TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXXII Thường Niên – Năm B

“Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”. (Mc 12, 38-44)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

MÀU TÍM

Thứ tư - 14/04/2021 05:01 | Tác giả bài viết: Lm Giuse Hoàng Kim Toan |   954
MÀU TÍM

MÀU TÍM

Có nhiều người hỏi: Phải chăng mùa vọng và mùa chay là những mùa u buồn nên mặc vào cho các mùa ấy màu tím, như màu tím dùng trong tang lễ? Thật ra, Màu tím trong Phụng vụ Mùa Chay và Mùa Vọng cũng như trong tang lễ diễn tả bằng những nội dung đượm đầy niềm hy vọng và niềm vui.

Màu sắc và thế giới biểu tượng có sự liên hệ với nhau, không thể tách riêng, bởi vì, khi nói màu sắc trong cách sử dụng để diễn tả, thì đương nhiên gắn liền với một biểu tượng mà con người đã muốn gửi vào trong đó một hay nhiều sứ điệp nào đó. Về màu sắc cần nói đến sự pha trộn của các màu làm nên màu tím. Màu tím được pha bằng hai lượng màu bằng nhau của màu đỏ và màu xanh lam. Lá bài Tarot được hình thành từ hai màu đỏ và xanh lam, biểu thị cho sự tiết độ - sự phối hợp giữa động và tĩnh - tượng trưng cho sự huyền bí của sáng tạo.

Theo Jean Chevalier và Alain Gheerbrant bài Tarot là cỗ bài xa xưa nhất. Những lá bài mang con số bí mật và gắn liền với thế giới biểu tượng. Nguồn gốc của lá bài Tarot là vấn đề khó giải quyết. Từ thời Court de Gébelin ở thế kỷ thứ 18 người ta đã say mê chơi cỗ bài này. Bí mật của lá bài Tarot, lá trưởng thứ 14, được gọi là Tiết độ, nghĩa là kiềm chế dục vọng, giữ mức độ quân bình. Biểu hình của màu tím là một thiên thần cầm hai chiếc bình, một màu đỏ và một màu xanh lam, giữa hai chiếc bình có một chất lỏng chảy qua, không màu, đó là nước của sự sống. có nhiều cách lý giải, có thể là hai chiếc bình, có thể là thần mặt trời, thể hiện sự thoái hóa (Enel), sự đền đáp (Jolivet castelot), sự dừng lại (M.Poinsot), sự điều chỉnh hợp thời hay không hợp thời (J.R. Bost), hành động nỗ lực, sự tiến bộ (Fr. Holt-Wheeler). Về mặt chiêm tinh học, lá bài Tarot ứng với cung tử vi thứ hai, Nữ Giáo Hòang, theo ông Rutten: “ Lá bài nhìn kỹ sẽ thấy, hình người đàn bà tóc xanh lam, mặc chiếc váy vay dài nửa xanh, nửa đỏ, tay trái cầm chiếc bình màu xanh lam, rót thứ nước màu trắng vào một chiếc bình khác màu đỏ ở tay phải cầm thấp hơn. Theo hình ảnh này, sẽ thấy ngay việc thanh lọc, làm cho tinh khiết, thể hiện việc đổi mới chất liệu”. Theo ông Wirth Oswald, thì biểu tượng của lá bài Tarot thứ 14, biểu hình thuật giả kim, nhân vật này đã chết, được đem tẩy rửa, từ màu đen ra màu xám tro, cuối cùng là màu trắng, đánh dấu một tiến trình lột xác.

Việc rót từ chiếc bình này sang chiếc bình khác, trong Hy Lạp cổ đồng nghĩa với luân hồi (Van Rijnberk).

Sự chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái kia, mổi lần chuyển tinh tuyền hơn, giống như Wirth Oswald gọi là tiến trình lột xác, cho thấy một ý nghĩa quan trọng biểu tượng của màu tím, đó là sự thấm nhuần tinh thần vào trong vật chất càng ngày càng thâm sâu hơn. Nếu đọc dưới ánh sáng của Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy lời tiên báo của Ezekiel được thực hiện qua dòng thời gian, mỗi khi sống mùa vọng, mùa chay: “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt, để chúng đi theo các thánh chỉ của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng”[1].

Sự chuyển hóa là cần thiết. Màu đỏ tượng trưng cho địa giới, màu xanh lam tương trưng cho thiên đàng. Địa giới là nơi chịu lưu đày sau khi đánh mất sự tinh tuyền, thiên đàng là nơi hiệp thông cùng Đấng Tòan Hảo. Do đó, giữa màu của đất và màu của thiên đàng được pha trộn mang một ý nghĩa, con người đã bị đuổi ra khỏi thiên đàng, ở trần giới mong tìm về thiên đàng đánh mất, ước mong ấy là sự pha trộn giữa trần thế và thiên đàng. Như vậy màu tím là màu ước mong hòa quyện từ dưới thế. Sự chuyển hóa ấy là nỗ lực của con người ở dưới thế, nhưng được hòan thành bởi một Người từ Trời xuống thế. Nếu không có Con Người từ nơi Trời Cao ấy ngự xuống, đất thấp làm gì mong được chuyển hóa. Có một thời dân Do Thái đã kinh nghiệm điều này một cách sâu xa trong nỗi thống khổ của mình để bật lên lời kinh: “Lạy Chúa, xin nghiêng trời ngự xuống, chạm núi cao cho toả khói mịt mù; xin tung chớp loà khiến địch quân tán loạn, phóng tên bay làm chúng phải rã tan. Từ cao thẳm xin đưa tay giải thoát, cứu con lên khỏi đáy nước mênh mông, khỏi thế lực nước ngoài”.[2]

Lá bài Tarot trưởng thứ XIV còn mang biểu trưng sự tái khởi vô tận (Van Rijnberk). Được đổi mới mỗi ngày. Khát mong được đổi mới, được trở nên tinh tuyền là một khát mong không thể mua được từ dưới thế, cho nên cần có một chiếc bình khác, một chiếc bình của màu xanh lam mang màu cứu độ. Một sứ điệp đã tỏ lộ niềm mừng vui: “Người đã đến trong thế gian”[3]. Như vậy niềm vui đã sẵn chờ, “Hãy trở về” là sứ điệp ngỏ lời cùng nhân loại và cũng là lời Con Người mời gọi con người. Trở về để được đổi mới bằng ân sủng, bằng Tình Yêu.

