TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Lễ Đức Mẹ Mân Côi

“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà.” (Lc 1,26-38)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Tinh thần canh tân trong cộng đoàn Kitô hữu ngày nay

Chủ nhật - 05/10/2025 17:17 | Tác giả bài viết: Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt |   28
Bài chia sẻ của Cha Gioakim Nguyễn Tấn Đạt trong Khóa Thường huấn Linh mục Giáo phận Qui Nhơn
Tinh thần canh tân trong cộng đoàn Kitô hữu ngày nay

TINH THẦN CANH TÂN TRONG CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU NGÀY NAY

Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt
05/10/2025

WGPQN (24/9/2025) - Đây là bài chia sẻ của Cha Gioakim Nguyễn Tấn Đạt trong Khóa Thường huấn Linh mục Giáo phận Qui Nhơn với chủ đề "Tinh thần canh tân trong cộng đoàn Kitô hữu ngày nay" vào ngày 24/9/2025.

Dẫn nhập

I. THÁI ĐỘ NỀN TẢNG CỦA TINH THẦN CANH TÂN

1. Sự canh tân không tách rời tinh thần hoán cải

1.1. Nền tảng Kinh Thánh

1.2. Các giáo phụ

1.2.1. Hoán cải để hộ giáo

1.2.2. Hoán cải để mục vụ xây dựng Hội Thánh

2. Tinh thần can đảm

3. Tinh thần liên đới và biết lắng nghe

3.1. Biết lắng nghe để tái xây dựng, trở về với căn tính của mình

3.2. Biết lắng nghe để đối thoại – hướng đến chiều kích hoàn vũ của Giáo hội

3.2.1. Với các tôn giáo ngoài Kitô giáo

3.2.2. Với các giáo hội khác thuộc Kitô giáo

II. NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG PHỤC VỤ VIỆC CANH TÂN

1. Tiệm tiến xét trên bình diện luân lý

1.1. Luật tiệm tiến và chủ nghĩa tương đối

1.2. Luật tiệm tiến và sự tự do đích thật

1.3. Tiệm tiến dẫn đến con đường hoàn thiện

2. Trên bình diện Giáo hội học

2.1. Giáo hội hoàn vũ

2.2. Giáo hội địa phương

III. MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC CANH TÂN

1. Hướng đến sự hoàn thiện mỗi cá nhân

2. Canh tân hướng đến sự hiệp nhất trong cộng đoàn

3. Canh tân để cùng nhau hoàn tất sứ vụ loan báo Tin Mừng

IV. PHƯƠNG THẾ THỰC HIỆN SỰ CANH TÂN

1. Xuất phát điểm của việc canh tân

2. Canh tân ý thức, tâm trí

3. Để Chúa Thánh Thần hướng dẫn việc canh tân

4. Cải tổ nơi chính những người lãnh đạo

5. Canh tân trong việc rao giảng lời Chúa

KẾT LUẬN

Dẫn nhập

Triết gia cổ đại phương Tây, Heraclite có một câu nói rất nổi tiếng: "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Đó là một triết lý hay đúng hơn là một quy luật chuyển động không ngừng của vạn vật, được áp dụng không chỉ trên bình diện vật chất mà cả về mặt tinh thần; không chỉ xét đúng trên lĩnh vực vật lý, nhân học mà còn cho cả lĩnh vực thiêng liêng. Mỗi sự vật, mỗi sự hiện hữu luôn có sự đổi thay rất cần thiết trong hành trình phát triển của nó, dù đó là những sự thay đổi do tự trong bản chất, tự trong tương quan nội tại của sự hiện hữu đó, hoặc là sự thay đổi do các yếu tố khách quan tác động từ bên ngoài.

Con người, xét như là một hiện hữu trong vạn vật, cũng cần sự đổi thay theo chiều hướng tích cực trong cuộc sống để thích nghi và hướng đến cùng đích của cuộc đời mình. Đối với các Kitô hữu, mục đích tối hậu của cuộc đời là được giải thoát, được ơn cứu độ. Cả cuộc đời con người là hành trình tìm lại sự thánh thiện thuở ban đầu mà Thiên Chúa đã ban cho họ khi tạo dựng. Con người rất cần đến sự thay đổi hay đúng hơn là sự canh tân về cách nhìn, cách suy nghĩ và cách hành động để đạt tới sự thánh thiện đó.

Mỗi Kitô hữu, xét như là một hữu thể có tương quan, họ được mời gọi hành động để đạt được cùng đích cuộc đời tại một nơi ở cụ thể, với những người khác nhất định, cùng sống chung trong một cộng đoàn, có thể là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn dòng tu hay một cộng đoàn giáo xứ và thậm chí là toàn thể giáo phận. Đó chính là sự canh tân mang chiều kích cộng đoàn, khởi phát đi từ sự canh tân xét trên bình diện cá nhân, hay nói một cách khác, đó là sự đổi mới bắt đầu từ việc canh tân con người. Sự canh tân đó không chỉ là một nhu cầu mà còn là một bổn phận, một ơn gọi để hướng đến một Giáo hội duy nhất và thánh thiện như Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã mời gọi mỗi Kitô hữu hãy đào sâu ơn gọi canh tân và làm sáng tỏ rằng canh tân không chỉ liên quan đến các cá nhân nhưng tới toàn thể Hội thánh[1].

I. THÁI ĐỘ NỀN TẢNG CỦA TINH THẦN CANH TÂN

Ngày 25/01/1959, một biến cố hay đúng hơn là một tư tưởng đã làm thay đổi Giáo hội Công giáo đang phải đối diện với những khó khăn, liên quan đến căn tính, đến hoạt động mục vụ, là việc Đức Giáo hoàng Gioan XXIII muốn triệu tập một công đồng chung. Nguồn tin về một công đồng đã làm cả thế giới ngạc nhiên bởi lẽ hầu như không một ai chờ đón và nghĩ tới sự kiện đó[2], vì sau Công đồng Vaticanô I, với định tín ơn bất khả ngộ của Đức giáo hoàng, nhiều người cho rằng từ nay công đồng trở nên vô ích. Thế nhưng vào ngày 29/01/1959, chính vị Giám mục Roma, Angelo Giuseppe Roncalli đã tuyên bố về Công đồng: Chúng ta hãy hiệp nhất với nhau và chúng ta hãy chấm dứt mọi bất hoà. Đó là quyết định của vị giáo hoàng được gọi là “vị Giáo hoàng chuyển tiếp”, đưa Giáo hội thoát ra khỏi não trạng duy giáo hoàng thuyết, để đến gần với nguồn Phúc âm hơn.

Đó chính là khao khát của vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian, Người đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa Cha, loan báo Tin mừng ơn cứu độ. Để đến với Phúc âm, với sứ mạng loan báo Tin mừng chắc chắn Giáo hội phải làm một cuộc canh tân, xuất phát từ tinh thần hoán cải, được củng cố bởi lòng can đảm và tinh thần biết lắng nghe trong đối thoại với tất cả những chiều kích trong một thế giới mở. Đó cũng là tinh thần mà các Giáo hội địa phương, các giáo xứ, các cộng đoàn đức tin cũng mặc lấy và thực hiện để góp phần vào việc cải tổ mục vụ, mang Tin mừng đến cho muôn dân.

1. Sự canh tân không tách rời tinh thần hoán cải

Tác giả của cuốn sách với tựa đề: Hoán cải, một nhiệm vụ cấp bách với Giáo hội, Giám mục Joseph Doré[3], đã trình bày ưu tư của mình về việc làm chứng cho đức tin Kitô để rút ra những bài học của quá khứ và đề xuất những con đường cho tương lai. Đó cũng chính là nhu cầu của Giáo hội trong thế giới hôm nay: nhằm để sống các giá trị Tin mừng, trong đó bao gồm cả việc canh tân đời sống và việc loan báo Tin mừng phải bắt nguồn từ sự hoán cải sâu xa. Hoán cải và canh tân tưởng chừng như hai động từ, hai hành vi chẳng liên quan gì nhau, nhưng khi hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ hoán cải, thì việc canh tân là hệ quả kéo theo. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Giám mục Joseph Doré đã diễn giải:

Cho đến gần đây, việc hoán cải, từ ngữ được áp dụng cho những người ngoại đạo, hoặc cho những cựu tín hữu Kitô, những người cần được trở lại với đức tin. Trong thực tế, ý nghĩa cơ bản của từ này sâu hơn: nó muốn nói đến sự dấn thân trọn vẹn, để đáp lại những vấn đề quan trọng[4].

Các Kitô hữu cần hoán cải trong tinh thần này, trong chừng mực dấn thân hơn bao giờ hết cho ý thức về ơn gọi của chính mình. Với ý nghĩa đó, sự hoán cải không dễ để thực hiện trong một thời điểm, hay nói cách khác sự hoán cải không thể đạt được trong một sớm một chiều nhưng được tôi luyện trong một tiến trình dài, chịu ảnh hưởng bởi biết bao yếu tố nội tại cũng như ngoại tại, chủ quan cũng như khách quan. Khó khăn để sống tinh thần hoán cải không nhỏ nhưng hy vọng vẫn luôn đầy tràn vì tinh thần đó đã được chứng nghiệm bởi nền tảng Kinh thánh và các giáo phụ, những người góp phần quan trong trong việc củng cố đức tin và thực thi sứ mạng của Giáo hội thời sơ khai.

1.1. Nền tảng Kinh thánh

Hoán cải là chủ đề chính của toàn bộ Kinh thánh và là sứ điệp lâu dài trong lịch sử cứu độ. Sự hoán cải, thông thường được hiểu theo ý nghĩa của sự sám hối ăn năn bởi những tội lỗi mà con người vấp phạm. Hoán cải để từ bỏ những tội lỗi mà quay về với lương tâm ngay thẳng, hoà hợp với anh em và giao hoà cùng Thiên Chúa. Trong Kinh thánh, mọi lời tiên tri, mọi câu châm ngôn, thánh vịnh, biên niên sử, lề luật, điều răn, dụ ngôn, mối phúc và nhận thức sáng suốt về đạo đức đều được công bố nhằm mục đích hoán cải: của linh hồn, của cõi lòng và của tâm trí[5].

Thế nhưng có một điều rất quan trọng nơi hành trình và thái độ hoán cải của cá nhân và cộng đoàn trong Kinh thánh, chính là Thiên Chúa luôn đi bước trước. Ngài không muốn cho con cái Ngài phải chết trong tội nhưng muốn họ sám hối ăn năn để được sống, như lời sấm trong sách ngôn sứ Êdêkien: "Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng - Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống" (Ed 3,11). Thiên Chúa muốn con cái sám hối để được ban ơn. Như vậy rõ ràng, sự hoán cải bắt đầu và kết thúc bằng những hoa trái hệ tại nơi thánh ý của Thiên Chúa.

Trong Cựu Ước, hình ảnh của ông Nôê là một minh chứng về ân sủng của lòng hoán cải. Ông cùng những người nghe ông mà hoán cải thì được sống trong ân nghĩa Thiên Chúa. Giôna đã kêu gọi mọi người dân thành Ninivê hoán cải để được Thiên Chúa thứ tha và được sống: «Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình» (Gn 3,8). Với ngôn sứ Isaia, lòng bao dung quảng đại của Thiên Chúa được thực thi, được ban xuống cho những tâm hồn biết trở về nẻo chính đường ngay (x. Is 1,18).

Trong Tân ước, lời mời gọi hoán cải cũng luôn đặt ra trong tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Hoán cải để được tha thứ, ban ơn và được sống. "Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội" (Mc 1,4). Và xuyên suốt Tân ước, chủ đề và ý nghĩa về sự hoán cải không phải mới mẻ nhưng điểm mới hệ tại ở niềm tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Qua Người, Thiên Chúa nhân từ hiện diện và ban ơn và qua Người, Nước Trời hiện hữu[6]. Như vậy từ đây, sự hoán cải mở ra một hướng mới là đặt niềm tin vào Chúa Giêsu và vào sứ điệp của Người để biến đổi con người của mình theo thánh ý Chúa. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến là để thi hành thánh ý Chúa Cha (x. Ga 4,34). Người và Chúa Cha là một (x Ga, 10, 30).

Trong ý nghĩa đó sự hoán cải được hiểu theo nghĩa rộng hơn hay đúng hơn là quay về với nghĩa gốc của nó. Trong tiếng Latinh, thuật ngữ conversio (dịch là hoán cải), có nghĩa là quay lại. Trong Tân Ước, các tác giả Hy Lạp dùng từ metanoia, có nghĩa là thay đổi tấm lòng, đặc biệt hướng tới sự ăn năn. Sự hoán cải là hành vi quay lưng lại với cuộc sống quá khứ mà trở về với Thiên Chúa, qua đó dẫn đến một sự biến đổi nội tâm của con người. Sự hoán cải, do đó có thể được hiểu theo nhiều nghĩa: chuyển từ lười biếng sang nhiệt thành, từ vô tín sang đức tin, từ sai lầm sang sự thật, từ ý muốn của con người sang thánh ý Thiên Chúa.

Ví dụ rõ ràng nhất về sự hoán cải theo nghĩa này là trường hợp của Mẹ Maria hay của Thánh Phaolô. Mẹ Maria với đặc ân vô nhiễm nguyên tội, Mẹ không phạm tội nên Mẹ không cần hoán cải theo nghĩa luân lý. “Sự hoán cải” của Mẹ Maria đặt nền tảng với lời xin vâng trong ngày sứ thần Gabriel truyền tin, để từ đây Mẹ thực hiện theo thánh ý Chúa mà thôi (x. Lc 1,26-38). Thánh Phaolô, một người nhiệt thành với Do Thái giáo, với những công việc tốt đẹp theo cái nhìn của truyền thống Do Thái, ngài sẽ không bị kết tội vì lòng nhiệt thành đó, nhưng Thiên Chúa muốn ngài thực hiện hành vi metanoia để điều chỉnh hướng đi, quay 180 độ để rẽ theo hướng mà Thiên Chúa chỉ cho ngài. Cuộc ngã ngựa tại thành Đa-mát (x. Cv 9, 1-9) trong khi ngài rong ruổi lùng bắt những người tin vào Chúa Giêsu là dấu chỉ rõ ràng về ý định của Thiên Chúa dành riêng cho thánh Phaolô. Một cuộc “hoán cải” làm thay đổi, canh tân cuộc đời vị tông đồ dân ngoại và thay đổi lịch sử Giáo hội thời sơ khai. Và điều này được thể hiện trong tư tưởng của các giáo phụ, những người trực tiếp sống tinh thần hoán cải đó để góp phần vào việc phát triển Giáo hội hoặc mời gọi người đương thời hoán cải nhằm đổi mới Giáo hội cả về đời sống đức tin lẫn những hình thức tổ chức của thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô.

1.2. Các giáo phụ

Các giáo phụ không viết nhiều những khảo luận về Hội thánh bởi lẽ với các ngài, đó là điều không cần thiết. Nói như vậy, không có nghĩa là các ngài không quan tâm đến Giáo hội của Chúa Kitô nhưng những suy tư của các ngài nhiều đến nỗi một thiên khảo luận về Giáo hội học trở nên thừa thãi. Giáo hội học của các ngài là một thực tại được sống, được cảm nghiệm được cử hành[7]. Đó là một Giáo hội nguyên tuyền, là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, thân thể thánh thiện, là trung gian ơn cứu rỗi cho muôn dân.

Với cái nhìn đó, các giáo phụ tìm cách xác định vai trò và nhiệm vụ của Giáo hội trong nhiệm cục cứu độ và vạch ra những giá trị huyền nhiệm của Giáo hội. Tư tưởng của các giáo phụ luôn mang tính hiện đại và thời sự, là chứng nhân lịch sử sống động về một Giáo hội rất sống động, rất ý thức về sứ mạng của mình. Giáo hội đó được cảm nghiệm như một cơ thể sống động; mỗi phần tử đều tham gia tích cực vào đời sống ấy, dẫu phải đối diện với những khó khăn, những bách hại, những lầm lạc thuở ban đầu.

1.2.1. Hoán cải để hộ giáo

Biểu hiện cho một sự canh tân của Giáo hội trước những ảnh hưởng của các tư tưởng triết học hay trước những lạc giáo, bắt nguồn từ chính những cuộc hoán cải con cái của mình. Trong bối cảnh thời kì sơ khai, Giáo hội không còn cho phép mình bị giam hãm trong những phạm vi, trong những định chế cứng nhắc nữa nhưng phải mở ra với thế giới để thực hiện sứ mạng mà Chúa Giêsu Kitô giao phó (x. Mc 16, 15), Giáo hội cần những tư tưởng hộ giáo để giúp xây dựng Hội thánh thuở ban đầu, trong đó có thánh Giustinô.

Đó là lúc Giáo hội xa dần cội nguồn, đi vào một thời kỳ mới trong lịch sử của mình. Giáo hội mở ra những tương quan rộng rãi hơn trong thế giới Hi-La, một thế giới ý thức về các giá trị của mình, tự hào về một số thành quả chính trị và nhất là về văn hóa. Từ đây những vấn đề đức tin phải đương đầu đang chuyển sang những lãnh vực khác[8].

Thánh Giustinô, người hấp thụ nền văn hoá Hy Lạp và trở thành Kitô hữu, trở thành một nhà hộ giáo nhiệt thành thời Giáo hội sơ khai. Hành trình trở về Thiên Chúa của ngài là nền tảng vững chắc để ngài góp phần xây dựng Hội thánh, củng cố đức tin thuở ban đầu, giúp cho Giáo hội của Chúa Kitô trở về với cội nguồn, với chân lý. Giáo hội phải trình bày chân lý của mình cách chắc chắn trước sức mạnh lý luận của triết học và đó trở thành một bước đi rất mạnh của Giáo hội thuở ban đầu. Thánh Clemente thành Alexandria đã nói rất mạnh về bước đi cần phải có của Giáo hội: "Nhiều kitô hữu sợ triết học Hi lạp như trẻ con sợ ngáo ộp, sợ bị triết học này chinh phục. Nếu đức tin của chúng ta là như thế…nếu nó sụp đổ trước sự thuyết phục của lý luận, thì hãy để cho nó sụp đổ, bởi lẽ qua đó chúng ta chứng tỏ rằng mình không có chân lý"[9]

Điều đó đã được trả lời qua sự hoán cải (metanoia), sự giác ngộ của thánh Giustinô. Khi trở lại, thánh Giustinô gắn bó với đức tin Kitô giáo mà ngài xem là “triết học duy nhất chắc chắn và bổ ích”: "Không ai có thể thấy được hoặc hiểu biết Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa và Đức Kitô của Người không cho người ấy hiểu"[10]. Thánh nhân trở nên một kiểu mẫu trong cách làm việc tông đồ mới, trong sứ mạng của một nhà thần học giáo dân, là một thành viên của Giáo hội.

Với thánh Giustinô, chân lý mà Giáo hội đang theo và đang sống mỗi ngày trên hành trình trở về với Thiên Chúa không đi ngược lại với lý trí. Chân lý chỉ là một, và khởi đi từ suối nguồn độc nhất nơi Thiên Chúa và nơi Logos, Lời của Thiên Chúa, Lời mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại từ thuở ban đầu (x. Ga 1, 1-18).

Sự mới mẻ và thời sự trong tư tưởng của thánh Giustinô không phải là cuộc cải cách theo nghĩa tiêu cực, tức chối bỏ những giá trị truyền thống, nhưng được xây dựng trên nền tảng của Thánh kinh. Và hơn thế nữa, thánh Giustinô không ngại quả quyết rằng, những ai sống trước Chúa Kitô, dù là Do thái hay dân ngoại, và đã trung thành với ánh sáng của Logos, thì theo nghĩa nào đó, họ là những “kitô hữu”, nghĩa là đã mở lòng đón nhận những tư tưởng tôn giáo và tiếp nhận hạt giống Tin mừng.

Từ đây, Giáo hội của Chúa Kitô phải ý thức mình đang đi trong nhân loại và làm cho mọi người nhận ra chân lý Vĩnh Cửu qua Logos.

1.2.2. Hoán cải để mục vụ xây dựng Hội thánh

Sự hoán cải được đề cập tiếp đến là cuộc trở về của thánh Augustinô, người đã từng dùng cả tuổi thanh xuân để tìm chân lý, tìm hạnh phúc theo lý trí và suy nghĩ của mình. Ngài tìm hạnh phúc trong những tham vọng trần tục, thú vui phù phiếm, trong sự khôn ngoan, khởi đi từ suy tư triết học, từ lý trí của những thụ tạo. Thế nhưng những đích điểm đó chưa bao giờ làm thoả mãn tham vọng của thánh nhân, trái lại còn để lại trong tâm hồn ngài những thất vọng, sự tăm tối, sự trống rỗng và những giằng co giữa lý trí và ý chí.

Nhờ lời cầu nguyện tha thiết của người mẹ, Thánh nữ Mônica, Augustinô đã “hoán cải” thật sự. Với trí thông minh vốn có và với lòng khát khao tìm kiếm chân lý, thánh nhân đã làm một cuộc trở về, một hành trình để nhận ra rằng các giá trị mà mình đang bám víu không thoả đáng và không thể nào giúp ngài đạt đến sự thiện và hạnh phúc. Chính Thiên Chúa, qua người mẹ đạo đức, qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời, đã giúp Augustinô nhận ra đâu là chân lý đích thật và đâu là hạnh phúc bền vững trong cuộc đời. Ngài đã khám phá ra rằng Thiên Chúa của Kitô giáo là Đấng Tuyệt Đối, là sự Thiện Đích Thực, là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo trên trần gian. Niềm tin vào Đức Kitô, Đấng vừa tuyệt đối, vừa cao cả lại vừa gần gũi, không ngại mang lấy và sống thân phận nhân loại, làm cho thánh nhân đã từ bỏ ý muốn của mình để một lần nữa đáp lại tiếng Chúa gọi mời, hoàn toàn hiến thân vào việc tông đồ, tận tâm tận lực cho đoàn chiên trong chức vụ mục tử của mình[11].

Một sự hoán cải đặt nền tảng vững chắc cho cuộc đời sinh hoa trái của thánh nhân, một cuộc đời góp phần xây dựng Giáo hội, hướng dẫn Giáo hội địa phương mà ngài đảm trách trong tư cách là giám mục. Sự hoán cải của thánh nhân còn là bằng chứng hùng hồn cho một đức tin thuần khiết, cho một con đường nên thánh mà Giáo hội vẫn đang tìm cách để đưa con cái mình đạt tới đích điểm đó. Đó chính là niềm hy vọng cho tất cả những Kitô hữu, những người đang thực hiện cuộc lữ hành trần thế, đang đảm trách những chức vụ trong Hội thánh, để luôn khao khát và tìm về với Thiên Chúa mặc cho những bất xứng, tội lỗi, như cách Augustinô đã trải qua và thốt lên: "Vì Ngài đã tạo dựng chúng con cho Ngài và trái tim chúng con chưa nghỉ ngơi được chừng nào chưa an nghỉ trong Ngài"[12].

Sự hoán cải của thánh Augustinô không chỉ mang giá trị trên bình diện luân lý mà còn mang ý nghĩa rất lớn trên lĩnh vực tu đức, cánh chung và giáo hội học. Augustinô hoán cải, tức một con cái của Chúa được sinh ra, một thành viên của thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, tìm ra một linh đạo, một hướng đi trong lịch sử Giáo hội để giúp cho Giáo hội có cái nhìn mới hơn về đời sống tu đức, để hướng đến ơn cứu độ. Đó chính là một sự hoán cải và canh tân trong Giáo hội thời lúc bấy giờ.

2. Tinh thần can đảm

Đó là tinh thần dám nhìn thẳng và đứng về phía sự thật vì sự thật sẽ giải thoát con người (x. Ga 8,32). Chỉ có sự thật mới giúp cho con người thăng tiến bản thân và qua đó, giúp cho cộng đoàn thăng tiến. Một sự thật rõ ràng nhất mà mỗi người cần can đảm để đặt trước mặt mình chính là sự thiếu sót, là sự bất xứng, là sự bất toàn nơi mỗi người, nơi mỗi cộng đoàn, nơi mỗi Giáo hội.

Can đảm nhận ra những thiếu sót không phải để chỉ trích, hay để lên án người khác nhưng để cùng nhau tìm ra chân lý. Theo nghĩa này, lòng can đảm luôn đi đối với sự khiêm tốn. Người biết khiêm tốn là người biết nhìn và sống đúng sự thật, tức nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân. Xét tới cùng chúng ta cần có một lòng khiêm tốn biết thừa nhận chúng ta là những người tội lỗi đang tiến bước, cho tới khi nào Chúa dang tay cho chúng ta một cách vĩnh viễn và dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Thánh Augustinô đã sống lòng khiêm tốn đó từng ngày và chết trong thái độ khiêm tốn ấy[13].

Trong tương quan với các Giáo hội có chung niềm tin vào Chúa Kitô, hay với các tôn giáo khác, Giáo hội Công giáo Rôma rất nhiều lần dám nhìn thẳng vào quá khứ của mình để xin sự tha thứ và để kêu mời tất cả cùng nhau thực hiện những bước đi hướng về chân lý. Trước mặt mọi người, đó là một sự can đảm và khiêm tốn đáng trân trọng, nhưng đúng hơn đó cũng là sự thật giúp Giáo hội ý thức rằng, mình vẫn chưa đạt tới sự thánh thiện bao lâu Giáo hội còn lữ hành trên trần gian này. Giám mục Joseph Doré khẳng định rằng, Giáo hội vẫn chưa hoàn hảo, vì Giáo hội chưa hoán cải một cách đầy đủ trong tương quan với người khác cũng như với Thiên Chúa. Giáo hội liên tục được mời gọi để nhận ra nhiều hạn chế của mình và những thiếu sót đôi khi nghiêm trọng trong quá khứ và trong hiện tại[14]. Vì vậy Giáo hội Công giáo nhìn nhận và xưng thú những yếu đuối của các con cái mình, ý thức được rằng, tội lỗi của họ giống như sự phản bội và trở nên chướng ngại cho việc thực hiện ý muốn của Ðấng Cứu Ðộ: làm cho tất cả nên một[15].

Nhìn lại chính mình là sự biểu hiện cho một cuộc chiến đấu anh dũng và không chần chừ của Hội thánh. Đó là một cuộc chiến đấu để sửa sai những khuyết điểm phạm phải bởi các thành viên của mình; những khuyết điểm ấy được nhận ra và bị lên án khi Hội thánh tự xét mình bằng cách soi vào vị Hôn Phu thánh thiện của mình là chính Đức Kitô[16].

Vào ngày 12 tháng 3 của năm Thánh 2000, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã làm một điều gây bất ngờ cho rất nhiều người trên thế giới khi công khai cầu xin sự tha thứ về những lỗi lầm mà con cái của Giáo hội Công giáo gây nên. Trong buổi tiếp kiến tại quảng trường Thánh Phêrô, trước hàng ngàn người hiện diện, ngài thực hiện một việc thú tội thật cảm động khi nhắc đến các cuộc thập tự chinh, tòa án dị giáo và những hành vi sai lầm chống lại người Do Thái, phụ nữ và nhóm thiểu số. Ngài nói, chúng ta khiêm tốn xin được tha thứ vì mỗi người trong chúng ta trong lối hành xử của mình đã gây ra những đau khổ cho người khác và đồng thời cũng làm xấu đi bộ mặt Giáo hội[17].

Không chấp nhận những lỗi lầm là nguyên do làm cho Giáo hội vẫn chưa thực hiện cách mạnh mẽ sứ mạng của mình trong thế giới hôm nay. Khi nhìn lại quá khứ, nhìn lại chính mình, Giáo hội không thể làm ngơ, trái lại phải ra sức canh tân để cùng nhau sống theo chân lý và sống căn tính của mình. Ngay cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tư cách là người kế vị vai trò của Thánh Phêrô, cũng can đảm thừa nhận sự yếu đuối của mình để xin ân sủng, xin lời cầu nguyện của chính Đức Kitô hầu luôn trung thành trong đức tin và biết làm theo ý Chúa trong việc hướng dẫn Giáo hội. Để chu toàn sứ vụ đặc biệt của mình trong Giáo hội, các Đức Giáo hoàng hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng và vào lời cầu nguyện của chính Ðức Kitô, như cách Người đã cầu nguyện cho Phêrô: "Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin" (Lc 22,32).

Như vậy rõ ràng, mỗi thành phần trong Giáo hội, từ những giáo dân đến vị đại diện của Chúa Kitô trên trần gian, tức người kế vị thánh Phêrô, luôn can đảm để nhìn nhận những yếu đuối, lầm lỗi của mình để hướng đến một sự phát triển trong việc sống, làm chứng, bảo vệ và rao truyền đức tin cho muôn dân.

3. Tinh thần liên đới và biết lắng nghe

Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, được xây dựng trên sự thánh thiện của Thiên Chúa, nhưng Giáo hội đó cần được thanh tẩy mỗi ngày để gần với Chúa hơn, để mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Giáo hội đó cần nhìn lại mình để biết mở ra những tương quan với những giá trị khác, và để hoàn thiện mình và hướng tới tương lai. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến chiều kích này của Giáo hội: "Hội Thánh phải nhìn sâu vào chính mình, suy gẫm mầu nhiệm hiện hữu của mình... Nhận thức sâu sắc và sinh động này về chính mình tất yếu dẫn tới một sự đối chiếu giữa hình ảnh lý tưởng về Hội thánh như Đức Kitô mong muốn và yêu thương như là hôn thê thánh thiện và vô tì tích của Người (x. Ep 5,27), với hình ảnh thực tế mà Hội thánh trình bày cho thế giới hôm nay"[18].

3.1. Biết lắng nghe để tái xây dựng, trở về với căn tính của mình

Có những thời điểm, nhất là vào thời trung cổ, Giáo hội mang nơi mình một thế lực rất lớn và được coi là xã hội Kitô giáo, được coi như một tổ chức với phẩm trật theo mô hình của một kim tự tháp. Giáo hội lúc bấy giờ hoà nhập vào xã hội với sự trà trộn giữa đạo và đời. Cuộc cải tổ của Đức Giáo hoàng Grêgôriô VII, với mục đích bảo vệ sự tự do của Giáo hội trước những mưu toan bắt Giáo hội phải lệ thuộc vào quyền lực của các hoàng đế, đã vô tình tạo ra một Giáo hội được nhìn nhận như một xã hội quân chủ với giáo hoàng làm nguyên thủ. Khi đó Giáo hội là một “thân thể” không chỉ theo nghĩa bí tích và thiêng liêng nhưng còn theo nghĩa là một “đoàn thể” xét trên bình diện xã hội[19].

Giáo hội mang đặc tính hữu hình để con người thời đại có thể nhận ra, nhưng đặc tính thiêng liêng vô hình mới là yếu tố giúp cho Giáo hội sống đúng căn tính của mình. Giáo hội là hình ảnh, là dấu chỉ hữu hình của Nước Trời nhưng không phải là Nước Trời. "Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước Tôi không thuộc chốn này" (Ga 18, 36). Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội, một cộng đoàn sống đức tin, đức cậy và đức mến, như một cơ cấu hữu hình trên trần gian mà Người không ngừng bảo vệ, và qua Giáo hội, Người đổ tràn chân lý và ân sủng[20].

Giáo hội được thiết lập không nhằm mục đích để ban những giá trị vật chất hay địa vị xã hội cho con người, nhưng ban đến sự giải thoát, như cách mà thánh Phêrô đã nhân danh Chúa Giêsu để ban cho người tàn tật trong đền thờ: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi" (Cv 3,6). Giáo hội cần trở về với căn tính của mình từ những hướng đi lệch lạc để chỉ thực hiện sứ mạng là làm cho Chúa Kitô hiện diện, Đấng là Sự Bình An, là Đường là Sự Thật và là Sự Sống, Đấng mà qua sự hiện diện của mình, Nước Trời hiện hữu (x. Lc 17, 20-25).

Trong suốt nhiều thế kỷ trước Công đồng Vaticanô II, khi nói về Hội thánh, người ta chú ý nhiều đến khía cạnh tổ chức xã hội với cơ cấu phẩm trật chặt chẽ. Quan niệm nặng pháp lý này đã giam hãm mọi sinh hoạt của Hội thánh trong việc củng cố tổ chức, cơ cấu, luật lệ, nghi lễ, quyền bính. Lẽ dĩ nhiên người ta đã nói đến đức tin, nhưng lại nhấn mạnh công thức để tuyên xưng đức tin hơn tương quan cá vị sống động với Thiên Chúa. Giáo hội lúc bấy giờ đang chịu một sự cám dỗ rất lớn: quyền bính.

Giáo hội đã nhắm đến quyền được hiểu theo nghĩa đen mà Kinh thánh nói tới: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16, 19). Thực ra quyền mà Chúa Giêsu ban cho các Tông đồ, cho Giáo hội là sự phục vụ như chính Người là Vua đã đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người (x. Mc 10, 32-45 // Mt 20, 24 -28).

Sự hiện hữu trong nghèo khó và sự phục vụ của Giáo hội mới là điều làm nên hình ảnh Chúa Kitô Cứu Thế đối với người đương thời và thế giới hôm nay. Có những thời điểm, người ta lên án Giáo hội bởi những con người sống hưởng thụ, những người luôn muốn sai khiến người khác. Đó chính là chất vấn được đặt ra và mời gọi những Kitô hữu, những người thuộc một Giáo hội địa phương cụ thể, thuộc thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, biết nhìn vào sự thật của quá khứ để lắng nghe, không nhằm để biện hộ nhưng để canh tân và làm chứng được những giá trị Tin mừng trong đời sống đức tin.

3.2. Biết lắng nghe để đối thoại – hướng đến chiều kích hoàn vũ của Giáo hội

Thuật ngữ hoàn vũ được đề cập ở đây không phải nhằm nói tới tập hợp những Giáo hội địa phương nhưng hướng đến một cộng đoàn rộng hơn, một ràn chiên duy nhất mà Chúa Giêsu muốn qui tụ (x. Ga 10,16), ở đó mọi người đều nhìn nhận những giá trị nhân bản, nhân văn dựa trên nhân phẩm, lương tâm và luật tự nhiên mà mỗi người đều có nơi thẳm sâu của tâm hồn mình.

3.2.1. Với các tôn giáo ngoài Kitô giáo

Một khía cạnh rất ý nghĩa trong việc canh tân bản thân là nhìn nhận những giá trị của người khác. Trên hành trình về thiên quốc, Giáo hội phải xác định vị trí của mình trong tương quan với những tôn giáo ngoài Kitô giáo và ngay cả với những người vô thần.

Trong một thế giới đa tôn giáo như hôm nay, Giáo hội phải mang nơi mình sứ vụ đồng hành với các tôn giáo khác, vừa để giải đáp cho con người thời đại những vấn nạn nhân sinh và đồng thời phải thực hiện sứ mạng rao giảng Chúa Kitô bằng sự kiên trì và với những phương thế thích hợp nhất. Sự đồng hành với các tôn giáo khác để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp, dựa trên những thiện ích thiêng liêng, những giá trị luân lý, xã hội và văn hoá[21]. Vì thế Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các các tôn giáo khác. Với sự kính trọng chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và các giáo thuyết của các tôn giáo, tuy có nhiều điểm khác nhau với huấn giáo của Giáo hội, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý[22].

Trong một bài viết của mình, Đức Giám mục Joseph Doré giúp mỗi Kitô hữu nhìn nhận rằng, sẽ không đúng nếu từ chối nhìn nhận rằng các tôn giáo khác có thể thực sự giúp các Kitô hữu lưu tâm đến những khía cạnh của mầu nhiệm về Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho nhân loại; những khía cạnh nầy không phải không hàm chứa trong truyền thống tôn giáo chúng ta, nhưng có thể là chưa đi vào nhận thức của các người thuộc thế hệ sau, của những người đang sống hiện tại và đang tiếp nối và mang trong mình truyền thống đó[23]. Khi đó chỉ có đối thoại, Giáo hội của Chúa Kitô mới nhận ra những thắc mắc bấy lâu nay chưa được đặt ra. Ví như về thân phận và cứu cánh của chính mình, còn đó những thắc mắc mà chúng ta hẳn sẽ gặp khi tiếp cận các giáo lý mà tôn giáo khác tuyên xưng, khi đón nhận các phong cách cư xử cụ thể mà các tín đồ đang đối thoại với chúng ta[24].

Dẫu biết rằng Giáo hội không bao giờ tìm cách thoả hiệp để quên mất sứ mạng chính yếu của mình là rao giảng Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, nhưng việc đối thoại cũng có thể xem là hình thức cụ thể trong việc rao truyền đó. Giám mục Joseph Doré diễn giải thêm rằng, dẫu việc đối thoại không hẳn nằm trong bối cảnh thuần túy rao truyền, nhưng những phương cách của nó vẫn chứng thực được chính điều ta nghĩ và ta tin; và cũng chính vì thế mà chúng ta tìm đến gặp gỡ, đối thoại. Đối thoại không minh nhiên tuyên dương sứ điệp Phúc âm, nhưng đối thoại đã làm tỏ lộ dần chân lý tính của Phúc âm. Và điều đó không phải là không đáng kể... mặc dầu còn phải cố đi xa hơn nữa[25].

Và một khi đối thoại để giải đáp những thắc mắc, Giáo hội có cơ hội nhìn lại mình, thấy rõ mình hơn về nhu cầu và về sứ mạng mình đảm trách để cho người khác thấy giá trị, căn tính của mình. "Những ngỡ ngàng và thách đố mặc nhiên hay minh nhiên khi tiếp xúc với kẻ khác, thúc bách chúng ta tự kiểm điểm; kỳ thực nếu không có cuộc gặp gỡ các tôn giáo và đối thoại, tiếp xúc với những tín đồ của họ, thì có thể chúng ta khó lòng đặt lại vấn đề của chúng ta một cách rốt ráo được"[26]. Đó không gì khác hơn là đòi buộc một sự canh tân, sự đổi mới trong tương quan với người khác. Bởi lẽ khi gặp gỡ các tôn giáo khác, ta có cơ hội nhận ra được tình trạng bất cập, mù mờ nơi kiến thức chúng ta về tôn giáo, để từ đó có thể ý thức về nhu cầu cần đi xa hơn trong việc học hỏi về chính mình, về lịch sử, truyền thống và định hướng cho tương lai của mình.

Quả thật, tự mình, Giáo hội vẫn chưa múc cạn hết mầu nhiệm về Thiên Chúa. Mặc dầu niềm tin chúng ta chứng thực mầu nhiệm này, nhưng Giáo hội vẫn mang nơi mình đặc tính nhân loại (đồng thời với đặc tính thần thánh). Nói thế không đồng nghĩa với việc chối bỏ Mạc khải mà Thiên Chúa ban cho con người, trái lại, đó là cách tôn vinh Ngài, và theo đúng như điều Ngài đã tự mạc khải - một cách tròn đầy[27].

Bên cạnh thái độ lắng nghe để nhìn nhận các giá trị của các tôn giáo, của các nền văn hoá, Giáo hội phải luôn khiêm tốn để học hỏi, thích nghi. Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich[28], trong một bài phỏng vấn đã nói lên quan điểm của mình trong việc Giáo hội khiêm tốn lắng nghe để phát triển. "Giáo hội cần khiêm tốn, nếu thiếu khiêm tốn, Giáo hội không thể tham gia vào đối thoại. Điều này có nghĩa, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta muốn học hỏi ở người khác»[29]. Giáo hội cần đề ra những phương thế thích hợp, mang tính thời đại để vừa tiếp nối với truyền thống của mình, vừa để thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng trong thế giới hôm nay. Ngày nay Giáo hội không thể và không được thực hiện sứ mạng theo kiểu ra lệnh từ trên xuống, bởi vì trong tất cả các lĩnh vực xã hội, chính trị, khoa học kỹ thuật, Giáo hội phải hoà nhập để tăng triển. Sự thay đổi trong phương pháp thực hiện đi đôi với sự thay đổi thực sự trong nền văn minh mà chúng ta đang phải đối diện. Và Giáo Hội, như đã luôn làm trong suốt lịch sử của mình, phải thích nghi với điều này[30].

Về vấn đề này, Giáo hội phải đặt mình trong guồng phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Đức tin và khoa học không phải là hai lĩnh vực đối lập nhau, trái lại có thể song hành và bổ túc cho nhau. Niềm tin tôn giáo hay đức tin không loại trừ và cũng không lệ thuộc vào giải thích của khoa học. Cho dù khoa học đã giải thích về một hiện tượng tự nhiên thì niềm tin tôn giáo vẫn đóng vai trò cần thiết trong việc tìm ra mối liên hệ ý nghĩa giữa hiện tượng đó với đời sống con người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa[31]. Trên nền tảng đó, Giáo hội luôn ý thức mình phải hoà nhập để thực hiện sứ mạng rao giảng và phục vụ của mình cách hữu hiệu hơn. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc nhở điều đó trong tông huấn Evangelii Gaudium: "Bản thân Hội thánh là một người môn đệ truyền giáo, cần phải học phát triển việc giải thích lời mặc khải và sự hiểu biết của mình về chân lý"[32]. Vì vậy khoa học được xét đến như là một phương thế hữu hiệu trong việc truyền giáo nếu Giáo hội biết học hỏi, nghiên cứu và áp dụng như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: "Hội thánh trân trọng các nghiên cứu của các khoa học, vì chúng giúp Hội thánh rút ra những chỉ dẫn cụ thể có ích cho sứ mạng giảng dạy của Hội thánh"[33].

Tóm lại, sự phát triển khoa học kỹ thuật hôm nay là một thách đố không nhỏ trong việc sống và loan truyền Phúc âm, nhưng đồng thời đó cũng là sự trợ giúp để Giáo hội của Chúa Kitô chu toàn sứ mạng của mình giữa lòng thế giới một cách hữu hiệu hơn khi Giáo hội biết lắng nghe và hoà nhập một cách tiệm tiến và phù hợp với căn tính của mình.

3.2.2. Với các giáo hội khác thuộc Kitô giáo

Trong tinh thần lắng nghe, để canh tân không thể không nhắc đến tương quan với những giáo hội tin vào Chúa Kitô nhưng vì những lý do khác nhau, đã ly khai ra khỏi Giáo hội Công giáo. Quả thật Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo hội và chỉ một Giáo hội duy nhất, nhưng nhiều cộng đồng Kitô giáo tự xưng với mọi người rằng mình là di sản đích thực của Chúa Kitô[34]. Những tranh cãi về giáo thuyết, về các thực hành đức tin, về các cử hành phụng vụ đã làm khoảng cách giữa các Giáo hội Kitô giáo mỗi ngày một xa hơn. Và tệ hơn các vị lãnh đạo của các giáo hội còn ra vạ tuyệt thông cho nhau. Đó là vết thương, là nỗi đau đi ngược với ý muốn của Chúa Kitô và cũng là gương xấu cho thế giới và phương hại cho công cuộc loan báo Tin mừng cho mọi thụ tạo[35].

Đã đến lúc các Giáo hội tin vào Chúa Kitô, trong đó có Giáo hội Công giáo, phải nhìn lại chính mình, nhìn lại những hiểu lầm, những định kiến trong quá khứ và đấm ngực thừa nhận phần lỗi thuộc về mình để hướng đến phong trào hiệp nhất các Kitô hữu, một phong trào được đặt lên hàng đầu trong Giáo hội Công giáo và là một định hướng rõ ràng trong tiến trình canh tân Giáo hội.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến một sự canh tân cần thiết đặt nền tảng trên sự hoán cải để đổi mới tâm trí: "Việc dấn thân đại kết phải được đặt trên sự hoán cải các tâm hồn và trên lời cầu nguyện, những điều đó cũng đưa tới sự cần thiết phải thanh tẩy ký ức trong quá khứ"[36]. Và sự canh tân này đã được Công đồng Vaticanô II hướng dẫn trong cách thế tham dự vào phong trào hiệp nhất: "Không thể có phong trào hiệp nhất chính danh mà không có sự hoán cải nội tâm. Thật vậy, những ước vọng hiệp nhất bắt nguồn và chín mùi nhờ sự đổi mới tâm trí, từ bỏ chính mình và bác ái cách hết sức quảng đại"[37].

Chính từ ước vọng đạt tới sự hiệp nhất, Giáo hội Công giáo chúng ta cần những bước đi vững chắc trong các phong trào về Kinh thánh và phụng vụ, trong việc rao giảng lời Chúa và giáo lý, trong những hoạt động tông đồ giáo dân và những hình thức mới trong đời sống tu trì…

Những cách thế mà Giáo hội bước đi cùng với các Giáo hội Kitô giáo khác dù chưa thể dẫn đến sự hiệp nhất một sớm một chiều nhưng niềm hy vọng chưa bao giờ tắt, một niềm hy vọng đặt trên thập giá của Chúa Kitô, đặt nơi niềm tin vào một Thiên Chúa, được soi dẫn bởi Chúa Thánh Thần và được hun đúc bởi máu của các vị tử đạo. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết rằng: những người tin vào Ðức Kitô, được hiệp nhất theo bước chân của các vị tử đạo, không thể bị chia rẽ nhau mãi được. Nếu họ muốn thật sự chiến đấu một cách có hiệu quả, chống lại khuynh hướng của thế gian, là làm cho mầu nhiệm cứu chuộc ra vô ích, thì họ phải cùng nhau tuyên xưng chân lý của Thập giá[38]. Trong khi đó, Đức Giáo hoàng Benedicto XVI, cũng đã nói lên niềm hy vọng thật sự của tinh thần đại kết, hy vọng của một sự canh tân: chúng ta là những người tin nơi Chúa Kitô, được kêu gọi trở về với điều cốt lõi, trung tâm của đức tin, để làm chứng cho thế giới về Thiên Chúa hằng sống... Chúng ta không được quên những gì liên kết chúng ta: đức tin vào Thiên Chúa là Cha và là Đấng Tạo Hóa, được mạc khải trong Người Con là Đức Giêsu Kitô, tuôn trào Thánh Thần là Đấng hồi sinh và thánh hóa[39].

Trong thời đại hôm nay, chương trình cải tổ mục vụ là một nhu cầu cần thiết và cấp bách mà Giáo hội cần phải thực hiện để thích nghi với sự phát triển về mọi mặt trong xã hội. Tuy nhiên kết quả của sự cải tổ, canh tân, phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của mỗi người và vào đường hướng chung của các cộng đoàn, của các giáo xứ. Chỉ với tâm tình hoán cải thật sự, lòng khiêm tốn thẳm sâu, tinh thần đối thoại chân thành, việc cải tổ mới trở nên bền vững theo thời gian và gặt hái được nhiều kết quả.

II. NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG PHỤC VỤ VIỆC CANH TÂN

Việc canh tân một cộng đoàn đức tin nhằm đề ra những hướng đi vững chắc đặt nền tảng trên căn tính của Giáo hội và phù hợp với sự phát triển, với sự đổi thay của thời đại, chắc hẳn phải là một công việc được tính toán kỹ càng cả nội dung và hình thức. Vì lẽ đó việc canh tân cộng đoàn đức tin phải được dựa trên những nguyên tắc chính yếu, bền vững, được ví như kim chỉ nam hành động. Đề cập đến việc canh tân, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc đến một nguyên tắc «là thành quả của một sự phân định cần thiết, bao hàm tiến trình lịch sử, sự tiếp nối nhau của thời gian và các giai đoạn, đánh giá, chỉnh sửa, thử nghiệm và phê chuẩn “kinh nghiệm”»[40]. Nguyên tắc này dựa trên sự liên hệ giữa hai yếu tố nền tảng của một chủ thể: căn tính và hình thức bên ngoài. Đó nguyên tắc tiệm tiến, được thực hiện cách hài hoà giữa lý thuyết và những đặc tính cụ thể. Về khía cạnh này, huấn thị Cải tổ mục vụ nói rõ: đừng “đốt giai đoạn” khi muốn thực hiện việc cải cách quá vội vàng dựa trên những tiêu chuẩn chung chung với kiểu lý luận “bàn giấy” mà quên đi những con người cụ thể đang sống trong lãnh thổ[41]. Đó chính là thực tế mà Giáo hội cần phải đưa ra và phải đặt làm trọng tâm cho tiến trình cải tổ của mình, những con người xét trên bình diện cá nhân và cũng chính họ, những người làm nên một cộng đoàn sống động.

1. Tiệm tiến xét trên bình diện luân lý

Luật tiệm tiến thật ra là một nguyên tắc tu đức và Thánh kinh lâu đời mà thánh Phanxicô Salê đã từng nói đến nó khi bàn về việc học tập các nhân đức qua việc giáo dục dần dần. Nhưng với tông huấn Familiaris consortio, tông huấn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II về gia đình, năm 1981, luật tiệm tiến này đã được đề nghị như là lộ trình luân lý của các vợ chồng, rồi được mở rộng cho toàn thể đời sống luân lý[42].

Khi nói đến sự phát triển, không những xét trên bình diện cá nhân mà còn trên bình diện cộng đoàn, luật tiệm tiến luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ nó không phải là luật được áp đặt từ bên ngoài và đòi buộc những chủ thể liên quan phải chấp nhận nhưng gắn liền với căn tính với sự phát triển tự nhiên của một chủ thể hay của một cơ cấu.

Trên bình diện cá nhân, đó là luật quan tâm đến những giới hạn của con người: là những con người sống trong lịch sử, yếu đuối và ảnh hưởng bởi tội lỗi, cùng lúc phải chu toàn nhiều trách nhiệm. Điều đó có nghĩa rằng ta không thể đòi hỏi người tín hữu áp dụng tất cả luật luân lý, hoàn toàn và ngay lập tức, nhưng cần phải kiên nhẫn giúp họ tiến tới trên con đường tăng trưởng, từng bước trong thời gian[43]. Luật này nhìn nhận rằng sự hoán cải đòi hỏi thời gian. Đứng trước một quy luật chưa thể áp dụng ngay được trong lúc này, với hoàn cảnh này và với con người này, vì có một số giá trị khác cũng bị đe dọa, nhiều khi người ta có thể chấp nhận một thời hạn nào đó với một số điều kiện[44]. Một cách nào đó, luật tiệm tiến được hiểu như là phương thế để phục vụ con người, giúp con người thăng tiến và đạt được những giá trị trong chiều kích cá nhân cũng như trong tương quan với những người khác, xét trong gia đình, cộng đoàn của một giáo xứ. Giá trị của con người phải đặt trên và là đối tượng phục vụ của luật. Con người là điểm đến của tất cả mọi lề luật, như Chúa Giêsu dạy: luật làm ra vì con người (x. Mc 2,27).

Chính trong bối cảnh như vậy, những tư tưởng thái quá trên bình diện nhân học đã làm cho luật tiệm tiến, luật mà tự bản chất là cần thiết cho quá trình phát triển, hoàn thiện của một cá nhân, có nguy cơ được hiểu và so sánh với chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cho rằng con người tự làm luật cho mình. Trong diễn văn bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về gia đình từ diễn ra vào tháng 10 năm 1980, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, lần đầu tiên đã nhìn nhận sự hiện hữu của luật tiệm tiến, nhưng đồng thời ngài làm rõ sự khác biệt giữa luật tiệm tiến với một lập trường có vẻ tương tự nhưng không thể chấp nhận được, đó là sự tiệm tiến của luật. Luật tiệm tiến hay là con đường tiệm tiến, không thể được đồng nhất hóa với sự tiệm tiến của luật, tức tồn tại những cấp bậc và những hình thức luật khác nhau tùy theo mỗi cá nhân và hoàn cảnh khác nhau[45]. Nói cách khác, tiệm tiến luật là một lập trường không thể chấp nhận được trên bình diện luân lý, vì khi đó người ta đặt luật của Thiên Chúa vào trong những hoàn cảnh khác nhau và phán quyết luật đó theo quan điểm của cá nhân.

1.1. Luật tiệm tiến và chủ nghĩa tương đối

Cụm từ “chủ nghĩa tương đối” gắn liền với Đức Giáo hoàng Benedicto XVI, người đã kêu gọi Giáo hội phải cảnh giác và chống lại chủ nghĩa tương đối vì những tác động tai hại của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người và xã hội. Và cũng cùng nhận định như vậy vị giáo hoàng kế vị của ngài, Đức Phanxicô, trong tông huấn Evangelii Gaudium, đã nhấn mạnh: "Tiến trình tục hóa đã đẩy đức tin và Giáo hội vào lãnh vực cá nhân riêng tư và thầm kín. Hơn nữa, với việc phủ nhận tất cả chiều kích siêu việt, nó tạo ra những sai lệch về mặt đạo đức, làm suy yếu ý nghĩa về tội cá nhân và xã hội, âm thầm đẩy mạnh chủ nghĩa tương đối, đưa đến việc mất định hướng nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn vị thành niên và tuổi trẻ, là nhóm người rất dễ bị chao đảo trước những thay đổi như thế"[46].

Với chủ nghĩa tương đồi này, không có sự hiện hữu cho chân lý phổ quát, chỉ có những chân lý khác nhau. Vì vậy, giáo sư triết học tại đại học Cambridge, Simon Blackburn, giải thích chủ nghĩa tương đối là «những ý kiến khác nhau, không có quyền bính độc nhất, có bao nhiêu dân tộc, xã hội, văn hóa, thì có bấy nhiêu chân lý»[47]. Đây là tư tưởng rất nguy hiểm trên bình diện đạo đức và luân lý bởi lẽ một người theo chủ trương tương đối sẽ định nghĩa luân lý là cái gì mang tính cá nhân, chủ quan, có thể thay đổi và buộc người khác phải tôn trọng tự do của mỗi cá nhân. Do đó, điều được gọi là những chuẩn mực khách quan trong đời sống luân lý sẽ bị coi là sự áp đặt từ trên xuống, gây ra mặc cảm tội lỗi cho người ta... và như thế, đương nhiên là sai và không thể chấp nhận. Với nhận định đó, rõ ràng chủ nghĩa tương đối là vấn nạn nổi cộm trong xã hội hôm nay và cũng không phải là trường hợp ngoại lệ cho Giáo hội, cho cộng đoàn giáo xứ.

Sự thăng tiến hay sự suy yếu về đời sống luân lý cũng như đời sống đức tin của một cộng đoàn được quyết định bởi thái độ và chọn lựa sống của những cá nhân thuộc về cộng đoàn đó. Sẽ rất nguy hiểm khi những cá nhân vẫn đang bị tư tưởng của chủ nghĩa tương đối làm liên luỵ. Chủ nghĩa tương đối, đòi hỏi sự khoan dung, và đặt nền tảng trên sự tôn trọng sự tự do, sự khác biệt giữa người này với người khác, nhóm này với nhóm khác[48]. Và chính điều này dễ gây nên sự hiểu sai về luật tiệm tiến, luật cũng đòi hỏi sự khoan dung, nghĩa là con người cần được cảm thông, cần được tạo cơ hội, cần được bao bọc bởi sự kiên nhẫn để phát triển theo đúng trật tự của nó. Luật tiệm tiến là nhu cầu, là điều kiện để một con người phát triển chứ không phải là sự cổ suý cho chủ nghĩa tương đối, cho cái gọi là chân lý chủ quan. Đặc tính tiệm tiến đặt con người trong một khuôn khổ, theo một quy luật chung, trên chân lý khách quan chứ không phải là sự phóng khoáng theo sự chủ quan và sự tự do thái quá.

1.2. Luật tiệm tiến và sự tự do đích thật

Khi nói đến sự phát triển tiệm tiến của một con người, căn tính của người đó phải được đặt lên hàng đầu, là trọng tâm trong tương quan với người khác, với Thiên Chúa. Mỗi người thật sự quí giá với nhân phẩm mà Thiên Chúa đã ban; đáng được tôn trọng với sự tự do của mình.

Tự do là đặc tính làm nên sự cao quí của con người. Chính Thiên Chúa khi tạo dựng đã ban cho con người sự tự do như là một món quà cao cả. Tự do cho phép con người chọn lựa hành vi của mình và cho thấy rằng con người không bị bó buộc bởi một kế hoạch tiền định nào trên cuộc đời mình. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy: «Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hay việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức»[49]. Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, loài thụ tạo cao cả nhất, sự tự do như một phần của phẩm giá mà Ngài dành riêng cho con cái loài người để họ có khả năng làm chủ hành vi của chính mình[50]. Sự tự do giúp con người thông phần vào hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26). Dĩ nhiên sự tự do đó không thể được hiểu theo nghĩa là muốn làm gì tuỳ ý, nhưng phải đặt trong tương quan với người khác và nhất là với Đấng Tạo Hoá. Trong con người, tự do phải là một sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện[51]. Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy:

«Sự tự do được thực thi trong các tương quan giữa người với người. Mỗi nhân vị, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, có quyền tự nhiên được công nhận như một hữu thể tự do và có trách nhiệm. Mọi người có bổn phận tôn trọng quyền đó của mỗi người. Quyền sử dụng sự tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá của nhân vị, đặc biệt trong lĩnh vực luân lý và tôn giáo»[52].

Ấy vậy trong cuộc sống, trong tương quan giữa người với người, có người nhân danh tự do để biện hộ cho những sai lầm, cho sự dữ mà họ gây nên. Bao lâu sự tự do chưa được xác định cách vĩnh viễn nơi sự thiện tối thượng, tức là Thiên Chúa, thì nó vẫn còn có khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, nghĩa là có thể tiến tới sự trọn hảo hoặc có thể sai lầm và phạm tội. Điều này là lý do tại sao con người hay chần chừ giữa chọn lựa điều họ biết là đúng và điều ngược lại[53]. Sự lựa chọn trái ngược vẫn đang níu giữ và dẫn con người làm một điều mà chính họ thực sự không muốn làm, như Thánh Phaolô bộc bạch: «Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm» (Rm 7,19).

Và như vậy, luật tiệm tiến mà một người trong cộng đoàn cần áp dụng để hoàn thiện bản thân và để phục vụ cho cộng đoàn trở nên ý nghĩa và cần thiết phải gắn với sự tự do đích thật mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Tự do để tiệm tiến là điều mà mọi người luôn tôn trọng và tiệm tiến trong tự do đích thực mới làm nên căn tính, giá trị của một con người luôn hướng về điều thiện.

1.3. Tiệm tiến dẫn đến con đường hoàn thiện

Nên thánh là bổn phận của tất cả các môn đệ của Chúa Kitô trong bất kì ơn gọi và hoàn cảnh nào. «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Từ sau khi nguyên tổ phạm tội, con người đánh mất đi sự thánh thiện thuở ban đầu mà Thiên Chúa đã phú ban. Và vì thế tìm về sự thánh thiện ban đầu là một quá trình, một hành trình trở về, một hành trình biến đổi mỗi ngày để gần và giống Chúa hơn.

Sự biến đổi tiệm tiến của một cá nhân phải là sự biến đổi theo thánh ý Chúa và đặt trong tương quan với những người khác, theo như giới răn mến Chúa và yêu người mà chính Chúa Giêsu đã dạy: «Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó» (Mc 12, 29-31). Như vậy rõ ràng, sự biến đổi không phải để tha hoá, hay làm mất đi bản tính cốt lõi của con người nhưng để tìm lại căn tính thánh thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã ban cho tổ tông loài người; là phương thế, là con đường để sống giới răn mến Chúa yêu người mỗi ngày một triệt để hơn. Tiệm tiến dẫn đến sự thật và chân lý và chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật viết hoa đó.

Từ sự phát triển, đổi mới trên bình diện cá nhân, luật tiệm tiến được mở sang trên bình diện cộng đoàn tức áp dụng cho cộng đoàn, và rộng hơn là trên bình diện Giáo hội.

2. Trên bình diện Giáo hội học

Giáo hội được thiết lập bởi Chúa Kitô, là Thân Thể mầu nhiệm của Người nên chiều kích thiêng liêng luôn là yếu tố làm cho Giáo hội khác với những tổ chức trần thế trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo hội, dấu chỉ của Nước Trời, phải đi trong nhân loại như sự nhập thể của Chúa Kitô, Đấng cũng được sinh ra và lớn lên trong không gian và thời gian, đón nhận những giá trị truyền thống về gia đinh, văn hoá, tôn giáo (Dt 4, 15; Pl 2, 6-7). Con Thiên Chúa làm người, chấp nhận những qui luật tự nhiên và lớn lên cùng với những qui luật đó. Vì thế Giáo hội của Người, cũng sống tinh thần nhập thể, cũng được mời gọi để tiến triển, để hoàn thiện mỗi ngày.

2.1. Giáo hội hoàn vũ

Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, vừa mang đặc tính thiêng liêng vừa mang đặc tính hữu hình. Giáo hội đó được xây dựng trên nền móng cơ bản, vững chắc là các tông đồ, những con người cụ thể liên kết với nhau để từng bước hình thành Giáo hội. Giáo hội được trở nên hữu hình bằng nhiều cách khác nhau: nơi các hoạt động bác ái từ thiện, nơi các chương trình truyền giáo, nơi việc Tông đồ cá nhân, mà mọi Kitô hữu phải thực hiện trong môi trường của mình[54]. Nói cách khác, Giáo hội của Chúa Kitô phải mặc lấy tinh thần nhập thể như chính Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng là Đầu của Giáo hội. Đó là một Giáo hội chấp nhận đi trong lịch sử của nhân loại, với những khiếm khuyết và hạn chế của mình mặc dù mang nơi mình đặc tính thánh thiện.

Sự thánh thiện của Giáo hội không hệ tại ở tiêu chí là tất cả mọi thành phần trong Giáo hội phải luôn luôn thánh thiện, nhưng bởi vì Đầu của Giáo hội là Đức Kitô, Đấng Thánh đã yêu Giáo hội như hiền thê của mình và đã hiến thân để thánh hoá Giáo hội[55]. Hơn nữa Chúa Thánh Thần ban cho Hội Thánh dồi dào phương tiện cứu rỗi và sự thánh thiện, đó là việc rao giảng Tin mừng, cử hành các bí tích, sống các nhân đức luân lý và hy sinh phục vụ tha nhân với các ơn đặc sủng[56]. Và cuối cùng sự thánh thiện của Giáo hội luôn được biểu lộ qua những hoa trái mà Chúa Thánh Thần đã làm phát sinh nơi các tín hữu. Sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức, qua những con người luôn khát khao đạt tới đức ái trọn hảo trong bậc sống của mình, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc âm với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo hội công nhận[57].

Thế nhưng để đạt tới sự thánh thiện mà Thiên Chúa kêu gọi, tất cả mọi thành phần của Giáo hội cùng nhau tiến bước trên hành trình đức tin của mình; được tôi luyện trong cuộc lữ hành trần thế, trong sự chuyển mình của một hành trình tăng triển chứ không phải là tình trạng tĩnh, an toàn. Vì thế, Giáo hội vừa mang đặc tính thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình, và không ngừng theo đuổi con đường sám hối, canh tân[58]. Các thành phần của Giáo hội luôn được mời gọi để canh tân tâm trí, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; loại bỏ nếp sống cũ và sống một đời sống mới (x. Ep 4,22-24). Chừng nào còn lữ hành trên trần thế này, Giáo hội chưa thể đạt tới sự hoàn hảo, chưa trở nên viên mãn được.

Giáo hội của Chúa Kitô chấp nhận những vấp ngã để lớn lên, chấp nhận đối mặt với các thế lực tự nhiên để trở nên vững vàng hơn, chấp nhận va chạm với những hoàn cảnh, những tình trạng dù tội lỗi xấu xa để thanh tẩy chính mình. Điều này Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói rất mạnh trong tông huấn Evangelii Gaudium: «Tôi thích một Giáo hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình»[59]. Giáo hội chấp nhận đau thương để canh tân và hoàn thiện căn tính của mình trên mọi bình diện từ luân lý, phụng vụ, cho đến giáo thuyết, mục vụ… và nhất là trong chiều kích truyền giáo trong thế giới ngày nay. Đó chính là lý do để mỗi thành phần dân Chúa thấy được tầm quan trọng của Công đồng Vaticanô II với những văn kiện được ban hành, nhất là Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium và hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes. Cùng với dòng chảy của Giáo hội trong thời gian và không gian, những văn kiện của các Đức giáo hoàng càng làm rõ hơn sự canh tân đổi mới, đòi buộc Giáo hội phải thực hiện nếu không muốn mình trở nên lỗi thời và trở thành một cản trở trong việc tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu.

Những bước đi tiệm tiến cần phải được áp dụng và phát huy trong đời sống của cộng đoàn, trong đời sống Giáo hội. Giáo hội không chỉ sống cho chính mình, không chỉ nói với con cái của mình nhưng không ngần ngại nói với tất cả mọi người[60]. Con đường đi của Giáo hội là con đường ngang qua tha nhân, con đường thấm nhập vào xã hội, vào thế giới hôm nay, một thế giới đang đổi thay với tốc độ chóng mặt về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Dưới ánh sáng Phúc âm, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội cần giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu[61].

Giáo hội của Chúa Kitô không thể bám víu mãi vào sự “cổ kính”, lỗi thời của mình để biện hộ bằng mọi giá cho điều gọi là truyền thống. Giáo hội đó cũng không vì những sự hời hợt, vội vàng để chìm nghỉm trong thế giới đầy dẫy những hiểm nguy, những rủi ro làm mất đi căn tính cốt lõi của mình. Giáo hội của Chúa Kitô phải luôn linh hoạt để hội nhập, để đồng hành và để hoàn thành sứ mạng mà Người trao phó. Vì lý do đó vào mỗi thời và trong những hoàn cảnh khác nhau, Giáo hội luôn có những hướng đi, cách ứng xử phù hợp nhất, đặt nền tảng chung trên khía cạnh hoàn vũ, nhưng cũng không được phép bỏ qua những đặc tính đặc thù của các Giáo hội địa phương.

2.2. Giáo hội địa phương

Dù mang trong mình tất cả những đặc tính của Giáo hội hoàn vũ nhưng Giáo hội địa phương phải đặt mình trong những hoàn cảnh cụ thể để thực hiện cuộc lữ hành của mình. Con đường phát triển tiệm tiến của mỗi Giáo hội địa phương không bao giờ giống nhau bởi lẽ mỗi Giáo hội đó gắn liền với những con người cụ thể, hoàn cảnh cụ thể…

Với đặc tính duy nhất của Giáo hội, sự canh tân một khi được khởi xướng và áp dụng phải xét trên chiều kích hoàn vũ, tức là áp dụng cho tất cả các Giáo hội địa phương. Tuy nhiên không vì thế mà bỏ qua những đặc điểm mang tính bản sắc đặc thù của các Giáo hội địa phương, điều tạo nên sự phong phú cho Giáo hội.

Khi xét đến công cuộc canh tân mục vụ, việc áp dụng phải đặt trong nguyên tắc tiệm tiến, tức là vẫn dựa trên nền tảng của những con người, những giá trị truyền thống, gắn liền với cộng đoàn địa phương, tránh những tổn thương hoặc những hiểu lầm, những áp đặt từ trên xuống. Một cách cụ thể, mỗi dự án về sự canh tân phải được suy nghĩ trong bối cảnh thực tế của đời sống cộng đoàn và phải gắn chặt với cộng đoàn mà không gây tổn thương; trước hết là giai đoạn tham khảo cần thiết, sau là đến giai đoạn thực hiện từng bước một, và cuối cùng là giai đoạn kiểm chứng[62]. Đó chính là quy luật tiệm tiến áp dụng cho một cộng đoàn, một Giáo hội địa phương theo viễn cảnh canh tân mục vụ hầu hướng đến sự hoàn thiện căn tính trong một thời gian và không gian cụ thể. Với nguyên tắc này sẽ không hợp lý khi đứng ở nơi này, thời đại này rồi kết luận, phê bình Giáo hội ở một nơi khác và thời điểm khác, trái lại đôi khi chấp nhận những ngoại lệ, những luật trừ để tạo điều kiện cho Giáo hội địa phương chuyển mình, phát triển trong sự đa dạng nhưng vẫn hiệp nhất với Giáo hội hoàn vũ.

III. MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC CANH TÂN

Rõ ràng với những nguyên tắc về sự cải tổ đời sống cộng đoàn hay đúng ra là sự đổi mới, mục đích chính của sự đổi mới đó là nhằm thực thi sứ mạng theo thánh ý của Thiên Chúa, sứ mạng rao giảng Tin mừng để mọi người đón nhận ơn cứu độ, hướng đến sự hoàn thiện Kitô giáo, đạt tới sự hạnh phúc viên mãn trong Nước Trời.

1. Hướng đến sự hoàn thiện mỗi cá nhân

Canh tân một cộng đoàn xét trên bình diện cả về cơ cấu, tổ chức lẫn bình diện thiêng liêng cũng nhằm mục đích chính yếu là phục vụ cho từng cá nhân thuộc về cộng đoàn đó. Lề luật được lập ra vì con người và đưa con người tới ơn cứu độ. Sự canh tân chỉ được thực hiện khi đặt nền tảng trên sự hoán cải và xét cho cùng là sự hoán cải của mỗi thành viên thuộc cộng đoàn đức tin.

Thuật ngữ hoán cải được hiểu theo nghĩa rộng là con người được mời gọi thực thi ý định của Thiên Chúa, là muốn mọi người trở nên hoàn thiện: «Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5, 48).

Được sinh ra làm người ở trần gian và qua Bí tích Rửa tội, con người trở nên con cái của Thiên Chúa, được quyền thừa kế như Chúa Giêsu (x. Gl 4,4-7). Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, tất cả các Kitô hữu được tái sinh bởi nước trong Lời Chúa[63], được chính Ngôi Lời hướng dẫn để luôn đi trong ánh sáng của Người và trở nên con cái sự sáng. Địa vị làm con Thiên Chúa không cho phép các Kitô hữu sống trong trạng thái tĩnh nhưng phải đổi mới mỗi ngày để được sự tái sinh. Và điều này được thể hiện qua những giới răn mà Thiên Chúa đã truyền qua Môsê và nhất là qua luật yêu thương (x. Mc 12,29 // Lc 10,27), luật mới mà Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ trước khi chịu khổ nạn (x. Ga 15,12). Và vì thế trung tâm đời sống của các Kitô hữu là phục vụ vì tình yêu và đó là dấu chỉ để con người nhận biết một người là môn đệ của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35).

Con người dù được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng với những yếu đuối, bất toàn bởi nguyên tội gây nên, vẫn hướng chiều về sự dữ. Tư tưởng và ước muốn của con người không như tư tưởng của Thiên Chúa (x. Is 55, 9; Mt 16,23). Sự hoán cải để canh tân đời sống mỗi ngày là hành trình liên lỉ mà các Kitô hữu thực hiện. Mục đích rõ ràng của sự canh tân không hệ tại ở những hình thức phụng vụ, cử hành các bí tích mà là tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, Đấng là xuất phát điểm và cùng đích của đời sống Kitô hữu.

Quả vậy, các Kitô hữu được mời gọi sống và làm chứng cho đức tin trong thế giới hôm nay, đức tin mà họ đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội và được mời gọi tuyên xưng trong suốt cả cuộc đời, đức tin mà đối tượng không phải là những định đề hay tín điều, nhưng là một con người mang tên Giêsu Kitô[64], quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa Cha ban cho toàn thể nhân loại (x. Ga 3,16), để những ai tin vào Đấng ấy sẽ được cứu độ. Để đạt tới sự trọn lành, người tín hữu phải tin và sống tương quan mật thiết với Chúa Kitô, sử dụng những ân sủng Người đã ban nhiều hay ít tuỳ ý Người để trở nên giống với Người khi theo vết chân Người.

Đức tin là cửa ngõ để dẫn con người đến với ân sủng của Thiên Chúa. Quả thật rất nhiều lần trong Tin mừng, Chúa Giêsu không làm phép lạ vì con người thiếu lòng tin (x. Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,16 -30). Sống đức tin là sự đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương con người trong bất kì ơn gọi nào, trong bất kì hoàn cảnh nào nhằm giúp con người đạt được phần thưởng là sự sống đời đời. Vì niềm tin đó mà thánh Phaolô đã nhắn nhủ thân tình với môn đệ Timôthê: «Hỡi anh, người của Thiên Chúa… hãy gắng trở nên người…giàu lòng tin…hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì lòng tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng» (1Tm 6,11-12).

Và đó cũng là niềm tin mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn cho các Kitô hữu thấy, khi ngài nhấn mạnh: Ngay cả trong sự khủng hoảng, Chúa vẫn luôn yêu thương và kêu gọi chúng ta làm chứng về điều này, dù ở bất cứ nơi đâu và bất kì tình trạng ra sao[65]. Thiên-Chúa-yêu-thương luôn tìm thấy con người, mang họ tiến lên phía trước và viết lịch sử cứu độ ngang qua cuộc đời của mỗi người.

Các Kitô hữu đôi khi phải tự chất vấn chính mình về niềm tin mà mình tuyên xưng, bởi lẽ đức tin ấy luôn đặt trong sự thử thách, trong sự tôi luyện. «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo» (Mt 16, 24 // Mc 8,34 // Lc 9,23). Mỗi người tự hỏi rằng, tôi có tin là Thiên Chúa đích thân thương yêu tôi, đã gọi tôi ngay từ lúc tôi được tượng thai trong lòng mẹ, đã có một kế hoạch cho tôi, đã gọi tôi theo Con của Người, là Đấng Cứu Độ, để phục vụ Thiên Chúa và Giáo hội không? Như vậy rõ ràng, các Kitô hữu cần phải canh tân đời sống mình mỗi ngày xét trên bình diện cá nhân, nhưng cũng đồng thời ý thức sứ mạng của mình trong tương quan với người khác.

Trong tư cách là môn đệ của Chúa Kitô, là con cái của Thiên Chúa, các Kitô hữu mang nơi mình sứ mạng ngôn sứ của Chúa Kitô; làm cho người khác nhận biết Chúa và để cùng nhau sống tương quan với Chúa trong một gia đình ở đó, Thiên Chúa là Cha duy nhất và mọi người là anh em với nhau.

Nhiệm vụ rao giảng Tin mừng không phải là một sứ mạng theo nghĩa chung chung dành cho Hội thánh ở đâu đó, nhưng là bổn phận của mỗi Kitô hữu trong Giáo hội mà chúng ta thuộc về. Là một thành viên của Giáo hội, Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, các Kitô hữu cũng mang lấy căn tính Giáo hội. Điều đó không cho phép những người chịu Bí tích Rửa tội chỉ tìm kiếm sự thánh thiện cho chính mình nhưng liên đới với anh em, nhất là những người chưa nhận biết Chúa, để hướng đến sự thánh thiện hiệp nhất.

Ơn gọi mà tất cả chúng ta được kêu gọi thực hiện trước hết trong đức ái[66], là hồng ân của Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5), vốn hiệp nhất chúng ta trong Đức Kitô và với anh chị em mình: do đó, đây là một biến cố không chỉ đơn thuần mang tính cá nhân mà còn mang tính cộng đoàn[67]. Để chuẩn bị cho ơn cứu độ, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc riêng và nhờ dân tộc đó, ơn cứu độ được lan rộng đến tận cùng bờ cõi trái đất, đến với tất cả mọi người. Khi Thiên Chúa kêu gọi một cá nhân, điều đó cũng đồng nghĩa với việc mang lại thiện ích cho mọi người như trường hợp của Ápraham và Môsê, Phêrô và Phaolô.

Thiên Chúa gọi một cá nhân cho một sứ mạng riêng biệt và qua người đó, Chúa muốn làm triển nở sự thánh thiện đến người khác. Một hình ảnh cụ thể, một tấm gương sống động mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đưa ra giúp cho mỗi Kitô hữu ý thức bổn phận giúp mọi người cùng nên thánh là Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Đức Giáo hoàng đã nhấn mạnh tư tưởng của thánh nữ khi chiêm ngưỡng toàn thể nhân loại như “khu vườn của Chúa Giêsu”, nơi tình yêu ôm lấy tất cả những bông hoa của mình theo cách thế vừa bao quát vừa độc quyền, và đòi hỏi được đốt cháy đến mức bừng cháy bởi ngọn lửa tình yêu ấy, để đến lượt mình, dẫn dắt tất cả anh chị em mình đến với ngọn lửa đó[68].

Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, đó cũng là một phương thế loan báo Tin mừng, được gọi là loan báo “bằng sức thu hút”[69], là chứng tá và đồng thời là hoa trái của trải nghiệm thần bí không chỉ về tình yêu cá vị, mà còn về mầu nhiệm của việc sống chung trong cộng đoàn đức tin, có thể là trong cộng đoàn dòng tu hoặc cộng đoàn giáo xứ[70]. Đó chính là mối tương quan phải sống và cũng là sứ mạng phải thực hiện của mỗi Kitô hữu. Điều này đòi hỏi con cái Chúa sống tinh thần nhập thể, tinh thần tự huỷ của Chúa Kitô; chiến thắng cái tôi ích kỉ của mình để sống tình liên đới bằng đức ái đối với mọi người.

2. Canh tân hướng đến sự hiệp nhất trong cộng đoàn

Trên hành trình phát triển của mình, trong Giáo hội của Chúa Kitô, đã từng có những con người, những cộng đoàn, những giáo phái vì quan điểm riêng của mình nên thực hiện những cuộc cải cách. Rất tiếc những cải cách đó không làm cho Giáo hội vững mạnh hơn trong việc tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô, mang ơn cứu rỗi đến cho muôn dân, trái lại làm cho Giáo hội càng suy yếu bởi những chia rẽ từ trong cách hiểu và cách trình bày giáo lý, cách thực hành đức tin, cách cử hành phụng vụ. Đó là nỗi đau mà tất cả các Kitô hữu cảm nhận được cho đến hôm nay và đồng thời đó vẫn đang là một khao khát cho sự hiệp nhất giữa các Giáo hội tin vào Chúa Kitô.

Thuật ngữ cải tổ hay cải cách có thể gợi nhớ lại những biến cố đau buồn trong quá khứ. Giáo hội Công giáo, về phần mình, cũng đã làm mọi cách từ tinh thần hoán cải đến những cuộc đối thoại nhằm hướng đến sự hiệp nhất. Đó chính là một trong những lý do để Giáo hội canh tân chính mình bên cạnh những cuộc canh tân khác để sống đúng căn tính của mình: loan báo Tin mừng cho muôn dân.

Xét trên bình diện nội tại hay chiều kích bên trong của mình, Giáo hội hôm nay cần một cuộc canh tân thật sự như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh trong tông huấn Evangelii Gaudium: Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội thánh[71].

Trên hành trình tiến về cùng đích vĩnh cửu, Hội thánh được Chúa Kitô mời gọi canh tân luôn mãi, một sự canh tân mà Giáo hội, vì là một định chế nhân trần, bao giờ cũng cần đến[72]. Thế nhưng canh tân không phải là tìm mọi cách đi ngược với truyền thống, phá đổ những giá trị của những người, những thế hệ đi trước nhưng dựa vào những giá trị đó để làm cho đời sống đức tin trở nên mới mẻ hơn và phù hợp hơn với những điều kiện sống mới.

Trong tiến trình canh tân, trong việc cải tổ mục vụ trên bình diện Giáo hội hoàn vũ cũng như trong phạm vi giáo xứ, thánh ý của Thiên Chúa phải được đặt vào trung tâm của sự đổi mới, phải đặt lên hàng đầu trong tất cả những mục tiêu, những định hướng đề ra. Giáo hội sẽ không bao giờ đạt đến những kết quả tốt đẹp nếu không đặt Thiên Chúa làm điểm đến, nếu không lấy ý định của Ngài làm la bàn để hướng dẫn hành trình. Canh tân không bắt nguồn từ Thiên Chúa là dấu hiệu của sự độc tài. Con người với quyền lực của mình, nhân danh sự đổi mới để ép buộc người khác làm theo ý mình, không thể tạo ra một sự cải tổ mang lại hoa trái, thay vào đó là sự đổ vỡ, sự chia rẽ trong cộng đoàn.

Trong thực thế, đôi khi vẫn còn đó những cộng đoàn hay những con người loan báo Tin mừng như là một công việc chứ không được coi như là một sứ mạng được thực hiện trong niềm vui. Hệ luỵ là nhiều cộng đoàn Kitô hữu trong khi thực hiện “công việc” dẫn đến sự thù nghịch, chia rẽ, vu khống, nói xấu, oán thù, đố kỵ và ước muốn áp đặt một số ý tưởng bằng bất cứ giá nào, thậm chí bằng các hành động bách hại giống như những cuộc săn lùng phù thuỷ thực sự[73]. Tin mừng sẽ được đón nhận ra sao nếu các Kitô hữu hành động và loan truyền Lời Chúa theo những phương thế như vậy?”. Vì thế sự hiệp nhất các Kitô hữu trong tiến trình hoán cải – canh tân là dấu chỉ và điều kiện tối quan trọng để thế gian tin vào Đức Kitô (x. Ga 13,35; 17,21).

Sự canh tân đúng nghĩa là hướng tới niềm tin và tạo nên sự hiệp nhất trong Chúa Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (x. Dt 13,8). Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: «Tin vào Chúa Kitô nghĩa là mong muốn sự hiệp nhất; mong muốn hiệp nhất nghĩa là mong muốn Giáo hội; mong muốn Giáo hội nghĩa là mong muốn sự hiệp thông ân sủng phù hợp với kế hoạch của Chúa Cha từ muôn thuở»[74]. Canh tân để hướng đến tính duy nhất của Giáo hội như chúng ta tuyên xưng. Giáo hội là một, nhờ phép Rửa duy nhất và một Chúa Kitô duy nhất mà chúng ta được rửa tội. Chúng ta tuyên xưng một đức tin, trong sự hiệp thông với các giám mục liên tiếp kế vị các tông đồ, và những người này với quyền và dưới quyền của người kế vị Thánh Phêrô, Giám mục Rôma[75].

Sự canh tân cần hướng đến sự hiệp thông được thể hiện trong việc sống đức tin, cử hành các bí tích, thể hiện sự hiệp nhất không chỉ trong tương quan với Chúa mà còn với tha nhân như thánh Phaolô đã dạy:

Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Ep 4,3-6).

Sự cải tổ trong việc mục vụ còn hướng đến mục đích nhằm giúp các Kitô hữu trong cộng đoàn đức tin nhận ra và sử dụng ơn đoàn sủng mà Chúa ban cho mình để xây dựng Giáo hội, Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, với sự hướng dẫn của Thần Khí duy nhất: «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người» (1 Cr 12, 4-6).

Như vậy sự hiệp thông với Thiên Chúa và sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là tiêu chuẩn đặt ra cho sự canh tân trong Giáo hội, là hoa trái mà Giáo hội trong thời đại hôm nay luôn khát khao để khoả lấp những vết thương lòng mà các giáo phái Kitô giáo vô tình hay cố ý gây ra trên Thân Thể của Chúa Kitô.

3. Canh tân để cùng nhau hoàn tất sứ vụ loan báo Tin mừng

Sự cải tổ, sự đổi mới là điều tất yếu trong Giáo hội ngày hôm nay, nhất là trong bối cảnh xã hội phát triển không ngừng về mọi phương diện. Giáo hội của Chúa Kitô không hiện diện như những tổ chức khác trong xã hội, những tổ chức tìm sự đổi mới để thích ứng, theo kịp với thời đại vì chính mình, vì sự tồn tại của mình. Chính những cái gọi là “mới” đó, một khi không gắn liền bản chất của của một tổ chức, đến một lúc nào đó, nó làm mất đi giá trị và ý nghĩa ban đầu của nó.

Đó chính là nguy cơ mà Giáo hội phải tỉnh táo để tránh và không đi vào vết xe đổ của những đổi mới chỉ chú trọng đến hình thức. Huấn thị Cải tổ Mục vụ nhắc nhở cáo Giáo hội địa phương: «Trong tiến trình canh tân và tái cơ cấu, giáo xứ phải tránh nguy cơ rơi vào bệnh quan liêu quá hình thức trong tổ chức các sự kiện, cùng với các hoạt động không thể hiện tính năng động của việc loan báo Tin mừng, mà chỉ dựa trên tiêu chuẩn tự bảo tồn»[76].

Như vậy sự thay đổi đúng nghĩa không phải chỉ đề cập đến tổ chức, đến cơ cấu hay hình thức mà là tâm thế, tinh thần. Đức Giám mục Giuse Nguyễn Năng đã nhắc lại lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi viết rằng, hoán cải, đổi mới không hệ tại ở việc sửa chữa một vài lệch lạc hoặc bổ sung một vài thiếu sót, nhưng là định hướng lại, thay đổi não trạng, đổi mới tâm hồn, làm mới sự nhiệt tình và dùng tất cả khả năng để thực hiện mọi hoạt động theo định hướng cốt lõi đó. Mục tiêu chính yếu của mọi hoạt động mục vụ của Hội thánh là nhắm đến việc loan báo Tin mừng, sứ mệnh thiết yếu và duy nhất, chứ không nhằm bảo tồn củng cố nội bộ Hội thánh[77]. Vì thế, việc cải tổ mục vụ phải gắn liền với việc truyền giáo như là một đòi hỏi bắt buộc và sống còn. Để trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô, các mục tử và đặc biệt các cha xứ là những «cộng sự viên đặc biệt của Giám mục»[78], phải biết rõ nhu cầu cấp bách cải cách các hoạt động mục vụ theo hướng truyền giáo[79].

Củng cố tổ chức cơ cấu của Hội thánh phải nhắm tới mục tiêu thiết yếu và cấp bách liên quan đến sứ mạng mà Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ: «Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo» (Mc, 16,16). Đổi mới phải vượt qua nghịch lý mà Giáo hội thời sơ khai đã trải qua như nhận định của thánh Augustinô: Hội thánh càng phát triển về tổ chức thì ý thức truyền giáo lại càng yếu đi. Đây là một nghịch lý nằm trong chính công cuộc truyền giáo. Quả vậy, mục tiêu của truyền giáo, Đến với muôn dân (ad gentes), là thiết lập các cộng đồng Kitô giáo và xây dựng Giáo hội địa phương ngày càng vững mạnh và trưởng thành. Nhưng chính lúc muốn củng cố Giáo hội địa phương thì người ta lại bị cám dỗ dừng chân và không muốn lên đường đến với muôn dân nữa[80].

Căn tính của Giáo hội là loan báo Tin mừng như Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh trong sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo[81]. Giáo hội không chỉ được hình thành bởi Chúa Kitô mà còn được sai đi để tiếp tục công trình của Ngài, đó là truyền bá Tin mừng và cứu độ muôn dân. Truyền giáo không phải là một hoạt động phụ thuộc hay tùy chọn mà là bản chất, là yếu tố cốt lõi của Giáo hội. Vì thế tất cả những chiều kích đổi mới, canh tân cốt yếu là thực hiện sứ mạng cao cả này, nếu không, sự canh tân chỉ nhằm đến việc qui hướng về mình như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói với các Giám mục châu Đại Dương: «Mọi sự canh tân của Hội thánh phải lấy truyền giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy cơ của một Hội thánh qui vào chính mình»[82].

Như vậy sự canh tân trong cộng đoàn Kitô hữu có thể nhắm vào những khía cạnh khác nhau nhưng đó chỉ là những phương thế để hướng đến việc tối cần thiết của mỗi cộng đoàn là việc loan báo Tin mừng, sứ vụ gắn liền với căn tính và lý do hiện hữu của Giáo hội Chúa Kitô.

IV. PHƯƠNG THẾ THỰC HIỆN SỰ CANH TÂN

Canh tân để thực hiện căn tính của mình là nhu cầu cấp bách của Giáo hội sống trong nhân loại hôm nay. Trong mỗi thời, ở mỗi Giáo hội địa phương, có thể có những phương thế phù hợp để cho sứ mạng loan báo Tin mừng được thực hiện một cách hữu hiệu nhất, nhưng tất cả phải đặt trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trong tương quan mật thiết với con người thời đại, họ vừa là tác nhân của việc loan báo Tin mừng nhưng cũng vừa là điểm đến của sứ mạng cao cả đó.

1. Xuất phát điểm của việc canh tân

Cải tổ mục vụ được nhắc đến ở đây phải gắn liền với một nơi chốn cụ thể, nơi mà ở đó con người là điểm đến của sự phục vụ, nơi gắn liền với những bản sắc về truyền thống, văn hoá, nơi mà đức tin của dân Chúa được dệt nên từ những kí ức thiêng liêng, từ những khoảnh khắc vô cùng ý nghĩa trong hành trình đức tin của gia đình và cộng đoàn. Nơi cần được quan tâm và để cập ở đây là các giáo xứ. Mặc dù giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin mừng, nhưng nếu một khi giáo xứ tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, giáo xứ vẫn tiếp tục là “Hội Thánh sống giữa các gia đình của các con trai con gái mình”[83].

Một giáo xứ, dù lớn hay nhỏ, cũng đều là một cộng đoàn cần được tổ chức, được quan tâm, được hướng dẫn để mọi thành phần dân Chúa sống và thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, hầu đón nhận muôn vàn ân sủng. Giáo xứ là sự hiện diện của Giáo hội tại một địa phương nhất định, một môi trường để các Kitô hữu nghe Lời Chúa, tăng trưởng trong đời sống đức tin, đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ[84]. Tuy nhiên, với những hạn chế, với những ảnh hưởng của thời đại, của các trào lưu bên ngoài, giáo xứ vẫn chưa thực hiện đúng vai trò của mình, trong tư cách là nơi nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng, trong tư cách vai trò trung gian để đưa người khác đến với suối nguồn ơn cứu độ. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhìn nhận rằng, lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo[85]. Giáo xứ cần được canh tân để cộng đoàn đó và những con người thuộc về, chu toàn bổn phận của mình trước mặt Chúa.

Nguyên tắc chủ đạo của việc canh tân, nguyên tắc tiệm tiến, phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển của cộng đoàn. Mỗi vấn đề được đặt ra để cải tổ, canh tân phải được xét một cách kỹ lưỡng, hài hoà trong bối cảnh thực tế của đời sống cộng đoàn và phải gắn chặt với cộng đoàn mà không gây tổn thương[86]. Vì thế huấn thị cải tổ mục vụ của bộ giáo sĩ cảnh báo nguy cơ đốt cháy giai đoạn trong việc canh tân và nguy cơ quên lãng những con người thực tế: Đừng “đốt giai đoạn” khi muốn thực hiện việc cải cách quá vội vàng dựa trên những tiêu chuẩn chung chung với kiểu lý luận “bàn giấy” mà quên đi những con người cụ thể đang sống trong lãnh thổ[87].

Với đường hướng canh tân như vậy, các giáo xứ, dù trong những hoàn cảnh đặc thù vẫn hiệp nhất trong sự hài hoà và trong đa dạng với các giáo xứ khác trong giáo phận, góp phần làm cho Giáo hội địa phương, mỗi ngày một thăng tiến hơn. Đó chính là sự hiệp thông truyền giáo mà Giáo hội địa phương, dưới sự hướng dẫn của Đức Giám mục, cần thủ đắc để mở ra chân trời hy vọng, hướng đến sự năng động, cởi mở và nhiệt tình trong việc truyền giáo.

2. Canh tân ý thức, tâm trí

Sự canh tân xét trong liên hệ chặt chẽ với tinh thần hoán cải là điều cần thực hiện trước hết. Xét về khía cạnh cộng đoàn, sự hoán cải đó không chỉ hệ tại ở việc kêu gọi mọi người dành ra những giây phút chung với nhau để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng, sống các mầu nhiệm đức tin hay cử hành nghi thức phụng vụ mà còn để cùng nhau đề ra những cách thế hữu hiệu nhất để truyền giáo phù hợp với hoàn cảnh thực tế của mỗi địa phương, dựa trên nguyên tắc chung, theo sự hướng dẫn của Giáo hội hoàn vũ và dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Sự hoán cải này bao gồm cả việc hoán cải xuất phát từ những cá nhân, những con người được mời gọi tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô.

Truyền giáo không chỉ là bổn phận dành riêng cho những người đảm trách những chức vụ trong Giáo hội, của hàng giáo sĩ hay của những người sống đời thánh hiến. Truyền giáo là sứ mạng của mỗi người. Giáo dân được kêu gọi thực thi nhiệm vụ tiên tri, nhiệm vụ trực tiếp phát xuất từ Phép Rửa của họ, như lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II: «Giáo dân, vì là thành phần của Hội thánh, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin mừng. Các bí tích khai tâm Kitô giáo và các ân huệ Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng cho họ thi hành sứ mạng này»[88].

Sự canh tân Giáo hội sẽ không bao giờ đạt được những hoa trái tốt nếu không gợi cho mọi Kitô hữu ý thức được bổn phận và trách nhiệm này của mình trước mặt Chúa và trước mặt muôn dân. Sự hoán cải – canh tân trước hết là chiều kích nội tâm, cá nhân, liên quan đến mỗi giáo dân, dù họ là người mới bắt đầu hay là người đã được “xác nhận lâu năm”, dù họ là thừa tác viên của Giáo hội hay tác nhân trong chính cuộc sống của mình ở cương vị này hay cương vị khác[89]. Đó là sự canh tân không nhắm tới những cơ cấu, ban ngành, các hội đoàn hay cách tổ chức, nhưng là sự canh tân về ý thức, về tâm trí của những người thuộc về Giáo hội. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề cập đến điều cốt lõi trong việc canh tân trong tông huấn Evangelii Gaudium: «Thay đổi cơ cấu mà không tạo ra những xác tín và những thái độ mới, thì chính những cơ cấu đó sớm muộn gì cũng trở nên biến chất, ngột ngạt và vô hiệu»[90].

Tất cả mọi sự canh tân trong Giáo hội đều nhằm phục vụ cho nhiệm vụ truyền giáo: từng lĩnh vực hoạt động của Giáo hội và từng người với những chức vụ khác nhau đều được kêu gọi chu toàn phận sự của mình. Mọi người đều phải tham gia missio ad gentes - sứ vụ truyền giáo cho các dân tộc[91]. Mỗi người đóng vai trò trong việc Phúc âm hoá. Vì lẽ đó mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh luôn sẵn sàng để thực hiện việc rao truyền danh Chúa như Công đồng Vaticanô II đã hướng dẫn: «Không một tín hữu nào trong Chúa Kitô lại có thể thấy mình xa lạ với trách nhiệm này, một trách nhiệm phát xuất từ việc thuộc về Thân Thể Chúa Kitô theo cách bí tích»[92].

Quả thật, tiến trình hoán cải và canh tân không thể được áp đặt từ bên trên, mà không quan tâm đến dân Chúa. Nhân tố để giúp cho các tín hữu nhận thấy trách nhiệm, ý thức được vai trò của mình trong việc loan báo Tin mừng chính các mục tử, những người được sai đến để hướng dẫn, để phục vụ và để cho đoàn chiên sống trọn căn tính của mình. Trong việc cải tổ cơ cấu theo hướng mục vụ, các cha sở phải cho dân Chúa thấy được ý nghĩa của việc trung tín với phép xức dầu do ân sủng của Chúa Thánh Thần[93], nêu cao những thực hành cũng như những mẫu gương, qua đó mỗi người đã được rửa tội, nhờ ơn Chúa Thánh Thần và các đặc sủng đã lãnh nhận, thể hiện như một tác nhân tích cực của việc Phúc-Âm-hóa[94]. Đây có thể được coi là sự canh tân về nhân sự phục vụ cho việc loan báo Tin mừng mà các cộng đoàn giáo xứ, các cộng đoàn đức tin cần thực hiện trong thời đại hôm nay.

Đã đến lúc giáo dân phải tích cực hơn nữa trong việc sống đức tin và làm chứng đức tin trong môi trường mình sống. Một mặt trong bổn phận của mình, họ phải ra sức sống đức tin cách sinh động và ý thức, bằng những hành vi cụ thể dưới ánh sáng Tin mừng, mặt khác, họ cũng được mời gọi can đảm giới thiệu niềm tin của mình cho những người chưa nhận biết Chúa. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… và ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (x. Mt 5, 13a.16).

3. Để Chúa Thánh Thần hướng dẫn việc canh tân

Trong việc canh tân các chương trình mục vụ hướng đến việc truyền giáo, vai trò của các giám mục, linh mục và cả giáo dân là điều không thể bàn cải. Sự nhiệt tình và khôn ngoan của họ giúp cho cộng đoàn đức tin cơ bản, cộng đoàn Giáo hội địa phương đi đúng với quỹ đạo, với hành trình lữ hành tiến về Đất Hứa. Trong phạm vi giáo xứ, vai trò của những linh mục, những mục tử được đào tạo kỹ lưỡng thực sự trở nên nhân tố rất quan trọng trong việc canh tân giáo xứ. Bộ Giáo sĩ làm nổi bật vai trò đó của các linh mục được huấn luyện thường xuyên[95]: với sự khôn ngoan, với nghệ thuật phân định, các ngài giúp cho đời sống giáo xứ được phát triển và trưởng thành, khi tôn trọng các ơn gọi và thừa tác vụ khác nhau[96].

Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của các tông đồ trong việc truyền giáo, Chúa Thánh Thần đóng vai trò chủ đạo (x. Cv 15, 22-29). Ngài là tác nhân chủ yếu trong công cuộc loan báo Tin mừng. Cũng như Chúa Thánh Thần đã hoạt động nơi Đức Kitô trong khi Người rao giảng Tin mừng Nước Trời, chính Ngài cũng là linh hồn hoạt động trong sứ mạng của Hội thánh và cũng chính Ngài ban cho các môn đệ của Đức Kitô tinh thần tông đồ truyền giáo, đồng hành với họ để nhắc nhở và gợi ý những điều phải làm phải nói trước con người của thời đại[97] (x. Lc 12, 8-12; Ga 16, 12-15).

Vì thế Giáo hội hôm nay xét trên mọi bình diện, muốn canh tân, đổi mới cần có sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng là quà tặng nhưng không của Chúa Cha và Chúa Con cho Hội thánh – ở trung tâm của cộng đoàn, Đấng không những hướng dẫn cộng đoàn từ trong suy nghĩ, hướng đi mà còn thúc đẩy qua những hành vi cụ thể, qua lòng quảng đại, sự hy sinh phục vụ[98].

Với Giáo hội tại Á châu, trong bối cảnh cánh đồng truyền giáo rộng lớn, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại vai trò của Chúa Thánh Thần như cách Ngài thực hiện thời Giáo hội sơ khai: «Thánh Thần, Đấng đã hành động trên Á Châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Đức Giêsu và Giáo hội sơ khai, bây giờ vẫn tác động giữa các người Kitô hữu Á Châu, bằng cách củng cố chứng tá đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa»[99]

Một ví dụ cụ thể và rất gần để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội là tiến trình hiệp hành được khởi xướng bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô. Đó là một phương thế, một sáng kiến để canh tân Hội thánh qua ý hướng nhân loại, nhưng được khởi xướng bởi Chúa Thánh Thần như Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: «Đặc trưng của nẻo đường hiệp hành là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúng ta nghe, chúng ta bàn luận trong nhóm, nhưng trên hết chúng ta chú tâm đến những gì Chúa Thánh Thần nói với chúng ta»[100].

Để nhận ra được vai trò của Chúa Thánh Thần và nhất là để cho Ngài hướng dẫn trên đường lữ hành về thiên quốc, Giáo hội không còn cách nào khác hơn là cầu nguyện với Ngài. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Giáo hoàng Phanxicô khi ngài viết về cách thế để lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần: «Nài xin Ngài đến và đổi mới Hội thánh, lay động và thúc đẩy Hội thánh mạnh bạo ra đi loan báo Tin mừng cho mọi dân mọi nước»[101]. Từ đây mở ra hay đúng hơn là nhắc lại một chiều kích rất quan trong trong đời sống Giáo hội: cầu nguyện, chiêm niệm, như cách mà Chúa Giêsu đã khen Maria, em của thánh Marta, đã chọn phần tốt nhất (x. Lc 10,42).

Hoạt động canh tân Giáo hội là điều rất tốt và cần thiết nhưng nếu hoạt động đó không đặt trên sự hoán cải, tức làm theo thánh ý Chúa, không gắn liền với mầu nhiệm Chúa Kitô và không để Chúa Thánh Thần hướng dẫn là một nguy cơ cho Giáo hội. Các hoạt động mục vụ là cần thiết, tuy nhiên đôi lúc người tông đồ thường bị cám dỗ hoạt động thái quá. Nên nhớ rằng Hội thánh không phải là một tổ chức hoạt động tôn giáo theo mô hình xã hội mà còn là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và là công cụ của Chúa Thánh Thần[102]. Hạt giống Tin mừng sinh hoa kết quả không chỉ bởi công sức của con người hay công sức những người rao giảng, nhưng chủ yếu là do sức mạnh của Thiên Chúa (x. Mc 4,26-29).

Vì vậy sự canh tân Hội Thánh hướng đến việc truyền giáo đòi hỏi dành ưu tiên cho đời sống cầu nguyện và chiêm niệm như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã nhấn mạnh trong tông huấn Ecclesia in Asia: «Tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm»[103]. Chính các Tông đồ ngày xưa là mẫu gương cho Giáo hội trong công cuộc canh tân và hoạt động truyền giáo trong thế giới hôm nay. Các ngài đã dành ưu tiên cho cầu nguyện, và chính vì thế - chứ không phải vì các hoạt động khác - «Lời Thiên Chúa vẫn lớn lên, số môn đệ tăng thêm rất nhiều» (Cv 6, 4.7).

Vì vậy công cuộc canh tân Giáo hội, cải tổ mục vụ chỉ là sự cộng tác của con người vào chương trình của Thiên Chúa, Đấng là khởi nguyên và là cùng đích, Đấng sẽ làm cho công cuộc canh tân được tốt đẹp từ khởi sự cho đến hoàn thành, qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

4. Cải tổ nơi chính những người lãnh đạo

Những người quản trị một cộng đoàn hay một giáo xứ được coi là những người đại diện cho Giáo hội để giúp cho cộng đoàn sống đức tin, thường là những linh mục. Họ là những người mang lấy sứ vụ vương đế của Chúa Kitô một cách cụ thể nhất. Cũng như Chúa Kitô, các ngài được chọn không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ người khác. Các ngài sống tinh thần của Chúa Kitô Vua trong ơn gọi của mình, tức người làm lớn phải là người phục vụ, người đứng đầu phải trở nên đầy tớ chứ không phải như thủ lãnh các dân, những người dùng quyền mà thống trị kẻ khác. (x. Mc 10,42-44).

Linh mục ngày nay càng phải thấy được đòi buộc cấp bách của việc tiếp nối vai trò vương đế của Chúa Giêsu, khi nhận ra rằng, các ngài được gọi và chọn là để phục vụ bởi lẽ trọn đời sống và tác vụ linh mục gắn liền với sứ mạng đó[104]. «Người muốn sử dụng chúng ta như khí cụ để ngày càng đến gần hơn với dân thánh của Người. Người đã chọn chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng ta đến với dân Người[105], nhất là những người tội lỗi, những kẻ bé mọn, những người đau khổ, bất hạnh, những người bị loại ra bên lề xã hội. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đau khổ, chịu đóng đinh qua những con người bất hạnh đó.

Vì vậy để canh tân một cộng đoàn hướng đến chiều kích mục vụ đúng nghĩa, các linh mục, những người lãnh đạo, cần canh tân chính tư tưởng của mình. Các ngài hiểu rằng mình được sai đến để làm đầy tớ phục vụ, như Đức Giáo hoàng Phaolô VI thừa nhận mình là đầy tớ của mọi đầy tớ. Việc cải tổ cơ cấu mà Hội thánh thực hiện đòi hỏi phải thực sự thay đổi não trạng và đổi mới tâm hồn, nhất là những người được trao phó trọng trách lãnh đạo mục vụ[106].

Ngày nay, một chủ trương sống đang làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đến cung cách mục vụ và chất lượng mục vụ của các mục tử của Chúa là tư tưởng giáo sĩ trị. Đây là thái độ dẫn đến việc các linh mục coi thường giáo dân, coi thường Bí tích Rửa tội của họ. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê bình tư tưởng này trong thư ngài gởi cho Đức Hồng y Marc Ouellet, chủ tịch Uỷ ban Giáo hoàng về châu Mỹ La Tinh: «Thái độ giáo sĩ trị không chỉ huỷ đi cá tính của người Kitô hữu, nhưng còn dẫn đến việc giảm thiểu và hạ thấp ơn ích Bí tích Rửa tội mà Chúa Thánh Thần đã đặt vào con tim của người tín hữu. Giáo sĩ trị dẫn đến việc áp đặt chuẩn mực cho giới giáo dân, bằng cách cư xử với họ như “kẻ thừa hành”»[107].

Những người bị thái độ giáo sĩ trị chi phối tự cho mình cao trọng hơn giáo dân, những người bị đánh giá thấp kém, và vì thế giáo dân không có cơ hội để phục vụ cộng đoàn đức tin bằng những khả năng, sáng kiến và sự nhiệt tình của mình. Khi đó hoa trái trong đời sống mục vụ của các linh mục dường như bằng không, nếu không muốn nói chạm tới số âm, khi gây nên gương mù gương xấu trong tương quan với giáo dân từ suy nghĩ đến cách hành xử của mình. Các ngài đã làm nghèo sứ mạng của mình khi dung dưỡng thái độ giáo sĩ trị và làm nghèo Nước Chúa khi làm cho việc rao giảng, việc loan báo Tin mừng đi ngược với ý định của Thiên Chúa.

Cải tổ mục vụ nơi chính những người lãnh đạo trong thế giới hôm nay là nói không với tư tưởng giáo sĩ trị như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh:

«Hình thái giáo sĩ trị, dù được dung dưỡng bởi chính các linh mục hay bởi những người giáo dân, đều gây ra sự chia tách trong thân thể Giáo hội; sự chia tách này vừa khuyến khích vừa giúp duy trì nhiều sự ác mà ngày nay chúng ta tố giác. Nói không với những lạm dụng là dứt khoát nói không với mọi hình thái giáo sĩ trị»[108].

Vì vậy cần phải vượt qua, và loại bỏ không những quan niệm giáo xứ tự quy chiếu về mình mà còn quan niệm “giáo sĩ hóa việc mục vụ” để hướng đến một cuộc canh tân mang tính toàn diện đối với mọi thành phần dân Chúa. Khi đó giáo xứ, với tư cách là trung tâm phát động chính của công cuộc loan báo Tin mừng, liên quan đến mọi thành phần khác nhau của dân Thiên Chúa: linh mục, phó tế, những người thánh hiến và Kitô hữu giáo dân, mỗi người tùy theo đặc sủng và trách nhiệm của đấng bậc mình[109].

Sự cải tổ đó cũng đồng nghĩa với việc nhìn nhận và trả lại đúng ý nghĩa của ơn đoàn sủng mà mỗi Kitô hữu đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Cũng như các linh mục, họ đón nhận những khả năng, những nén bạc riêng để qua đó, họ phục vụ cộng đoàn dân Chúa:

Phải nghiêm túc nhìn nhận rằng Dân Chúa “theo danh phận mình có phẩm giá và tự do của con cái Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong đền thờ”[110]. Điều này thúc đẩy phát triển những thực hành cũng như các mẫu gương mà qua đó mỗi người đã được rửa tội, nhờ ơn Chúa Thánh Thần và các đặc sủng đã lãnh nhận, thể hiện như một tác nhân tích cực của việc Phúc-Âm-hóa, theo phong cách và phương thức của một cộng đoàn có tổ chức, cùng với những cộng đoàn giáo xứ khác cũng như với việc mục vụ của toàn giáo phận[111].

Vì vậy, trên bình diện giáo xứ, công cuộc cải tổ mục vụ không chỉ gắn liền với tâm tình hoán cải của những Kitô hữu giáo dân, những người sống và làm nên cộng đoàn, mà còn gắn liền với những người lãnh đạo cộng đoàn. Khi tâm trí và ước muốn thuộc về Chúa, khi suy nghĩ và hành động nên giống Chúa Giêsu hơn, các ngài mới thật sự làm cho Nước Chúa trị đến trong chính ơn gọi của mình.

5. Canh tân trong việc rao giảng lời Chúa

Những hình thức canh tân vừa trình bày ở trên được coi như là những yếu tố chủ quan, tức liên hệ đến con người. Đó có thể là những người lãnh đạo cộng đoàn, có thể là những Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ. Tất cả phải được làm mới từ suy nghĩ, lời nói và hành động trong Chúa Thánh Thần để hướng tới việc cải tổ những yếu tố khách quan, những hoạt động làm nên đời sống đức tin và làm nên căn tính của cộng đoàn, của Giáo hội hoàn vũ, trong đó có việc rao giảng Tin mừng.

Với Bí tích Rửa tội, mỗi Kitô hữu mang lấy sứ mạng ngôn sứ của Chúa Kitô, sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng viết hoa không phải là những chữ, những lời khô khan trong quyển Kinh thánh mà là chính Thiên Chúa, như Đức Giáo hoàng Phanxicô viết rõ: Tâm điểm của sứ điệp rao giảng sẽ vẫn luôn luôn là một: Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình thương vô biên của Người nơi Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh[112], Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời (x. Dt 13,8). Sự giàu có và vẻ đẹp của Người thì vô biên[113], như Thánh Irênê viết: «Với việc đến trần gian này, Đức Kitô mang theo với Ngài tất cả sự mới mẻ»[114].

Rao giảng Tin mừng là nhiệm vụ bắt buộc và khẩn thiết như thánh Phaolô đã xác tín: «Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng» (1Cr 9,16). Tin mừng đó là duy nhất và không có một Tin mừng nào khác có sức giải thoát con người, mang lại cho con người ơn cứu độ. Thánh Phaolô đã cảnh báo giáo đoàn Côrintô về viễn cảnh xấu xa, tai hại nếu họ đón nhận một tin mừng nào khác: Quả thật, nếu có ai đến rao giảng một Đức Giêsu khác với Đức Giêsu mà chúng tôi rao giảng, hay nếu anh em lãnh nhận một Thần Khí nào khác với Thần Khí anh em đã lãnh nhận, hoặc nếu anh em lãnh nhận một Tin Mừng nào khác với Tin Mừng anh em đã đón nhận, thì anh em sẵn lòng chịu đựng được ngay (2Cr 11,4).

Lời của Chúa vẫn là chân lý bất di bất dịch, không lệ thuộc vào không gian, thời gian, không bị chi phối bởi yếu tố nhân loại, thế nhưng Lời đó không bị đóng khung cách cứng nhắc mà luôn mới mẻ và Hội thánh không ngớt kinh ngạc trước “chiều sâu của sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa” (Rm 11,33)[115]. Lời đó vẫn đang nói với mỗi người trong thời đại hôm nay, tại đây và ngay lúc này. Thế nhưng giải thích lời Chúa không bao giờ được thực hiện với sự tự tiện mang tính chất cá nhân, tránh nguy cơ làm sai lệch, bóp méo lời của Thiên Chúa. Thánh Phêrô nhắc nhở: «Nhất là anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa» (2 Pr 1, 20-21).

Vì vậy việc rao giảng Lời Chúa được coi như một sứ mạng được trao phó và cần có những cách thế cụ thể, phù hợp để nhận ra được ý Chúa, hầu làm cho Lời Chúa sinh hoa kết quả nơi mảnh đất tâm hồn của người nghe. Đó là lý do để thấy được nhu cầu cần thiết của công cuộc canh tân việc rao giảng Tin mừng trong chương trình cải tổ mục vụ tại các giáo xứ. Canh tân việc rao giảng Tin mừng không phải là sự đổi mới nội dung Lời Chúa mà là đổi mới phương pháp rao giảng, thay đổi ngôn ngữ rao giảng, đổi mới sự nhiệt tình trong việc rao giảng để phù hợp với người nghe, với thời đại.

Trong thời đại hôm nay, thời đại con người sống thực dụng hơn, hối hả chạy đua với thời gian, công việc, việc rao giảng Tin mừng bằng lời nói, bằng giáo thuyết dường như không hiệu quả nữa như nhận định của Đức Giáo hoàng Phaolô VI: «Con người thời nay họ nghe những chứng nhân hơn những thầy dạy và nếu họ nghe những thầy dạy vì đó là những chứng nhân»[116]. Rao giảng Tin mừng trong thời đại hôm nay phải là cuộc rao giảng bằng chính cuộc sống, bằng gương sáng để giúp cho người nghe dần dần sống tương quan cá vị với Thiên Chúa. Mục vụ huấn giáo không chỉ nhằm cung cấp một số kiến thức về kho tàng đức tin của Hội thánh, nhưng còn là dẫn đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa trong một tương quan cá vị, yêu mến Chúa, và từ đó thay đổi lối sống của mình theo ánh sáng đức tin[117].

Canh tân việc rao giảng Tin mừng trong thời đại hôm nay là một đòi buộc không thể phớt lờ. Giáo hội không thể hoàn thành sứ mạng của mình và thậm chí đi ngược với sứ mạng đó nếu bản thân không làm cho mình trở nên mới mẻ, vui tươi và hấp dẫn cho người đương thời. Đó chính là nguyện ước mà Đức Giáo hoàng Phanxicô bày tỏ khi bắt đầu tông huấn Evangelii Gaudium: «Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh. Trong Tông huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới»[118]. Đó cũng chính là những lời khích lệ đến từng người trong giáo hội địa phương ở đây và lúc này, hầu mỗi người cộng tác với nhau, cùng nhau hoán cải, canh tân, hướng đến việc loan báo Tin mừng tràn đầy niềm vui và gặt hái được nhiều hoa trái.

KẾT LUẬN

Trong một thế giới đa tôn giáo, đa văn hoá, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tương đối, để thực hiện sứ mạng tiếp nối công trình cứu độ của Chúa Kitô, Giáo hội chắc hẳn đối diện với những thử thách chông gai. Giáo hội của Chúa Kitô không cho phép vì bất kỳ lý do gì để bản thân phải dừng lại, hoặc làm mất đi căn tính của mình. Một tinh thần bất di bất dịch mà Giáo hội phải luôn mang lấy trên hành trình của mình là: sống tinh thần nhập thể như Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Đầu của Hội thánh. Giáo hội luôn xác định rằng, con người là con đường đi của mình[119]. Nhân loại là phương thế để Giáo hội hoàn tất sứ mạng và hoàn thiện căn tính của mình.

Giáo hội phải ra đi và chấp nhận chịu thua thiệt, vượt qua sự an toàn bản thân để đụng chạm đến sự đau thương, sự nhơ bẩn cả về thể xác lẫn tinh thần của nhân loại hôm nay. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đưa ra định hướng rất rõ: Mục đích của Giáo hội là thuộc về Đức Kitô trọn vẹn để được trọn vẹn thuộc về nhân loại, ở giữa nhân loại, sống cho nhân loại. Hội thánh không có mục đích nơi chính mình, không dừng lại nơi chính mình vì Hội thánh không phải là cứu cánh[120]. Và điều này đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh trong tông huấn Evangelii Gaudium: «Trung thành noi gương Thầy mình, Hội thánh hôm nay thấy tuyệt đối phải ra đi rao giảng Tin mừng cho mọi người, mọi nơi, mọi dịp, không do dự, không miễn cưỡng hay sợ hãi»[121].

Bước đi trong thế giới ở đó con người thay đổi rất nhiều từ suy nghĩ, não trạng cho đến phương thế hành động, với chiếc la bàn là tinh thần nhập thể, Giáo hội khi cần thiết, điều chỉnh góc độ, hướng của kim la bàn. Điều đó có nghĩa là Giáo hội chấp nhận những sự thay đổi trong cách tổ chức, cách hoạt động của mình để phù hợp với thời đại. Đó chính là sự canh tân không ngừng của Hội thánh, một sự canh tân không phải để tìm lối đi mới mang tính chất phá đổ, hay đi ngược với căn tính của mình. Góc độ của kim la bàn có thể thay đổi, nhưng gốc của nó phải luôn bám chặt vào trục, đó chính là ý định của Thiên Chúa, Lời dạy của Chúa Kitô và là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Hay nói cách khác gốc la bàn đó chính là căn tính của Giáo hội trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi và trong tương quan với người đương thời, những tương quan sẽ không bao giờ thay đổi trên hành trình lữ thứ của mình.

Để giữ được mối tương quan với Thiên Chúa và với con người thời nay theo như ý định ban đầu của Ngài, con người không thể không đặt mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa với tinh thần hoán cải thật sự. Hoán cải để can đảm nhận ra những lầm lỗi, những yếu đuối và khiếm khuyết để Thiên Chúa lấp đầy ơn của Ngài, hầu đủ sức thực hiện sự canh tân trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn, không chỉ về tâm trí mà còn về định hướng, phương pháp và cơ cấu tổ chức. Nhờ đó Giáo hội mới có thể thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng khắp nơi, góp phần mang ơn cứu độ đến với muôn người (x. Mc 16,15).

Nguồn: gpquinhon.net

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây