cho Vinixius. Sự chết không thể chiến thắng được tình yêu. Chỉ có tình yêu là vĩnh cửu. Trong tình yêu chính Phaolô cũng đã thâm tín rằng: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 38 – 39).
Hai cái chết của những con người vĩ đại.
Tình yêu vượt qua sợ hãi. Cả hai Tông Đồ Phêrô và Phaolô, đều chứng kiến những tín hữu của mình ra đi trong khúc khải hoàn ca.
Phêrô trước khi rời thành Roma, Phêrô cảm thấy đau xót vì chính mình, khi những người tín hữu đã chết, còn ngài lại bỏ thành ra đi. Đau khổ suốt đêm, Phêrô cầu nguyện: “Chúa ơi, phải chăng không phải chính Người đã bảo tôi phải tới đây để dựng nên thủ đô của Người trong cái ổ Dã Thú này?
Suốt ba mươi tư năm ròng từ khi Chúa qua đời, ông không biết thế nào là nghỉ ngơi. Với chiếc gậy trong tay, ông đã đi khắp thế gian để thuật lại cái “tin lành” kia. Sức khoẻ của ông đã bị cạn kiệt đi trong những chuyến đi và những nỗi lao lung, và rốt cuộc, khi tại thành phố này, thành phố đầu não của thế giới, ông đã củng cố được công trình của Thầy, thì chỉ một hơi thở lửa của sự dữ đã thiêu trụi nó đi, để ông lại phải bắt đầu cuộc chiến đấu từ đầu. Mà cuộc chiến đấu thế nào kia chứ? Một bên là Hoàng đế, viện Nguyên lão, dân chúng, những chiến đoàn đang đóng vành đai sắt trên toàn thế giới, những thành quách nhiều không tính xuể, những đất nước nhiều không đếm xiết, thế lực mà mắt người chưa từng thấy; còn bên kia là ông, bị tuổi tác và lao lung đè trĩu đến nỗi đôi bàn tay run rẩy của ông chỉ còn đủ sức cầm chiếc gậy đi đường.” (Chương 69).
Nhưng Chúa đã gặp Phêrô trên đường ra khỏi thành: “Crixtux! Crixtux! Và ông mọp trán xuống đất, dường như để hôn bàn chân ai đó. Im lặng kéo dài giây lâu, rồi trong bầu không khí tĩnh mịch chợt vang lên tiếng ông bị những tiếng nức nở làm gián đoạn: Quo Vadis, Domine?… Nazarius không nghe thấy câu trả lời, nhưng vọng đến tai ông Piotr là một giọng nói buồn bã và ngọt ngào:- Khi ngươi rời bỏ dân ta, ta phải đến Roma để cho người ta lại đóng đinh ta lên cây thập tự lần thứ hai.” (Chương 70).
Phêrô cuối cùng ngài đã bị bắt và họ cho ngài vác cây thập tự đến nơi hành hình. “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục và còng lưng, lúc này bước thẳng người, tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. Chưa bao giờ người ta thấy ở ông ngần ấy vẻ uy nghi. Ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa chúng dân và binh lính. Từ mọi phía đều bang lên những tiếng nói: "Thánh Piotr đang đi gặp Đức Chúa kia kìa!". Tất thẩy mọi người dường như quên bẵng rằng nhục hình và cái chết đang chờ ông. Họ bước đi trong sự chăm chú trọng thể, nhưng cũng trong nỗi yên lòng bởi họ cảm thấy rằng từ khi có cái chết trên đồi Gongota đến nay, chưa từng có điều gì vĩ đại hơn và nếu cái chết kia chuộc tội cho toàn thế giới, thì cái chết này sẽ chuộc tội cho thành đô. Dọc đường, mọi người dừng bước ngạc nhiên nhìn cảnh cụ già nọ, còn các tín đồ thì đặt tay lên vai họ và nói bằng giọng bình tĩnh: "Các người hãy trông Đức Chúa Crixtux và đã từng truyền bá tình yêu thương trên thế gian". Mọi người trầm ngâm suy nghĩ rồi họ bước đi và tự nhủ thầm: "Phải lắm, con người này không thể là kẻ không công minh" (Chương 71).
Giờ sau cùng của Thánh Phêrô, ngài đã đưa tay ban phúc lành cho Roma và toàn thế giới: Urbi et Orbi. Ngày nay các Đức Giáo Hoàng vẫn thường ban phép lành Urbi et Orbi trong những dịp lễ quan trọng, từ ban công chính của Vương cung Thánh Đường Phêrô.
Và giờ sau cùng của Thánh Phaolô, câu truyện được thuật lại: “Mắt ông đăm chiêu ngắm nhìn vùng đồng bằng trải dài trước mặt, nhìn núi Anban đang ngập trán ánh sáng. Ông nghĩ miên man về những chuyến đi, về công việc và những cuộc chiến đấu mà ông đã thắng, về những ngôi nhà thờ mà ông đã dựng nên trên tất thảy những vùng đất và vùng biển, và ông nghĩ rằng ông xứng đáng được nghỉ ngơi. Ông cũng đã hoàn thành sứ mệnh. Ông cảm thấy gió dữ đã không thổi tung được những hạt giống ông gieo. Ông ra đi với niềm tin vững chắc rằng trong cuộc đấu tranh mà chân lý của ông đã được tuyên bố cho toàn thế giới hay, cái chân lý kia sẽ chiến thắng và lòng ông tràn ngập một niềm yên tĩnh vô biên. Con đường đến chỗ hành hình khá xa và chiều đang xuống. Những ngọn núi ngả sau màu đỏ tía, chân núi từ từ chìm vào bóng đêm. Những đàn súc vật đang quay trở về nhà. Đây đó đang bước đi những toán nô lệ mang dụng cụ trên vai. Bọn trẻ con đang đùa chơi trước những ngôi nhà hai bên đường, tò mò nhìn toán lính đi ngang qua. Trong buổi chiều này, trong bầu không khí vàng rực trong suốt kia, không những chỉ có sự bình lặng và đắm say mà dường như còn có một hòa âm nào đó đang từ mặt đất dâng cao lên bầu trời. Ông Paven lắng nghe hòa âm ấy và trái tim ông tràn ngập niềm vui sướng khi nghĩ rằng ông cũng đã từng góp được vào nhạc âm kia một thanh âm chưa từng có từ trước đến nay, thiếu thanh âm ấy, cả trái đất sẽ chỉ như "một tiếng trống vang" mà thôi. Và ông nhớ lại, ông đã từng răn dạy con người tình yêu thương, ông đã nói cho họ hay rằng dù họ có ban phát tài sản cho những người nghèo, dù họ có nắm được mọi thứ tiếng cùng mọi điều bí mật, mọi học thuyết của cõi đời này, họ sẽ cũng chẳng là gì nếu không có tình yêu thương, một tình yêu thương rộng lượng nhẫn nại, không gây điều xấu, không cầu người ta phải thờ kính, chịu đựng tất cả mọi chuyện, tin tưởng tất cả mọi người, bao dung tất cả, trường tồn tất cả. Những năm tháng đời ông đã trôi đi trong việc dạy dỗ mọi người cái chân lý ấy. Giờ đây ông tự nhủ: "Có sức mạnh nào bẻ gục được nó, có thứ gì thắng nổi nó không? Làm sao hoàng đế có thể bóp nghẹt nó được, dù y có số chiến đoàn gấp hai ngần ấy những thành phố và biển cả, đất nước và tộc người?". (Chương 71).
Thánh Phaolô đã viết thư cho Timothê trước lúc ra đi: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2Tim 4, 6 – 9).
Hai Thánh Tông Đồ qua nét nút của Henrik Sienkiewicz đặc tả niềm tin và một tình yêu son sắt vào Chúa mới có thể xây dựng được vương quốc vĩnh cửu tại trần gian. Chính Chúa đặt nền móng, còn chúng ta như những người thợ xây: Chiếu theo ơn Thiên Chúa ban cho tôi, ví thể kiến trúc gia thành thạo, tôi đã đặt nền móng, còn kẻ khác xây lên trên. Nhưng mỗi người hãy coi chừng mình xây ra làm sao? Vì nền móng, thì không ai có thể đặt cái khác, ngoài nền móng đã đặt rồi, tức là Ðức Yêsu Kitô.” (1Cor 3, 10 – 11).
Xin Chúa dùng chúng con như khí cụ của Chúa!
Cụ già Phê rô:
Trong tác phẩm “Quo Vadis, Domine” tác giả Henrik Sienkiewicz, được lấy từ cảm hứng câu truyện về thánh đường Quo vadis, khi ông đến viếng. Lúc ấy thành Roma sau khi bị đốt cháy bởi nhà vua Neron bạo chúa, đang giết hại những người Kitô giáo. Thành đô tan hoang, Phêrô cùng vài người nữa bỏ thành ra đi. Một người đi ngược chiều vào thành, vai vác cây thập gía, làm Phêrô bối rối, hỏi người vác thập giá” Quo vadis? Domine!” Thưa Ngài, Ngài đi đâu? Đó là tựa đề của câu truyện.
Trong câu truyện thuật lại hai con người Neron và Phêrô gặp nhau qua cái nhìn: “Và khi đó những ngón tay của ngài liền đặt ngay viên ngọc bích đánh bóng lên mắt để nhìn cho rõ và nhớ mặt kẻ nào đã phát ra những tiếng kêu ấy. Chính bằng cách đó, cái nhìn của Hoàng đế chợt dừng lại ở Đức Sứ đồ đang đứng trên tảng đá cao. Trong chớp mắt hai con người ấy nhìn nhau, song không một ai - cả kẻ đang ở trong đám rước tuyệt vời kia lẫn người đang ở trong đám đông đảo nọ - lại nghĩ rằng đó là giây phút đọ nhãn quang của hai vị chúa tể trái đất, một kẻ ngay sau đó sẽ biến đi như một giấc mơ đẫm máu, còn người kia - chính cụ già mặc chiếc áo thô kệch nọ - sẽ chiếm lĩnh đến muôn đời sau cả thế gian lẫn cái thành đô này.” (Chương 36).
Một vương quốc của những con người nhỏ bé trước những hàm răng của thú dữ Những dây trường xuân quấn quanh cây khổ giá treo những thân thể đang bị đốt cháy. Điều làm cho nhà vua, triều đình và mọi người khiếp sợ, đó là những bài ca đang vang lên giữa ngọn lửa: “Christus Regnat!”.
Vương quốc cụ già xem ra yếu đuối, ngay cả trước cái chết cũng chẳng có đạo binh nào đến cứu, chỉ thấy một bàn tay của cụ già đứng từ trên cao của đấu trường La mã, đưa lên chúc phúc cho những người tuẫn đạo. Như một lời giã từ, hẹn gặp lại ở một vương quốc tình yêu trường tồn.
Cụ già Phaolô. Một cái vấp làm nên vị thánh.
Trong tác phẩm vừa đẫm máu nhưng lại vừa ghi lại trang sử của tình yêu cao đẹp giữa Vinixius và Ligia, được Phaolô chúc phúc hôn nhân. Họ cũng trải qua những thử thách, dường như mất Ligia dưới sức mạnh của con bò rừng, hung hãn. Khi Urxus đang vật lộn với con thú dữ muốn xé xác Ligia. Lúc ấy trên khán đài Vinixius không ngừng kêu lên “Lạy Chúa, con tin, con tin!” (Chương 66).
Trong kinh nghiệm của đời sống hôn nhân, khi gắn bó với nhau, họ cảm nghiệm được tình yêu là vĩnh cửu, họ sẽ bước qua mọi nghịch cảnh và ngay cả cái chết. Tình yêu có sức mạnh diệu kỳ, đủ để thay đổi mọi hoàn cảnh. Hãy yêu thương, tình yêu là vĩnh cửu của hai người dành cho nhau cứu vớt chính gia đình của mình và tình yêu nhân loại.
Cuối cùng, UrXus đã bẻ gẫy cổ con bò rừng, Chúa đã trả Ligia về cho Vinixius. Sự chết không thể chiến thắng được tình yêu. Chỉ có tình yêu là vĩnh cửu. Trong tình yêu chính Phaolô cũng đã thâm tín rằng: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 38 – 39).
Hai cái chết của những con người vĩ đại.
Tình yêu vượt qua sợ hãi. Cả hai Tông Đồ Phêrô và Phaolô, đều chứng kiến những tín hữu của mình ra đi trong khúc khải hoàn ca.
Phêrô trước khi rời thành Roma, Phêrô cảm thấy đau xót vì chính mình, khi những người tín hữu đã chết, còn ngài lại bỏ thành ra đi. Đau khổ suốt đêm, Phêrô cầu nguyện: “Chúa ơi, phải chăng không phải chính Người đã bảo tôi phải tới đây để dựng nên thủ đô của Người trong cái ổ Dã Thú này?
Suốt ba mươi tư năm ròng từ khi Chúa qua đời, ông không biết thế nào là nghỉ ngơi. Với chiếc gậy trong tay, ông đã đi khắp thế gian để thuật lại cái “tin lành” kia. Sức khoẻ của ông đã bị cạn kiệt đi trong những chuyến đi và những nỗi lao lung, và rốt cuộc, khi tại thành phố này, thành phố đầu não của thế giới, ông đã củng cố được công trình của Thầy, thì chỉ một hơi thở lửa của sự dữ đã thiêu trụi nó đi, để ông lại phải bắt đầu cuộc chiến đấu từ đầu. Mà cuộc chiến đấu thế nào kia chứ? Một bên là Hoàng đế, viện Nguyên lão, dân chúng, những chiến đoàn đang đóng vành đai sắt trên toàn thế giới, những thành quách nhiều không tính xuể, những đất nước nhiều không đếm xiết, thế lực mà mắt người chưa từng thấy; còn bên kia là ông, bị tuổi tác và lao lung đè trĩu đến nỗi đôi bàn tay run rẩy của ông chỉ còn đủ sức cầm chiếc gậy đi đường.” (Chương 69).
Nhưng Chúa đã gặp Phêrô trên đường ra khỏi thành: “Crixtux! Crixtux! Và ông mọp trán xuống đất, dường như để hôn bàn chân ai đó. Im lặng kéo dài giây lâu, rồi trong bầu không khí tĩnh mịch chợt vang lên tiếng ông bị những tiếng nức nở làm gián đoạn: Quo Vadis, Domine?… Nazarius không nghe thấy câu trả lời, nhưng vọng đến tai ông Piotr là một giọng nói buồn bã và ngọt ngào:- Khi ngươi rời bỏ dân ta, ta phải đến Roma để cho người ta lại đóng đinh ta lên cây thập tự lần thứ hai.” (Chương 70).
Phêrô cuối cùng ngài đã bị bắt và họ cho ngài vác cây thập tự đến nơi hành hình. “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục và còng lưng, lúc này bước thẳng người, tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. Chưa bao giờ người ta thấy ở ông ngần ấy vẻ uy nghi. Ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa chúng dân và binh lính. Từ mọi phía đều bang lên những tiếng nói: "Thánh Piotr đang đi gặp Đức Chúa kia kìa!". Tất thẩy mọi người dường như quên bẵng rằng nhục hình và cái chết đang chờ ông. Họ bước đi trong sự chăm chú trọng thể, nhưng cũng trong nỗi yên lòng bởi họ cảm thấy rằng từ khi có cái chết trên đồi Gongota đến nay, chưa từng có điều gì vĩ đại hơn và nếu cái chết kia chuộc tội cho toàn thế giới, thì cái chết này sẽ chuộc tội cho thành đô. Dọc đường, mọi người dừng bước ngạc nhiên nhìn cảnh cụ già nọ, còn các tín đồ thì đặt tay lên vai họ và nói bằng giọng bình tĩnh: "Các người hãy trông Đức Chúa Crixtux và đã từng truyền bá tình yêu thương trên thế gian". Mọi người trầm ngâm suy nghĩ rồi họ bước đi và tự nhủ thầm: "Phải lắm, con người này không thể là kẻ không công minh" (Chương 71).
Giờ sau cùng của Thánh Phêrô, ngài đã đưa tay ban phúc lành cho Roma và toàn thế giới: Urbi et Orbi. Ngày nay các Đức Giáo Hoàng vẫn thường ban phép lành Urbi et Orbi trong những dịp lễ quan trọng, từ ban công chính của Vương cung Thánh Đường Phêrô.
Và giờ sau cùng của Thánh Phaolô, câu truyện được thuật lại: “Mắt ông đăm chiêu ngắm nhìn vùng đồng bằng trải dài trước mặt, nhìn núi Anban đang ngập trán ánh sáng. Ông nghĩ miên man về những chuyến đi, về công việc và những cuộc chiến đấu mà ông đã thắng, về những ngôi nhà thờ mà ông đã dựng nên trên tất thảy những vùng đất và vùng biển, và ông nghĩ rằng ông xứng đáng được nghỉ ngơi. Ông cũng đã hoàn thành sứ mệnh. Ông cảm thấy gió dữ đã không thổi tung được những hạt giống ông gieo. Ông ra đi với niềm tin vững chắc rằng trong cuộc đấu tranh mà chân lý của ông đã được tuyên bố cho toàn thế giới hay, cái chân lý kia sẽ chiến thắng và lòng ông tràn ngập một niềm yên tĩnh vô biên. Con đường đến chỗ hành hình khá xa và chiều đang xuống. Những ngọn núi ngả sau màu đỏ tía, chân núi từ từ chìm vào bóng đêm. Những đàn súc vật đang quay trở về nhà. Đây đó đang bước đi những toán nô lệ mang dụng cụ trên vai. Bọn trẻ con đang đùa chơi trước những ngôi nhà hai bên đường, tò mò nhìn toán lính đi ngang qua. Trong buổi chiều này, trong bầu không khí vàng rực trong suốt kia, không những chỉ có sự bình lặng và đắm say mà dường như còn có một hòa âm nào đó đang từ mặt đất dâng cao lên bầu trời. Ông Paven lắng nghe hòa âm ấy và trái tim ông tràn ngập niềm vui sướng khi nghĩ rằng ông cũng đã từng góp được vào nhạc âm kia một thanh âm chưa từng có từ trước đến nay, thiếu thanh âm ấy, cả trái đất sẽ chỉ như "một tiếng trống vang" mà thôi. Và ông nhớ lại, ông đã từng răn dạy con người tình yêu thương, ông đã nói cho họ hay rằng dù họ có ban phát tài sản cho những người nghèo, dù họ có nắm được mọi thứ tiếng cùng mọi điều bí mật, mọi học thuyết của cõi đời này, họ sẽ cũng chẳng là gì nếu không có tình yêu thương, một tình yêu thương rộng lượng nhẫn nại, không gây điều xấu, không cầu người ta phải thờ kính, chịu đựng tất cả mọi chuyện, tin tưởng tất cả mọi người, bao dung tất cả, trường tồn tất cả. Những năm tháng đời ông đã trôi đi trong việc dạy dỗ mọi người cái chân lý ấy. Giờ đây ông tự nhủ: "Có sức mạnh nào bẻ gục được nó, có thứ gì thắng nổi nó không? Làm sao hoàng đế có thể bóp nghẹt nó được, dù y có số chiến đoàn gấp hai ngần ấy những thành phố và biển cả, đất nước và tộc người?". (Chương 71).
Thánh Phaolô đã viết thư cho Timothê trước lúc ra đi: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2Tim 4, 6 – 9).
Hai Thánh Tông Đồ qua nét nút của Henrik Sienkiewicz đặc tả niềm tin và một tình yêu son sắt vào Chúa mới có thể xây dựng được vương quốc vĩnh cửu tại trần gian. Chính Chúa đặt nền móng, còn chúng ta như những người thợ xây: Chiếu theo ơn Thiên Chúa ban cho tôi, ví thể kiến trúc gia thành thạo, tôi đã đặt nền móng, còn kẻ khác xây lên trên. Nhưng mỗi người hãy coi chừng mình xây ra làm sao? Vì nền móng, thì không ai có thể đặt cái khác, ngoài nền móng đã đặt rồi, tức là Ðức Yêsu Kitô.” (1Cor 3, 10 – 11).
Xin Chúa dùng chúng con như khí cụ của Chúa!
Lm Giuse Hoàng Kim Toan