Cỗ bài Tarot là một thế giới bí mật mà con người vẫn băn khoăn về chính mình, họ dùng như cỗ bài bói. Con người một mình diện đối diện với thế giới, diện đối diện với thần linh, con người tìm hiểu bằng khả năng của mình bằng hai con đường: Làm chủ ngoại giới và làm chủ thế giới nội tâm của chính mình. Trong một thế giới ngoại biên hay nội tâm đều là những con đường khó khăn nhất. Thế nên, trong một lần Thánh Augustin đã cầu xin: “Xin cho con biết Chúa và để cho con biết con”. Hai cái biết quan trọng để biết chính mình là ai. Con người lạc giữa u mê, lẫn trong thế giới đa cực, chìm trong nền đa văn hóa, băn khoăn để biết mình là ai, hoài mong cho mình sự hiểu biết, họ chọn lá bài Tarot như giải đáp. Thế nhưng, đó là câu giải đáp thuộc về một hệ thống, thuộc về một lý thuyết, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, tất cả những điều ấy lại mù mờ. Cách khôn ngoan nhất, nên đặt câu hỏi mỗi ngày cho chính mình thường xuyên nhất: “Đối với tôi Đức Giêsu là ai?”, trả lời được Đức Giêsu là ai, tôi mới biết được: “tôi là ai?”. Câu trả lời chỉ có thể ở nơi Thiên Chúa “Đấng sâu thẳm hơn chính sự sâu thẳm của con”[4].

Thời Trung Cổ, người ta bắt đầu mặc cho Chúa Giêsu, chiếc áo màu tím (Portal Frédéric), có nghĩa là Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã lãnh nhận hòan tòan thân phận của con người khi Người Nhập Thế. Khi Ngài lãnh nhận Thập Giá là Ngài đã mang cả con người nhân loại trở thành hiến tế, để trong hiến tế ấy con người được hiến thánh. Nhờ Đức Giêsu đã mang trọn bản tính nhân loại, khi trở về cùng Thiên Chúa, Ngài đã mang con người nhân loại hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa. Trong thời kỳ văn hóa Phục Hưng, người ta đã in Thánh Kinh, viết bằng chữ vàng trên giấy màu tím: “Người đọc luôn cảm thấy trước mắt sự mặc khải lòng yêu thương của Thiên Chúa như vàng ròng đối với nhân loại qua cuộc khổ nạn của Chúa trên Thập Giá thể hiện bằng màu tím” (Portan Frédéric). Điều này, trong một lần chiêm ngắm màu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong màu nhiệm Tử Nạn, nhà thần học Guardini đã sung sướng reo lên: “Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, có một con người”. Đức giêsu đã là người ở dương thế, mãi mãi Ngài vẫn làm người ở nơi Thiên Chúa. Màu tím, ví thế không là màu tang thương nhưng là màu của niềm hy vọng, màu của niềm tin chắc chắn để ký thác đường đời của mình vào trong lòng yêu thương của Thiên Chúa.

Muộn thời hơn, ở Phương Tây, người ta lấy màu tím làm màu tang. Màu tím trong màu tang biểu hiện, một phần sự thực là con người phải chết, một phần khác con người sẽ sống lại trong vinh quang. Như thế, màu tím biểu lộ sự chuyển hóa, chết không phải là chấm hết cuối cùng, chết là ngưỡng cửa vào sự sống muôn đời. Chết không là điều đáng sợ, nhưng sự sống đời sau mãi mãi mới là điều đáng quan tâm trong đời sống hiện tại.

Màu tím cũng là màu của sự tuân phục, vâng lời. Theo nghĩa này, người ta cũng chỉ đến Đức Giêsu trong thư Roma: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”[5] và trong bài vinh tụng ca của Thánh Phaolô: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa"[6].

Vâng phục - Tự hạ, biểu lộ tinh thần trút bỏ của Đông Phương. Tình trạng này được gọi là “đổ rỗng”. Màu tím một lần nữa lại biểu lộ tinh thần trút bỏ, đổ rỗng, đồng nghĩa với tính cách của người quân tử Đông Phương. Người quân tử là người biết sửa mình, biết vươn cao lên bằng cách trút bỏ những gì là gắn bó của bụi trần, biết quyến luyến và dứt bỏ mỗi ngày để cuộc sống ngày càng thanh cao hơn: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Lạy Chúa, giữa màu tím của mùa chay, xin cho chúng con biết sống những giá trị thiêng liêng để vươn lên mỗi ngày và được thấy ngày hòan thành trong Thập Giá của Chúa Giêsu.

--------------------------------------------------------------------------------


[1] Ez 18, 19 -21.
[2] Tv 144, 5 - 7.
[3] Ga 1, 11.
[4] Augustin, Tự thuật.
[5] Rm 5, 19.
[6] Pl 2, 6 – 11.

Hoàng Kim Toan, Lm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây