Những người hiện diện trong buổi gặp gỡ gồm các lãnh đạo chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, các doanh nhân, đại diện của xã hội dân sự và văn hoá.
Buổi gặp gỡ bắt đầu với diễn văn chào mừng của Tổng thống Hy Lạp, trong đó Tổng thống Katerina đã đề cập đến những vấn đề mà Đức Thánh Cha ưu tiên và Hy Lạp cũng quan tâm, bao gồm đối thoại liên tôn và tính phổ quá của Kitô giáo, khủng hoảng di cư và tị nạn, đói nghèo, biến đổi khí hậu và đại dịch. Tổng thống cũng tái khẳng định việc Hy Lạp mong muốn được hợp tác với Tòa thánh để bảo vệ cộng đồng Kitô hữu tại những khu vực có nguy cơ bị bách hại và phân biệt đối xử.
Trong diễn văn đáp lời, ĐTC nói: “Tôi nồng nhiệt chào thăm và cảm ơn Bà Tổng Thống đã đại diện cho tất cả người dân Hy Lạp ngỏ lời với tôi qua diễn văn chào mừng. Thật vinh dự cho tôi khi được đến thành phố hoa lệ này. […] Từ đây, những chân trời nhân loại được mở ra. Chính tôi cũng cảm thấy được mời gọi hướng tầm nhìn lên và nhìn vào phần cao nhất của thành phố, chiêm ngắm Acropoli. […] Nơi đây mời gọi chúng ta hãy để mình được ngỡ ngàng bởi sự vô hạn, bởi vẻ đẹp của hiện hữu, bởi niềm vui của đức tin. Từ đây đã thiết lập các nẻo đường Tin Mừng, đã nối kết phương Đông với phương Tây, Đất Thánh với châu Âu, Giêrusalem với Rôma. Các sách Tin Mừng đem đến cho thế giới tin mừng của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người, các sách ấy đều được viết bằng tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ bất tử của Ngôi Lời, của Logos, ngôn ngữ của sự khôn ngoan nhân loại trở thành tiếng nói của Đấng Khôn Ngoan linh thánh.”
Nhưng nơi đây, ngoài cái nhìn hướng về Thượng giới, còn có cái nhìn hướng về tha nhân. Điều này gợi nhớ về biển, nơi thành Athen nhìn xuống và biển định hướng sứ mạng của mảnh đất này, là trung tâm của Địa Trung Hải để làm cầu nối cho các dân tộc. Nơi đây, các sử gia vĩ đại đã không ngừng kể lại những câu chuyện về các dân nước lân cận. Nơi đây, theo ghi nhận của Socrate, ông đã bắt đầu nhận thấy mình là công dân không chỉ của thành phố hay một nước, mà là của cả thế giới. Công dân, chính từ đây con người nhận thấy mình là “một thực thể chính trị” (x. Aristote, Chính trị, I, 2). Và trong tư cách là một thành viên của cộng đoàn, vị triết gia đã nhìn ra những người khác không phải là vật thể, nhưng là công dân, để cùng với họ tạo nên thành phố (polis). Nơi đây sản sinh ra hình thức dân chủ. Một ngàn năm sau, cái nôi này trở thành một ngôi nhà, ngôi nhà rộng lớn của các dân tộc dân chủ. Tôi muốn nói đến Cộng đồng chung châu Âu và về ước mơ hoà bình và huynh đệ đại diện cho nhiều dân tộc.
Tuy vậy, chúng ta không thể dửng dưng trước thực trạng ngày nay, không chỉ ở Lục địa châu Âu, về sự suy thoái của nền dân chủ. Điều này đòi hỏi sự tham gia và nỗ lực của tất cả mọi người và do đó đòi hỏi nỗ lực và kiên nhẫn. Tình thế rất phức tạp bởi chủ nghĩa độc tài lan rộng và những lời hứa xuông từ chủ nghĩa dân tuý có vẻ luôn hấp dẫn. Nhiều nơi, do lo ngại về an sinh và bị cuốn theo chủ nghĩa tiêu dùng, mệt mỏi và bất mãn đã đưa đến một hình thức “dân chủ hoài nghi”. Nhưng sự cộng tác của mọi người là đòi buộc thiết yếu, không chỉ để đạt đến những mục tiêu chung, mà còn để trả lời câu hỏi về điều chúng ta đang là: đó là hữu thể xã hội, không trùng lặp nhưng đồng thời phụ thuộc lẫn nhau.
Nhưng đối diện với nền dân chủ, còn có chủ nghĩa hoài nghi được tạo ra bởi sự rời rạc của các thể chế, bởi nỗi sợ bị mất căn tính, bởi sự quan liêu. Liều thuốc cho vấn nạn này không nằm ở việc tìm kiếm thái quá sự nổi tiếng, ở khát khao được nhìn nhận, ở việc đưa ra những lời hứa không thiết thực hay ở việc gắn kết với những ý thức hệ thuộc địa mơ hồ, nhưng là ở một nền chính trị tốt lành. Bởi vì chính trị là một điều tốt và phải được đưa vào thực hành, như là trách nhiệm tối cao cho công dân, và như nghệ thuật của công ích. Mục đích là công ích được mọi người tham dự vào, được chú trọng đặc biệt, thậm chí là được ưu tiên, hướng đến những ai yếu thế nhất. Đây là hướng đi phải theo; người sáng lập châu Âu đã xác định nó là liều thuốc giải cho những phân cực làm lay chuyển nền dân chủ nhưng có nguy cơ đang làm hại nó: “Người ta nói nhiều về những người theo lề trái hay lề phải, nhưng điều quan trọng là tiến lên phía trước và tiến lên phía trước có nghĩa là tiến tới công bằng xã hội” (A. De Gasperi, Diễn văn ở Milan, 23.04.1949). Một thay đổi hướng đi theo nghĩa này là cần thiết. Trong khi đó, với những cộng hưởng của truyền thông ảo, các nỗi sợ ngày càng lan rộng và hình thành những lý thuyết chống lại. Chúng ta hãy giúp nhau để chuyển từ chủ trương cục bộ sang cỗ võ cộng tác, từ nỗ lực cá nhân để duy trì nhóm cục bộ sang việc liên đới năng động cho sự thăng tiến chung.
Nhìn về Địa Trung Hải, đại dương mở ra cho chúng ta hướng tới tha nhân. Tôi nghĩ tới những bến bờ phì nhiêu và loại cây được cho là biểu tượng nơi đây: cây ô-liu, loại cây mới vừa cho vụ thu hoạch từ những vùng đất khác nhau trên cùng vùng biển này. Thật buồn khi chứng kiến những năm gần đây cây ô-liu bị cháy rụi từ lửa do những biến đổi khí hậu gây ra, những vụ cháy đó lại là tác nhân gây ra những biến đổi khí hậu khác. Trước những vùng bị tổn thương ấy của đất nước xinh đẹp này, cây ô-liu có thể trở thành biểu tượng của ý chí kiên cường trước khủng hoảng thời tiết và những hệ quả của nó. Kinh Thánh kể rằng sau lụt đại hồng thuỷ, một con bồ câu trở về tàu ông Nô-ê và “trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi” (St 8, 11). Đó là biểu tượng của sự khởi đầu mới, của sức mạnh bắt đầu thay đổi lối sống, làm mới lại tương quan với Đấng Tạo Hoá, với sinh vật và tạo vật. Tôi mong ước rằng trong ý nghĩa này mà những nỗ lực trong cuộc chiến chống lại những thay đổi khí hậu luôn được chia sẻ và không chỉ là bề ngoài nhưng thực sự được thực hiện. Sau lời nói là hành động hầu con cháu không phải trả giá về những giả hình của cha ông. Trong nghĩa này, vang vọng lại lời của Homer khi nói vói Achille: “Anh ta căm thù tôi, giống như cánh cổng Hades, giữ trong lòng một điều, nhưng lại nói ra điều khác” (Iliade, IX, 312-313).
Trong Kinh Thánh, cây ô-liu đại diện cho lời mời gọi liên đới, nhất là với những ai không thuộc về dân tộc mình. “Khi hái ô-liu, thì anh em không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ.” (Đnl 24, 20). Đất nước này, đã sẵn lòng hiếu khách, khi ở một vài hòn đảo đã đón nhận anh chị em di cư đông hơn dân cư của đảo ấy, và như thế làm trầm trọng thêm những vấn đề vẫn còn đó do khủng hoảng kinh tế. Thêm vào đó là sự trì trệ của châu Âu, cộng đồng Âu châu, đang bị xé lẻ bởi chủ nghĩa ích kỷ quốc gia, thay vì thể hiện sự liên đới, lại đóng sập cửa và từ chối cộng tác. Đã có thời sự đối nghịch ý thức hệ ngăn cản việc thiết lập những nhịp cầu đông và tây, giờ là lúc vấn nạn di cư tạo ra hố ngăn cách giữa bắc và nam. Tôi mong muốn khích lệ một lần nữa về một viễn tượng cùng nhau, mang tính cộng đồng, đối diện với vấn nạn di cư và khuyến khích quan tâm hơn đến những ai cần giúp nhất hầu, theo khả năng của từng quốc gia, họ được đón nhận, che chở, giúp đỡ và hoà nhập với sự tôn trong đầy đủ quyền lợi và phẩm giá con người. Hơn là một cản trở ở hiện tại, điều đó thể hiện sự bảo đảm cho tương lai, hầu trở thành dấu chỉ của sự chung sống hoà bình với những ai buộc phải di cư để tìm một mái nhà và niềm hy vọng. Họ là những nhân vật chính của chuyến hành trình gian khổ của thời hiện đại.
Đại dịch hiện nay là một nghịch cảnh nghiêm trọng. Đại dịch khiến chúng ta nhận ra những mong manh và nhu cầu của tha nhân. Đất nước này cũng nhận thấy đây thực sự là một thách đố và cần đến những hỗ trợ kịp thời từ phía chính quyền, ví dụ như sự cấp thiết của chiến dịch vắc-xin, và những hy sinh từ phía người dân. Tuy vậy, ngay trong khó khăn một con đường đã hiện ra, con đường của sự liên đới mà Giáo Hội địa phương sẵn lòng hỗ trợ và đóng góp với xác tín rằng điều làm nên căn tính sẽ không giảm đi dù cho cơn bão dịch tạm lắng xuống. Một vài câu nói của Hippocrates dường như thích hợp cho hôm nay, ông ta nói cam kết “điều chỉnh mức sống vì lợi ích của người bệnh”, cam kết “không gây tổn hại và xúc phạm” người khác, cam kết bảo vệ sự sống trong bất cứ giai đoạn nào, đặc biệt khi còn là bào thai. (x. Tuyên thệ của Hippocrates). Quyền được chữa trị phải luôn được ưu tiên đối với tất cả mọi người hầu những người yếu đuối nhất, đặc biệt những người cao tuổi, không bao giờ bị bỏ rơi. Do vậy, sự sống là một quyền lợi, không phải vấn đề luân lý, quyền lợi đó phải được chấp nhận chứ không chịu sự quản lý.
Kết thúc diễn văn, ĐTC khích lệ: “Từ thành phố này, từ cái nôi của văn minh nhân loại, đã và đang nổi lên thông điệp kêu gọi hướng về Thượng giới và hướng đến tha nhân; ước mong rằng trước sự cám dỗ của chủ nghĩa độc tài, nền dân chủ sẽ lên tiếng, trước sự dửng dưng cá nhân, sự quan tâm chăm sóc đến tha nhân, đến người nghèo và đến tạo vật được đong đầy, đó là những bước đệm thiết yếu cho chủ nghĩa nhân văn đổi mới mà thời đại và châu lục chúng ta đang cần.”
Kết thúc buổi gặp gỡ, ĐTC cùng với Tổng thống đi đến Sảnh Bizantine để viết và ký vào sổ lưu niệm, và trao đổi quà tặng giữa Đức Thánh Cha và Tổng Thống.
Sau đó, Đức Thánh Cha được tổng thống tiễn ra xe để về Toà Sứ thần cách đó gần 6km. Kết thúc buổi sáng của ngày viếng thăm thứ nhất tại Hy Lạp.
Văn Yên, SJ - Vatican News