Giáo Phận Ban Mê Thuộthttps://gpbanmethuot.vn/assets/images/logo.png
Thứ năm - 28/09/2023 03:29 |
895
Mối hiệp thông Giáo hội trong đó, nhờ đức tin và Phép rửa, mỗi người được đính ghép vào, là một mối hiệp thông phát nguyên từ và quy tâm về với Bí tích Thánh Thể.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ: SUỐI NGUỒN HIỆP THÔNG Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP.
WHĐ (25.09.2023) – Mối hiệp thông Giáo hội trong đó, nhờ đức tin và Phép rửa, mỗi người được đính ghép vào, là một mối hiệp thông phát nguyên từ và quy tâm về với Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, Phép rửa là hành động hội nhập vào trong một Thân Thể được Chúa Phục Sinh xây dựng và làm cho sinh động nhờ Thánh Thể, đến độ Thân Thể ấy có thể thực sự được gọi là Thân Mình của Đức Kitô. Bí tích Thánh Thể sở dĩ là nguồn mạch và là sức mạnh sáng tạo làm phát sinh nên mối hiệp thông giữa các phần tử của Giáo hội, là vì chính bí tích này kết hợp từng người trong họ lại với Đức Kitô: “Thông phần thực sự vào Thân Mình của Chúa Kitô qua việc bẻ bánh Thánh Thể, chúng ta được nâng lên đến mức hiệp thông với Người và với nhau. “Vì chỉ có một tấm bánh, nên tuy nhiều, hết thảy chúng ta cũng chỉ là một thân thể; bởi lẽ tất cả chúng ta đều chia phần cùng một tấm bánh duy nhất ấy” (1Cr 10, 17)[1].
Công đồng Vaticanô II khẳng định, Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô giáo, và qua bí tích này, con người “dâng lên Thiên Chúa Tế vật thần linh và hiến dâng chính mình cùng với Tế vật ấy”[2]. Công đồng cũng nhìn nhận Bí tích ThánhThể là tâm điểm của các bí tích khác: “Những bí tích khác, cũng như mọi thừa tác vụ trong Hội thánh, và các hoạt động tông đồ, đều gắn liền với Bí tích Thánh Thể và quy hướng về Bí tích này”, bởi lẽ “phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội thánh, đó là chính Đức Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta”[3].
Bí tích Thánh Thể cũng được gọi là Bí tích của sự hiệp thông Giáo hội. Thật vậy, trong Thánh Thể, người lãnh nhận không chỉ được hiệp thông theo chiều dọc (với Chúa Kitô, và qua Người bước vào hiệp thông sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi), mà còn là chiều ngang (hiệp thông với tha nhân); không chỉ hiệp thông với quá khứ mà còn là tương lai; không chỉ hiệp thông với Hội thánh khải hoàn mà còn với Hội thánh thanh luyện nữa. Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông sự sống thần linh của Thiên Chúa. “Vì vậy Thánh Thể xuất hiện như là đỉnh cao của tất cả các bí tích vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha bằng cách đồng hóa với Người Con yêu dấu duy nhất của Người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần”[4]. Đồng thời, Thánh Thể cũng đưa chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa với tha nhân, với cộng đoàn Hội thánh: “trong Đức Kitô và nhờ hoạt động của Thánh Thần liên kết chúng ta với Chúa Cha và với nhau.” Xuất phát từ hai mối bận tâm, Tông thư Desiderio Desideravivà Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam về chủ đề mục vụ năm 2023 là Củng cố sự hiệp thông, bài viết này xin được trình bày vài ý tưởng căn bản về chủ đề hiệp thông và mối tương quan giữa Thánh Thể và Hiệp Thông. Đức thánh cha Phanxicô tỏ bày khao khát của ngài trong Tông thư Desiderio Desideravi: “để tất cả mọi người có thể ngồi ăn bữa tiệc hy tế của Chiên Con và được sống nhờ Người” (số 5). Ngay từ khởi đầu của sứ vụ, Đức Giêsu vẫn khao khát và mời gọi con người bước vào sự hiệp thông với Người. “Khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta, đã và vẫn là dự định từ đầu củaNgười, sẽ không được thoả mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc, và quốc gia (Kh 5, 9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho tới khi Người trở lại” (số 4). Do đó, Đức Thánh Cha muốn mời gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa hãy tái khám phá ý nghĩa, giá trị, và vẻ đẹp của Phụng vụ thánh để bảo toàn và gia tăng sự hiệp thông trong Giáo hội và kín múc sự sống sung mãn, tràn đầy nơi mầu nhiệm Vượt Qua.
Hoà trong nhịp đập của Giáo hội hoàn vũ, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã đề ra chương trình mục vụ cụ thể cho ba năm liên tiếp như một sự khai triển và đào sâu tinh thần hiệp hành trong đời sống Giáo hội địa phương[5]. Hiệp thông, tham gia, và sứ vụ là ba chiều kích của Giáo hội hiệp hành sẽ được cụ thể hóa qua chương trình suy tư, học hỏi, và hoạt động mục vụ, “để cùng sống đức tin và xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô”.
Năm 2023: Củng cố sự hiệp thông;
Năm 2024: Thúc đẩy sự tham gia đời sống Giáo hội;
Năm 2025: Cùng nhau loan báo Tin Mừng.
Với chủ đề “Củng cố sự hiệp thông” của năm 2023, Hội đồng Giám mục đã đề ra những hướng dẫn mục vụ sinh động với bốn khía cạnh trong đời sống: Hiệp thông nơi bàn tiệc Lời Chúa, hiệp thông nơi bàn tiệc Thánh Thể, hiệp thông trong lối sống bác ái Kitô giáo, và hiệp thông trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại. Hai gợi ý đầu tiên hướng về đời sống thiêng liêng và được trình bày cụ thể như sau:
a. Mối hiệp thông giữa các tín hữu được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa. Cần cổ võ việc đọc Kinh Thánh đối với cá nhân, việc chia sẻ Lời Chúa trong gia đình hoặc trong nhóm nhỏ, để Lời Chúa thấm nhập cuộc sống. Đối với các linhmục, nhiệm vụ quan trọng nhất là loan báo Lời Chúa. Ước mong các vị chủ chăn quan tâm dành thời gian chuẩn bị bài giảng trong các cử hành Phụng vụ, mở các lớp học Thánh Kinh và giúp anh chị em tín hữu được nuôi dưỡng bằng Lời hằng sống.
b. Bí tích Thánh Thể là nguồn suối hiệp thông. Khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp thông với Chúa và được liên kết với nhau (xc. 1 Cr 10,16-17). Vì thế, các tín hữu cần tham dự thánh lễ cách tích cực và sống động, nhờ đó ngày càng củng cố mối hiệp thông với Chúa và với nhau trong Chúa. Cũng cần giúp các tín hữu hiểu biết Phụng vụ, như Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi trong Tông Thư về đào tạo Phụng vụ cho Dân Chúa (Desiderio Desideravi), ban hành ngày 29-6-2022. (số 4-5)
Với những định hướng trên, bài viết này sẽ trình bày sơ lược lịch sử ý niệm ẩn chứa nơi cụm từ hiệp thông: khi nói tới hiệp thông, chúng ta muốn nhắm tới điều gì. Thánh Thể đưa con người vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, “thần hóa con người” tới mức con người trở thành Chúa. Đây là chủ đề thứ hai, và chủ đề thứ ba là sự hiệp thông với tha nhân, chiều kích hàng ngang, là sự hiệp thông Thánh Thể mở ra trước mỗi cá nhân. Trong chiều kích này, chúng ta đặc biệt tìm hiểu ý nghĩa của thánh lễ theo phương pháp thần học - mục vụ mà Liên Hội đồng Giám mục Á Châu gợi ra. Thánh lễ là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Dân Người qua đó Thiên Chúa mời gọi con người sống trong sự hiệp thông sâu xa với Người, để rồi được Người chữa lành, bồi bổ và gia tăng sức sống. Sự sống được toả lan khi con người sống mối hiệp thông này vì đồng thời họ cũng được hiệp thông với tha nhân.
Được hiểu như là mầu nhiệm của mối liên kết một cách cá nhân giữa mỗi người với Thiên Chúa Ba Ngôi, và với những người khác, khái niệm hiệp thông “nằm ngay ở điểm chính yếu của sự việc Giáo hội tự nhận thức về mình”: mối liên kết ấy khởi đầu với lòng tin, và hướng tới tình trạng viên mãn cánh chung nơi Giáo hội trên trời, nhưng đồng thời, đó cũng là một thực tại đang hiện diện manh nha nơi Giáo hội tại thế. (Thư gửi các Giám mục, 3).
Khái niệm hiệp thông (tiếng Latinh: communio, Hy Lạp: Koinonia) là một khái niệm có từ rất lâu đời trong Giáo hội, ngay từ những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, trong Thánh Kinh. Khái niệm này được Công đồng Vaticanô II sử dụng một cách sinh động và đa dạng để nói về chiều kích cốt lõi cũng như đào sâu những chiều kích khác nhau trong mầu nhiệm Giáo hội. Để có thể nắm bắt những tầng lớp ý nghĩa sinh động của cụm từ này, người ta phải luôn tìm hiểu nó trong bối cảnh giáo huấn Thánh Kinh và truyền thống giáo phụ[6]. Mỗi góc nhìn khác nhau sẽ giúp ta hiểu những chiều kích đa dạng khác nhau ẩn chứa trong khái niệm này. Đức Thánh Cha Phaolô VI dùng từ hiệp thông để chỉ hai cách tham tham dự vào sự sống Thiên Chúa: “Giáo hội có nghĩa là hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh biểu thị hai cách tham dự vào sự sống: tháp nhập các Kitô hữu vào đời sống của Đức Kitô, và lưu chuyển cùng một đức ái trong toàn thể cộng đồng tín hữu thuộc thế giới này cũng như thế giới bên kia. Hiệp nhất với Đức Kitô và trong Đức Kitô; và hiệp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo hội””[7]. Đức Gioan Phaolô II lại muốn làm nổi bật chiều kích Lời Chúa và Bí tích: “Tựcăn bản, đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa, qua trung gian Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt được sự hiệp thông này nhờ Lời Chúa và các bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ và là nền tảng của sự hiệp thông trong Giáo hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là cao điểm của toàn bộ đời sống Kitô giáo (xc. GH 11). Sự hiệp thông với Thánh Thể Đức Kitô vừa biểu thị vừa làm phát sinh - nói khác đi là xây dựng - sự hiệp thông sâu xa của tất cả mọi tín hữu trong Thân Thể Đức Kitô là Giáohội (xc. 1Cr 19,16)”[8].Tuy được diễn tả qua nhiều chiều kích khác nhau, sự hiệp thông cũng chỉ quy hướng về ý niệm Dân Thiên Chúa và Thân Thể Đức Kitô, qua đó Giáo hội là Bí tích và là sự hiệp thông[9].
Để có thể nắm bắt khái quát về những tầng lớp ý nghĩa của từ hiệp thông, sự truy tầm lịch sử của khái niệm này là cần thiết. Chúng ta sẽ cùng lược qua những ý nghĩa của khái niệm này trong Thánh Kinh, truyền thống thần học, Công đồng Vaticanô II, và những suy tư sau Công đồng[10].
1.1. Trong Thánh Kinh
Trong tiếng Hipri của Cựu ước, tương đương với koinonia là haburah dùng để gọi cộng đoàn các tín hữu theo hàng ngang, nhưng không áp dụng để nói đến tương quan của con người với Thiên Chúa, bởi vì con người chỉ là tôi tớ của Người, hoàn toàn suy phục Người. Điều mới mẻ của Tân ước là dám sử dụng cho mối tương quan với Thiên Chúa, bởi vì con người được chia sẻ bản tính của Thiên Chúa (theias koinonoi physeos: 2 Pr 1,4).
Trong Tân ước, danh từ này xuất hiện 19 lần với ý nghĩa thay đổi tùy theo bối cảnh khác nhau. Dựa trên sự phân tích của Heinrich Seeseman[11], cha Jérôme Hamer O.P. cho thấy danh từ này bao hàm ba ý tưởng: (1) Sự đóng góp, góp phần (Mittelsamkeit: contributing), trong bối cảnh của cuộc lạc quyên, chẳng hạn 2Cr 9,13; Rm 15,26; (2) sự tham gia, thông phần vào, chia sẻ (anteilhaben: participating), chẳng hạn 1Cr 10,16; Pl 3,10; (3) cộng đoàn (Gemeinschaft: community), một nhóm người cùng ý hợp tâm đồng với nhau, giả thiếtsự liên đới và chia sẻ: Gl 2,9-10; Cv 2,41-42; 1Ga 1,3.6-7.
Nhìn dưới khía cạnh đối tượng tham gia, chúng ta nhận thấy ba điểm quy chiếu: về Đức Kitô, về Thánh Linh, về Hội thánh. Quy chiếu về Đức Kitô: hiệp thông với Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi trở thành anh em là Con của một Cha (1Cr 1,9); hiệp thông với Mình và Máu của Người (1Cr 10,16); hiệp thông vào những đau khổ của Người (Pl 3, 10), vv. Quy chiếu về Thánh Linh: được hiệp thông trong Thánh Linh, chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa (2Pr 1,4), cộng tác vào cuộc loan báo Tin mừng (Pl 1,5). Thánh Linh là chủ động của sự thông hiệp (2Cr 13, 13; Pl 2,1). Nên lưu ý là thánh Phaolô không nói đến hiệp thông với Thánh Linh (như khi nói về Chúa Kitô); ngược lại Thánh Linh là chủ động của hiệp thông; hiệp thông là một ân huệ do Thánh Linh ban. Quy chiếu về Hội thánh: hiệp thông với Hội thánh; cộng đoàn các tín hữu chia sẻ các của cải tinh thần và vật chất (Cv 2,42-45; 4,32-37), tham gia các hoạt động liên đới của cộng đồng (2Cr 8,4), công tác của vị tông đồ ở các cộng đoàn khác (2Cr 8,23), v.v...
1.2. Trong truyền thống thần học
Trong truyền thống Kitô giáo, communio được dùng trong nhiều bối cảnh khác nhau.
1/ Communio Trinitatis
Tư tưởng này muốn nói lên sự khác biệt và hợp nhất nơi Tam vị: Tam vị nhất thể. Cha không phải là Con, Con không phải là Thánh Linh, Thánh Linh không phải là Cha; nhưng không phải là ba mà chỉ là một Thiên Chúa. Hơn thế nữa, thần học còn tạo ra thuật ngữ tiếng Hy-lạp Perichoresis để diễn tả sự “thấm nhập” lẫn nhau, chứ không chỉ “hướng về nhau” (tương quan, relatio) mà thôi, và được dịch sang tiếng Latinh là circuminsessio (hay circumincessio). Tam Vị không chỉ là nguồn gốc mà còn là mẫu mực và cứu cánh của Giáo hội. Tất cả mọi hoạt động của Giáo hội đều nhắm đến lý tưởng và thánh Gioan đã vạch ra ở đầu bức thư thứ nhất trong 1Ga 1, 1- 4. Thoạt tiên xem ra bản văn này chỉ nói đến Chúa Cha và Đức Giêsu. Tuy nhiên, dựa theo 2Cr 13,13, ta có thể nói rằng Thánh Linh chính là sự hiệp thônggiữa Cha và Con. Cũng có tác giả lưu ý rằng niềm vui là biểu tượng của Thánh Linh.
2/ Communio eucharistica
Sự hiệp thông Bí tích Thánh Thể. Ý tưởng này dựa trên đoạn văn 1Cr 10,16, và nêu bật sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Trong ngôn ngữ bình dân, người ta thường hiểu communio (hoặc sacra communio) theo nghĩa này: rước Mình Thánh Chúa, hiệp lễ.
3/ Communio sanctorum
Sự hiệp thông giữa các thánh. Cụm từ này đã xuất hiện trong Tín biểu các thánh tông đồ (thế kỷ IV), và có thể hiểu theo hai nghĩa: sự hiệp thông “trong những sự thánh” (bí tích), hay là “giữa các thánh”. Nên biết là vào lúc đầu, các “thánh” được hiểu về tất cả những người đã lãnh bí tích Thánh tẩy, như chúng ta đọc thấy trong các thư thánh Phaolô. Đến khi có phong trào trở lại đạo cách ồ ạt, thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng của giai đoạn dự tòng, các “thánh” được dành cho các phúc nhân trên trời. Từ đó dịch sang tiếng Việt là “các thánh thông công”. Sách GLCG đã duy trì cả hai nghĩa đó (946-961; xem thêm 1026-1027; 1029; 1474-1477).
4/ Communio ecclesialis
Thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trải qua dòng thời gian. Nghĩa đơn giản hơn cả là sự hợp nhất trong nội bộ Giáo hội, dựa trên tư tưởng của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô 4,3 (“Một thân thể, một Thần khí, một niềm hy vọng... một Chúa, một niềm tin, một phép rửa… một Thiên Chúa, Cha của mọi người”). Thứ đến, nó cũng được hiểu về sự hợp nhất giữa các các Giáo hội, communio ecclesiarum. Sự hiệp thông này được diễn tả qua nhiều hình thức: Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các Giáo hội địa phương gặp gỡ nhau tại các Công đồng, công nghị; thông tri cho nhau việc đắc cử Giám mục (littera communionis); trao đổi cho nhau bánh hiệp thông. Đó là hình ảnh của một “Ecclesia communio”. Sang thiên niên kỷ thứ hai, từ khi xảy ra sự cắt đứt hiệp thông giữa Rôma và Constantinopolis (năm 1054), hình ảnh được thay thế bằng “Ecclesia universalis”:Giáo hội duy nhất dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng. Các Giám mục được bổ nhiệm “nhờ ơn Tòa Thánh”. Sự cắt đứt “giao hảo với Tòa Thánh” dẫn tới sự ly giáo.
1.3. Công đồng Vaticanô II
Thượng hội đồng Giám mục, khóa ngoại thường năm 1985 nhằm kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng Vaticanô II, đã tuyên bố rằng “khái niệm communio là đặc trưng của Giáo hội học Công đồng”. Từ sau Công đồng Trentô, Giáo hội thường được nhìn dưới khía cạnh hữu hình và định chế phẩm trật. Cuộc canh tân Giáo hội học trong thế kỷ XX tìm cách nêu bật khía cạnh siêu nhiên và vô hình của Giáo hội, khởi đi từ khái niệm “Thân thể mầu nhiệm Đức Kitô”, được đánh dấu bởi thông điệp Mystici corporis của Đức giáo hoàng Piô XII (1943). Một khái niệm khá phổ thông vào những năm trước Công đồng là “bí tích”. Hiến chế Lumen Gentium du nhập thêm hai khái niệm quan trọng là “Mầu nhiệm” và “Dân Thiên Chúa” được đặt làm tựa đề cho hai chương đầu. Trong các văn kiện Công đồng, thuật ngữ “communio” xuất hiện 112 lần (khá nhiều, nếu so với 4 lần trong các văn kiện của Công đồng Vaticanô I), nhưng dùng theo nhiều nghĩa khác nhau.
1/ Trước tiên, communio là sự kết hợp nội tâm, vô hình, bí tích và siêu nhiên liên kết tất cả các Kitô hữu với Đức Kitô và với nhau trong Người. Nói chung toàn thể nhân loại được mời gọi đến communio với Thiên Chúa (GS 19). Nói chính xác hơn, nhân loại được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Linh (UR 7.15). Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta đến hiệp thông với Đức Kitô và với nhau (LG 7). Đây là sự hiệp thông giữa những kẻ có đức tin (UR 2), hoặc cộng đoàn huynh đệ mới (GS 32) mà nguồn mạch và trung tâm là Đức Kitô (UR 20). Được thiết lập như là sự hiệp thông của sức sống, tình yêu và chân lý (LG 9), cộng đoàn này có Thánh Linh làm nguyên ủy hợp nhất (UR 2). Sự hiệp thông nội tại, siêu nhiên được biểu lộ ra bên ngoài, do đó trở thành cộng đoàn đức tin, hy vọng và yêu mến (AG 19). Hiến chế Lumen Gentium khẳng định rằng trong Giáo hội có một sự hiệp thông sâu xa giữa tất cả mọi người đã đượcrửa tội: tất cả đều có chung một Đức Chúa và một Thánh Linh, họp thành một thân thể duy nhất; tất cả chia sẻ cùng một đức tin và cùng một phép rửa, cùng một ân huệ và ơn gọi, và cùng trách nhiệm và công tác (LG 32). Sự hiệp thông này không chỉ giới hạn vào những người trên trần thế mà còn mở rộng đến những người đã đi vào vinh quang thiên quốc (LG 50). Vì thế communio có một ngoại biên rất rộng, mở rộng đến biên cương trên trời dưới đất, thời gian và không gian vô tận của Giáo hội. 2/ Communio cũng được dùng để ám chỉ những mối tương quan giữa các nhóm ở trong Dân Thiên Chúa. Các tu sĩ được liên kết với nhau bằng sự hiệp thông huynh đệ (LG 43). Có sự hiệp thông giữa các Giáo hội Đông phương công giáo với nhau (OE 2) và giữa họ với Đức Giáo hoàng (OE 24). Công đồng lấy lại khái niệm thời các giáo phụ, áp dụng communio cho mối tương quan giữa các Giáo hội địa phương với nhau (AG 19) cũng như với Giáo hội phổ quát (AG 38).
3/ Công đồng còn sử dụng thuật ngữ communio hierarchica (cách riêng ở chương 3 của LG) để diễn tả cơ cấu của Dân Thiên Chúa. Giáo hội được tổ chức thành cơ cấu phẩm trật. Sự hiệp thông phẩm trật được áp dụng cho mối dây liên kết giữa tập đoàn Giám mục với vị nguyên thủ (LG 21). Sự hiệp thông phẩm trật cũng được áp dụng cho mối tương quan giữa các linh mục giáo phận với Giám mục (PO 7).
4/ Công đồng còn áp dụng từ communio trong lãnh vực đại kết để nói về những cấp độ liên kết khác biệt: “trọn vẹn hoặc chưa trọn vẹn”. Các Kitô hữu ngoài công giáo được gọi là những “anh em chưa được hiệp thông trọn vẹn” (GS 92). Thuật ngữ communio non plena chứa đựng một yếu tố tích cực: có một sự hiệp thông về cầu nguyện và ân huệ thiêng liêng (LG 15) giữa các Giáo hội, và tất cả được Thánh Linh kết hợp với nhau cách nào đó. Tuy nhiên, Công đồng nhìn nhận rằng communio này còn bất toàn, và làm ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn, biểu hiện qua việc cùng chia sẻ việc cử hành Thánh thể (UR3).
1.4. Sau Công đồng Vaticanô II
Như đã nói trên đây, sau Công đồng Vaticanô II, các sách thần học thường nêu bật khái niệm “Dân Thiên Chúa” như là tư tưởng đặc trưng của Công đồng, và đã được Hiến chế Lumen Gentium dành chương Hai để khai triển. Sự chuyển hướng sang khái niệm communio được thúc đẩy do nhiều lý do, trong đó ta không thể bỏ qua một lý do nhân bản và một lý do thần học. Lý do nhân bản là con người thời đại cảm thấy cần gắn kết với nhau, để không bị rơi vào tình trạng cô độc do chủ nghĩa cá nhân đề xướng. Lý do thần học là ý thức về sự tham gia vào đời sống Giáo hội được gợi lên từ hình ảnh Dân Thiên Chúa. Ý tưởng hiệp thông nói lên sự tôn trọng nguyên tắc hợp nhất đồng thời với nguyên tắc đa dạng trong đời sống Giáo hội. Một lý do nữa được gợi lên do những cuộc đối thoại đại kết: vào thời các giáo phụ, communio được dùng để nói đến tương quan giữa các Giáo hội địa phương với nhau.
Những dấu mốc của sự chuyển hướng này có thể tóm lại như sau:
1/ Thượng hội đồng Giám mục khóa 1985 đã cô đọng bản chất Giáo hội vào ba khái niệm “mầu nhiệm - hiệp thông - sứ vụ”. Riêng đối với khái niệm hiệp thông, văn kiện kết thúc khóa họp đã nhấn mạnh đến ba điểm:
Sự hiệp thông được dựa trên các bí tích và bản tính là thiêng liêng. Vì thế “Giáo hội học hiệp thông” không thể nào thu gọn vào những chuyện tổ chức hoặc thực thi quyền bính.
Giáo hội duy nhất và phổ quát hiện hiện trong tất cả các Giáo hội địa phương. Cần phải nhìn nhận sự duy nhất và đa dạng trong Giáo hội.
Sự tham gia và đồng trách nhiệm cần được diễn ra ở mọi cấp độ và trong các mối tương quan hỗ tương giữa các Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân. Sự hiệp thông là một sự cam kết của tất cả mọi tín hữu (chứ không phải chỉ vài người dấn thân, hoặc có ơn gọi) đối với Chúa Kitô. Điều này làm thay đổi bộ mặt của Giáo hội: từ một xã hội được cấu trúc dựa trên quyền bính do chức thánh (hàng Giám mục) sang một cộng đồng các tín hữu có ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc xây dựng Giáo hội.
2/ Hạn từ communio xuất hiện 100 lần trong Tông huấn Christifideles Laici (1988) bàn về người tín hữu giáo dân, nêu bật tương quan giữa các hàng ngũ trong Giáo hội. Điều này mang theo hai thách đố (số 18-20): Cần phải hiểu sự thông hiệp như một thực tại vừa thiêng liêng vừa hữu hình. Sự thông hiệp trong Giáo hội cũng cần được hiểu với tính cách hữu cơ (organica) theo nghĩa sự đa dạng và bổ túc giữa các ơn gọi. Trong Giáo hội có nhiều ơn gọi: chính trong sự bổ túc ơn gọi mà người giáo dân nhận ra sứ mạng của mình trong toàn thân thể.
Văn kiện cũng muốn liên kết giữa “hiệp thông và sứ vụ”. Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, là nguồn mạch của sự hiệp thông với Thiên Chúa và giữa loài người, đồng thời cũng là nguồn mạch của việc loan báo Tin mừng, nghĩa là công bố vương quốc Thiên Chúa giữa loài người. Hiệp thông và sứ vụ ảnh hưởng lẫn nhau: sự hiệp thông là dấu chỉ hữu hiệu cho việc truyền giáo (xc. Ga 17,21), và làm cho Giáo hội biểu lộ như là bí tích của sự hợp nhất.
3/ Khái niệm communio dần dần đã trở thành quen thuộc trong văn chương thần học, nhưng cũng không thiếu những giải thích lệch lạc. Vì thế ngày 28-5-1992, Bộ Giáo lý Đức tin đã gửi cho các Giám mục một bức thư để giải thích “Vài khía cạnh của Giáo hội hiểu như là communio” (Communionis notio), nhắc lại vài điểm quan trọng:
Khái niệm hiệp thông bao gồm khía cạnh hữu hình và vô hình: không thể nào tách biệt hai khía cạnh ấy. Mặt khác, Giáo hội được thiết lập như bí tích cứu độ, vì thế không thể nào khép kín trong mình, nhưng cần phải mở ra chiều kích đại kết và truyền giáo ngõ hầu quảng bá mầu nhiệm hiệp thông.
Khái niệm hiệp thông bao hàm sự hợp nhất trong đa dạng. Giáo hội là cộng đoàn huynh đệ mà cũng là cơ cấu phẩm trật. Giáo hội phổ quát vừa bao hàm sự thống nhất chặt chẽ vừa bảo vệ sự đa dạng dưới nhiều phương diện: tác vụ, các hình thức sinh sống và hoạt động tông đồ.
4/ Cũng vào năm 1992, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo được ban hành, đúc kết những giáo huấn của Giáo hội về sự hiệp thông, cách riêng khi giải thích đặc điểm của Giáo hội là “duy nhất” (số 813-822) và khi nói đến các hàng ngũ khác nhau trong Giáo hội: giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ (số 871-873).
5/ Năm 1996, Tông huấn Vita consecrata được ban hành, trong đó từ hiệp thông xuất hiện 95 lần. Tông huấn nói đến nhiều cấp độ hiệp thông khác nhau: hiệp thông huynh đệ (trong cộng đoàn), hiệp thông giữa các tu sĩ và Giám mục, hiệp thông giữa các hội dòng, hiệp thông với các giáo dân. Đặc biệt là tông huấn nói đến “linh đạo hiệp thông” (số 46). Chủ đề này được Đức Gioan Phaolô II khai triển nhiều hơn trong tông thư Novo millennio ineunte (6-1-2001) từ số 42-46. Ý tưởng được tóm lại ở số 43 như sau:
Biến Giáo hội thành nhà và trường hiệp thông: đó là thách đố lớn giáp mặt chúng ta trong ngàn năm đang bắt đầu, nếu chúng ta muốn trung thành với chương trình của Chúa và đáp ứng những ước mơ sâu xa nhất của thế giới.
Tâm trí chúng ta hướng ngay tới việc phải làm, nhưng đó không phải là động lực đúng phải theo. Trước khi vạch ra những chương trình thực hành, chúng ta cần cổ võ một linh đạo hiệp thông, làm cho linh đạo đó thành nguyên lý hướng đạo giáo dục bất cứ nơi nào huấn luyện các cá nhân và người Kitô hữu, bất cứ nơi nào đào tạo những kẻ phục vụ bàn thờ, những người tận hiến và những lao công mục vụ, bất cứ nơi nào xây dựng các gia đình và các cộng đồng.
Một linh đạo hiệp thông dạy cho biết trước tiên sự chiêm ngắm trong lòng về mầu nhiệm Ba Ngôi ở trong chúng ta, và chúng ta cũng phải có khả năng thấy ánh sáng của Người sáng chói trên gương mặt của anh chị em xung quanh chúng ta. Một linh đạo hiệp thông cũng có nghĩa là một khả năng suy nghĩ đến anh chị em chúng ta trong đức tin, trong phạm vi hiệp nhất sâu xa của Thân thể Mầu nhiệm, và do đó như “những người là thành phần của tôi”. Điều này cho chúng ta khả năng chia sẻ những niềm vui và những đau khổ của họ, cảm giác những ước muốn của họ và chú tâm đến những nhu cầu của họ, hiến cho họ tình bạn sâu sắc và chân chính. Một linh đạo hiệp thông cũng bao gồm khả năng thấy điều tích cực nơi kẻ khác, đón nhận điều đó và khen ngợi điều đó như là một hồng ân Thiên Chúa ban: không những như là một hồng ân cho người anh người chị đã trực tiếp lãnh, mà còn như là “một hồng ân cho tôi”. Sau cùng, một linh đạo hiệp thông có nghĩa là biết cách “nhường chỗ” cho các anh chị em chúng ta, bằng cách “mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6,2) và chống lại những cám dỗ ích kỷ thường hay bao vây chúng ta và khơi dậy sự ganh đua, sự ham danh vọng, sự ngờ vực và ghen tương.
Chúng ta không nên có những ảo tưởng: nếu chúng ta không theo con đường thiêng liêng này, những cơ cấu bên ngoài để hiệp thông sẽ sinh rất ít kết quả. Chúng sẽ biến thành những cỗ máy không hồn,“những mặt nạ” hiệp thông hơn là những quyết định, nhưng điều đó không phải là chúng ít có ý nghĩa và kém thích hợp. Khoa thần học và linh đạo hiệp thông khuyến khích một sự đối thoại đầy hiệu quả giữa các Chủ Chăn và các tín hữu: một mặt liên kết họ ưu tiên trong tất cả những gì thiết yếu, và mặt khác đưa họ tới sự đồng thuận có cân nhắc trong các vấn đề mở rộng cho bàn cãi. Muốn đạt mục đích này, chúng ta cần làm như của riêng mình sự khôn ngoan mục vụ ngày trước, sự khôn ngoan đó khuyên các vị mục tử lắng nghe rộng rãi hơn toàn Dân Chúa, mà không thiệt hại gì đến uy quyền của mình. Thật ý nghĩa lời thánh Bênêđictô nhắn nhủ Viện phụ của một đan viện, ngài mời ông ấy hỏi ý kiến ngay cả những thành phần trẻ nhất trong cộng đoàn: “Nhờ Chúa soi sáng, thường một người trẻ hơn lại biết điều hay nhất”. Và thánh Paulinus thúc giục: “Chúng ta hãy nghe điều giáo dân nói, bởi vì trong mỗi một người đó, Thần Khí Chúa thổi hơi”.
Khi sự khôn ngoan lề luật, bằng cách cung cấp những quy tắc chính xác cho việc tham dự, làm chứng cho cấu trúc phẩm trật của Giáo hội và đẩy xa mọi chước cám dỗ dẫn tới những chuyên quyền hay những thỉnh nguyện bất công, thì linh đạo hiệp thông, nhờ thúc giục một sự tín cẩn và cởi mở hoàn toàn phù hợp với phẩm giá vàtrọng trách của mỗi thành phần Dân Chúa, làm cho thực tại cơ chế có một linh hồn.
Tóm kết: Trong lịch sử thần học, khái niệm communio mang tính loại suy, và được gắn với nhiều thực thể khác nhau, như chúng ta đã thấy:
Communio trinitaria: Tam Vị là nguồn mạch, khuôn mẫu và mục tiêu của sự hiệp thông trong Giáo hội. Ý tưởng này gắn kết “hiệp thông với “mầu nhiệm”: mầu nhiệm hiệp thông.
Communio eucharistica: Trong bí tích Thánh Thể, người tín hữu hiệp thông với Đức Kitô và với Thân thể của Người. Tư tưởng nêu bật chiều kích huyền nhiệm cũng như bí tích của sự hiệp thông. Communio sanctorum: sự hiệp thông giữa các thánh nêu bật chiều kích cánh chung của Giáo hội. Communio fidelium: sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau do sự hiệp thông vào những kho tàng thiêng liêng của Giáo hội (Lời Chúa, bí tích).
Communio ecclesiarum: sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương với Giáo hội phổ quát. Communio hierarchica: ý tưởng bình đẳng giữa các phần tử cần được kết hợp với ý tưởng cơ cấu phẩm trật của Giáo hội.
2. Những yếu tố tạo nên sự hiệp thông Giáo hội[12]
2.1. Lời Chúa
Tông huấn Verbum Domini (số 7) lưu ý chúng ta rằng “Lời Chúa” là một thuật ngữ loại suy. Ngay chính văn kiện cũng là một thí dụ rõ ràng về việc sử dụng thuật ngữ Lời Chúa một cách loại suy, bởi vì chúng ta có thể tìm thấy 8 ý nghĩa khác nhau: (1) Lời Chúa hiểu là Ngôi Hai trong Thiên Chúa Tam Vị. Đây là ý nghĩa tiên khởi và chính yếu, nguyên ủy của các ý nghĩa khác (analogatum princeps). (2) Nhântính được kết hợp với Ngôi Lời. (3) Thiên Chúa thông đạt mình cho một người nào đó. (4) Thiên Chúa mặc khải trong Cựu ước. (5) Trong Tân ước, thuật ngữ này được sử dụng để ám chỉ lời giảng của các thánh Tông đồ (xc. Verbum Domini 4.7). (6) Kinh thánh cũng được gọi là Lời Chúa. (7) Truyền thống của Hội thánh cũng có thể được gọi là Lời Chúa (xc. Dei Verbum 10). Việc tạo dựng, cuốn sách thiên nhiên (Liber Naturae) cũng có thể được gọi là lời của Chúa, bởi vì Ngôi Lời tự phát biểu ở trong đó.
Ý tưởng căn bản của Lời Chúa là chính Đức Kitô. Lời Chúa “triệu tập” Giáo hội. Giáo hội được thành hình bởi những người chấp nhận Lời Chúa và tuyên xưng đức tin.
2.2. Các Bí tích
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã mở đầu đoạn nói về các bí tích với những khái niệm “Các bí tích của Đức Kitô” (số 1114-1116) và “Các bí tích của Hội thánh” (số 1117-1121). Thuật ngữ này được giải thích như sau (số 1118):
Các bí tích là “của Hội thánh” theo hai nghĩa: chúng là “do Hội thánh” và “cho Hội thánh”. Các bí tích là “do Hội thánh” bởi vì Hội thánh là bí tích của hành động của Đức Kitô Đấng đang hoạt động trong Hội thánh nhờ sứ vụ của Chúa Thánh Thần. Và các bí tích là “cho Hội thánh”, “nhờ chúng mà Hội thánh được xây dựng” bởi vì chúng biểu lộ và truyền thông cho con người, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của sự hiệp thông của Thiên Chúa-Tình Yêu, Đấng là Một Chúa Ba Ngôi. Hiến chế Lumen Gentium số 11 đã mô tả những cách thức khác nhau mà mỗi Bí tích góp phần vào việc xây dựng Hội thánh. Hơn nữa, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo còn vạch ra mối liên hệ của vài bí tích đối với sự hiệp thông:
a) Bí tích Rửa tội tháp nhập vào Hội thánh là Thân thể Đức Kitô (số 1267-1270). Bí tích Rửa tội đặt nền tảng cho sự hiệp thông giữa tất cả các Kitô hữu (số 1271, quy chiếu về sắc lệnh Unitatisredintegratio 3).
b) Bí tích Thánh thể làm nên Hội thánh (số 1396). Một ngạn ngữ từ thời Trung cổ viết rằng: “Thánh Thể làm nên Hội thánh - Hội thánh làm nên Thánh Thể: “Ecclesiam aedificavit Eucharistia et Ecclesia Eucharistiam efficit ”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành một thông điệp - Ecclesia de Eucharistia (ngày 17-4-2003), để trình bày mối tương quan giữa Thánh Thể và Hội thánh, đặc biệt ở chương Hai (“Thánh Thể xây dựng Hội thánh”: số 21-25 ) và chương Bốn (“Thánh Thể và sự hiệp thông Hội thánh”: số 34-46). Như sẽ thấy sau, không những Bí tích Thánh thể hợp nhất các tín hữu nên một Thân Thể, mà chính buổi cử hành Thánh lễ còn biểu lộ bản tính của Giáo hội.
c) Mặc dù cả hai bí tích Truyền chức thánh và Hôn phối đều được xếp chung vào các “bí tích phục vụ sự hiệp thông” (số 1534), nhưng danh xưng này được áp dụng cách riêng cho bí tích Truyền chức, bởi vì những người lãnh nhận được “thiết định nhân danh Đức Kitô để nên mục tử chăn dắt Giáo hội bằng lời và ân sủng của Thiên Chúa” (số 1535).
3.1. Hiệp thông theo chiều đứng thẳng và chiều ngang
Như đã trình bày, khái niệm hiệp thông không phải là một khái niệm đơn nghĩa, và cần được suy tư trên nền tảng giáo huấn Kinh thánh và truyền thống giáo phụ. Cụm từ hiệp thông phải luôn bao hàm hai chiều kích: Chiều đứng thẳng (hiệp thông với Thiên Chúa) và chiều ngang (hiệp thông với tha nhân). Theo chiều thẳng đứng, hiệp thông trước tiên như là ân lộc của Thiên Chúa, như là hoa trái của sáng kiến thần linh được thực hiện nơi mầu nhiệm Vượt qua. Con người bước vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, một tương quan được thiết lập trong Đức Kitô và được thông ban qua các bí tích; theo chiều ngang, hiệp thông là mối liên hệ mới giữa con người với Thiên Chúa được nối dài thêm bằng một mối liên hệ mới giữa con người với con người. “Bởi thế, khái niệm hiệp thông phải có khả năng để diễn đạt, một mặt là bản chất bí tích của Giáo hội trong khi “chúng ta còn sống lưu đày xa Chúa”, và mặt khác là mối hiệp nhất đặc thù có sức làm cho các tín hữu trở thành những chi thể của cùng một Thân Thể: tức là của Nhiệm Thể Đức Kitô, trở thành cộng đoàn có cơ cấu tổ chức, cũng như trở thành “một dân tộc được quy tụ lại trong sự hiệp nhất giữa Cha, Con và Thánh Thần”, và ngoài ra, còn được trao ban những phương thế phù hợp cho sự hiệp nhất cả về phương diện hữu hình và xã hội nữa”[13].
3.2. Hiệp thông hữu hình và vô hình
Hiệp thông trong Giáo hội phải được hiểu đồng thời dưới hai khía cạnh hữu hình và vô hình. Xét dưới khía cạnh hữu hình, đó là sự hiệp thông trong giáo huấn của các tông đồ, trong các Bí tích, và trong phẩm trật Giáo hội. Giáo luật trình bày rất rõ những khía cạnh này tại điều 205: “Những người đã được rửa tội, liên kết với Đức Kitô trong cơ cấu hữu hình của Giáo hội Công giáo bằng những dây liên kết của việc tuyên xưng đức tin, của các bí tích và của việc lãnh đạo của Giáo hội, thì được hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo trên địa cầu này.” Xét dưới khía cạnh vô hình, sự hiệp thông trong Giáo hội chính là sự hiệp thông của mỗi người với Chúa Cha, qua Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và với những người khác, là những người cùng được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô, trong cùng một đức tin, cùng một tinh thần. “Qua những ân lộc thần linh mang hình thái của những thực tại hữu hình như thế, Đức Kitô thi hành chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Người ngay giữa lòng lịch sử và bằng nhiều cách thức khác nhau để cứu độ loài người. Chính mối liên hệ giữa những yếu tố vô hình và hữu hình của niềm hiệp thông trong Giáo hội đã làm cho Giáo hội trở nên Bí tích Cứu độ”[14].
Dưới khía cạnh hữu hình và vô hình này, còn phải kể đến sự hiệp thông các thánh, vốn là một lối diễn tả bắt nguồn từ trong Truyềnthống các Tông đồ từ thế kỷ thứ tư. “Việc thông phần chung và hữu hình vào các ân lộc cứu độ (các sự thánh), và đặc biệt vào Bí tích Thánh Thể, là nguồn cội phát sinh mối hiệp thông vô hình giữa những người tham dự (các thánh). Mối hiệp thông ấy bao hàm một giây liên đới thiêng liêng giữa các phần tử của Giáo hội, trong tư cách là chi thể của cùng một Thân Thể, và hướng tới việc làm cho họ kết hợp thực sự trong đức ái qua việc kiến tạo “mối đồng tâm nhất trí chung”. Mối hiệp thông cũng hướng tới việc kết hiệp trong cầu nguyện, do cùng một Thần Khí gợi hứng lên nơi mọi người, đó chính là Thánh Thần “làm cho toàn thể Giáo hội được sung mãn và hiệp nhất”[15] Như thế, sự hiệp thông các thánh không chỉ là sự hiệp thông giữa các thành viên của Hội thánh Lữ hành, mà còn là sự hiệp thông với tất cả các thành viên của Hội thánh Khải hoàn cũng như Thanh luyện.
4. Thiên Chúa Ba Ngôi: Kiểu mẫu, nguồn mạch, và cùng đích của sự hiệp thông Giáo hội
Như đã trình bày, hiệp thông không phải là sáng kiến, cũng không phải là ý muốn của con người. Hiệp thông có khởi nguồn và khuôn mẫu từ chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa là Hiệp thông giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa dựng nên con người và cho con người được tham dự vào sự hiệp thông của Thiên Chúa. Khi con người phạm tội, đánh mất sự hiệp thông này thì Con Thiên Chúa, qua mầu nhiệp nhập thể cứu độ, đã giao hoà con người với Thiên Chúa và liên kết con người với nhau trong cùng một Thánh Thần.
“Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu trọn hảo giữa Cha, Con và Thánh Thần. Ngay trong công trình tạo dựng, con người đã được gọi chia sẻ một phần nào đó vào hơi thở sự sống của Thiên Chúa (xc. St 2,7). Nhưng chính trong Chúa Kitô, chết và sống lại và lúc tuôn đổ Thần Khí, được ban cách vô ngần vô hạn (xc. Ga 3,34) mà chúng ta được trở nên những người tham dự vào sự sống sâu thẳm của Thiên Chúa. (16) Chúa Giêsu Kitô, Đấng “nhờ Thánh Thần hằng hữu đã tựhiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa” (Hr 9,14), chuyển thông cho chúng ta trong hồng ân Thánh Thể chính sự sống thần linh”[16].
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4)
Thánh Thể đưa người lãnh nhận đến sự hiệp thông với Chúa Kitô. Nhờ việc rước Mình và Máu Chúa, chúng ta nên một với Người: được thông phần vào cuộc thương khó, cái chết và phục sinh của Người. Nhờ được thông hiệp với Đức Kitô, chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Cha, Đấng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, ngõ hầu chúng ta được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự kết hợp với Chúa Kitô mang lại sự thay đổi cho cuộc đời chúng ta, và những sự biến đổi ấy không gì khác hơn là để ngày càng hiệp thông hơn với Ba Ngôi Thiên Chúa, điều mà các Giáo phụ Đông phương gọi là “thần hoá” (divinisatio) và qua đó, chúng ta bước vào sự hiệp thông sâu xa với anh chị em mình. Cuộc thần hóa đã thực sự bắt đầu từ Bí tích Rửa tội, Thêm sức và được nuôi dưỡng nhờ bí tích Thánh Thể: chúng ta được biến đổi để nên một với Chúa Giêsu, con yêu dấu của Chúa Cha (Ga 6, 56-57). Đó cũng là ý nghĩa của việc “hiệp lễ” (communio): chúng ta rước Mình Máu Thánh Chúa để được kết hiệp với Chúa Giêsu, và trong Người, chúng ta được kết hiệp với Thiên Chúa Ba ngôi và với tất cả các phần tử của gia đình Chúa (xc. GLCG số 1331).
“Các tín hữu cần tham dự thánh lễ cách tích cực và sống động, nhờ đó ngày càng củng cố mối hiệp thông với Chúa và với nhau trong Chúa.” Có lẽ để lời mời gọi này không trở thành một thứ biểu ngữ, chúng ta cần giúp cho người tín hữu thấy được vẻ đẹp lung linh huyền nhiệm nơi thánh lễ. Khi tham dự phụng vụ thánh lễ, đó là lúc chúng ta sống và làm tăng trưởng sự hiệp thông diệu kỳ của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Qua việc tham dự Phụng vụ thánh lễ, con người nuôi dưỡng và sống mối hiệp thông của mình với Thiên Chúa. Mối hiệp thông này lại được chính Thiên Chúa củng cố và đưa tới hoàn hảo. Con người được chiêm ngắm tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, được chiêm ngắm chính Thiên Chúa - Đấng hiện diện cách độc đáo duy nhất nơi Thánh Thể, được thông dự vào chính sự sống thần linh và hưởng nếm trước ‘hạnh phúc thiên đàng’. Sự gặp gỡ cá vị này sẽ càng thúc đẩy con người khao khát Thiên Chúa hơn, đồng thời hướng con người vào một lối sống đặc thù của những “tình nhân”: Sống trọn vẹn phút hiện tại, khao khát thuộc trọn về Chúa - nên thánh...
1. Bí tích Thánh Thể: Tăng trưởng và kiện toàn sự hiệp thông
Nếu nói Bí Tích Thánh Tẩy là cánh cửa dẫn vào đời sống hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau, thì Bí tích Thánh Thể là Bí tích làm tăng trưởng sự hiệp thông đó (GLCG 1391). Quả vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56). Khi chúng ta rước lễ là chúng ta đón nhận chính Đức Kitô và hệ quả là chúng ta được kết hợp thân mật với Người, được thông dự vào sự sống thần linh của Người. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) Chúa không chỉ ở lại với chúng ta mà còn ‘ở trong’ chúng ta. “Tiếp rước Thánh Thể là đi sâu vào mối thân tình hiệp nhất với Chúa Giêsu. “Các con hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong các con” (Ga 15,4). Mối giao hảo này “liên kết” chúng ta lại với Chúa một cách sâu xa và hỗ tương khiến chúng ta có thể nếm cảm được hạnh phúc thiên đàng ngay tại thế”[17].
Bí tích Thánh Thể không chỉ củng cố, mà còn đưa sự hiệp thông tới chỗ hoàn hảo, xét trong mọi chiều kích của sự hiệp thông này: “việc cử hành Thánh Thể không phải là khởi điểm của sự hiệp thông; bí tích này giả định đã có sự hiệp thông, một sự hiệp thông mà việc cử hành tìm cách củng cố và đưa đến chỗ hoàn hảo. Bí tích là một biểu hiện của mối dây hiệp thông đó, cả trong chiều kích vô hình, tứclà, trong Đức Kitô và nhờ hoạt động của Thánh Thần, liên kết chúng ta với Chúa Cha và với nhau; lẫn trong chiều kích hữu hình, tức dẫn đến sự gắn bó với giáo huấn của các Tông đồ, các phép bí tích và phẩm trật của Hội thánh”[18] Nơi Thánh Thể, sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha được trở nên hoàn thiện qua việc chúng ta được đồng hóa với Người Con nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. “Trong Thánh Thể, “không giống như các bí tích khác, mầu nhiệm [hiệp thông] quá hoàn hảo đến nỗi bí tích này đưa chúng ta đến những đỉnh cao của mọi điều thiện hảo: đó là mục tiêu tối hậu của mọi khát vọng nhân loại, vì ở nơi đó chúng ta đến được với Thiên Chúa và Thiên Chúa kết hiệp với chúng ta trong sự kết hiệp hoàn hảo nhất”. Chính vì lý do này, quả là tốt đẹp khi nuôi dưỡng trong tim ta một lòng khao khát liên lỉ lãnh nhận bí tích Thánh Thể”[19]. Nơi Thánh Thể, con người được hiệp thông vào sự sống thần linh. Thế nhưng, một trong những điều tuyệt diệu tạo nên vẻ đẹp cuốn hút nơi Thánh Thể lại chính là việc chúng ta được chiêm ngắm, được sống tình bạn hữu thân thiết với Đức Giêsu và được sống tình Thầy-trò với Người cách đặc biệt, và duy nhất: Thầy, trò được ‘ở trong’ nhau.
Việc trở nên chi thể của Đức Kitô do Bí tích Thánh tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào Hy tế Tạ ơn, nhất là nhờ việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15,14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: “Kẻ ăn Tôi, sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc “ở trong” nhau giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: “Anh em hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại tronganh em” (Ga 15,4)[20].
1.1. Nơi Thánh Thể: Con người được chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8,16). Đây không phải là một khẩu hiệu trừu tượng về Thiên Chúa, nhưng là điều được diễn tả cách cụ thể qua mầu nhiệm cứu độ. Thiên Chúa đã sai Con mình đến thế gian làm của lễ đền tội, nhằm mang lại sự sống cho chúng ta. “Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu trọn hảo giữa Cha, Con và Thánh Thần. Ngay trong công trình tạo dựng, con người đã được gọi chia sẻ một phần nào đó vào hơi thở sự sống của Thiên Chúa (xc. St 2,7). Nhưng chính trong Chúa Kitô, chết và sống lại và lúc tuôn đổ Thần Khí, được ban cách vô ngần vô hạn (xc. Ga 3,34) mà chúng ta được trở nên những người tham dự vào sự sống sâu thẳm của Thiên Chúa”[21]. Thực vậy, chính Đức Kitô đã tự hiến chính mình trở thành Của Ăn cho chúng ta, để ở lại với chúng ta và thông chuyển cho chúng ta sự sống thần linh. Mỗi khi tham dự cử hành Thánh thể, chúng ta được nhắc nhớ về tình yêu tuyệt diệu của Đấng đã chết vì người mình yêu. Đây là một ơn ban tuyệt đối nhưng không của Thiên Chúa cho con người. Thiên Chúa đã tỏ lòng xót thương dân Người. “Đức Giêsu còn có thể làm gì cho chúng ta hơn nữa chăng? Thật thế, trong Thánh Thể, Người tỏ bày cho chúng ta một tình yêu “cho đến cùng” (xc. Ga 13,1), một tình yêu không thể đo lường được”[22]. Con Chúa hy sinh thân mình mang lại sự sống cho con người. Hy sinh không phải là một điều gì xấu, cần phải tránh, mà là một hành vi cao cả, một lựa chọn của tình yêu và cho tình yêu.
1.2. Nơi Thánh Thể: Con người sống trong sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa
Cách hiện diện của Chúa Giêsu nơi Thánh Thể là hiện diện độc đáo nhất và chân thực nhất. Đó là sự hiện diện “không theo nghĩa độc chiếm, nghĩa là loại trừ tất cả mọi hình thức hiện diện khác, như thểnhững sự hiện diện đó không “có thật”, nhưng như là một sự hiện diện theo nghĩa trọn vẹn nhất: một sự hiện diện theo bản thể, nhờ đó Đức Kitô, Đấng là Thiên Chúa và con người, hiện diện cách hoàn toàn trọn vẹn”[23]. Sự hiện diện chân thực này cũng được liên kết với toàn bộ lịch sử ơn cứu độ: Thiên Chúa cư ngụ (shekina) giữa Dân Người. Thiên Chúa hiện diện trong dân Israel; Trong Đức Kitô, Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa loài người; và ngày nay, Thiên Chúa vẫn hằng hiện diện trong Hội thánh của Người. Tuy vậy, sự hiện diện của Đức Giêsu nơi Thánh Thể là độc nhất vô nhị[24]. Và chính sự hiện diện bản thể này của Người mang lại vẻ đẹp rạng ngời cho cử hành phụng vụ, mang lại muôn vàn ân sủng cho những ai tìm đến với Người. Không gì có thể khiến con người cưỡng lại sự hiện diện tuyệt diệu này: cả đất trời như đọng lại trong sự vĩnh hằng của bàn tiệc thiên quốc.
1.3. Qua Thánh Thể, con người được nên một với Thiên Chúa
Nơi Bí tích ThánhThể, con người được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, được tham dự vào sự sống thần linh. Sự hiệp thông này không phải chỉ là việc chúng ta đón nhận Người vào tâm hồn mình, mà còn ở tầm mức thâm sâu hơn: Chúa Kitô đồng hóa ta với chính Người. Do đó, “chúng ta không chỉ trở nên các Kitô hữu, mà còn trở nên chính Chúa Kitô”. Từ đây chúng ta có thể chiêm ngắm hành động nhiệm mầu của Thiên Chúa đã tạo nên sự hợp nhất sâu xa giữa chúng ta và Chúa Giêsu: “Thật sự Đức Kitô không chỉ ở nơi đầu mà không ở nơi thân mình, nhưng Người là nguyên vẹn cả nơi đầu và nơi thân mình”[25]. Thật là cuộc trao đổi diệu kỳ mà vì yêu Thiên Chúa đã trao ban cho con người: Con người được làm Chúa. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Nhằm làm nổi bật sự hiệp thông nhiệm mầu này, Đức Thánh ChaBênêđictô XVI đã nhắc lại chính cảm nghiệm thiêng liêng của thánh Augustinô về Ngôi Lời. Khi rước Mình Máu thánh Chúa, con người được chính Thiên Chúa biến đổi và đưa vào trong sự sống thần linh của Người.
Khi hiệp thông với Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, chúng ta luôn được thông dự vào sự sống thần linh cách trưởng thành và ý thức hơn. Ở đây, chúng ta có thể áp dụng điều thánh Augustinô đã nói trong quyển Tự Thuật của ngài về Lời (logos) vĩnh cửu như là lương thực của linh hồn; nhấn mạnh đến tính nghịch lý của lương thực này, vị thánh tiến sĩ tưởng như mình được nghe: “Ta là lương thực cho những người cao thượng. Hãy trở nên cao thượng, và con sẽ ăn Ta, con sẽ không biến đổi Ta thành con, giống như lương thực thân xác con; nhưng con sẽ được biến đổi thành Ta”. Thực vậy, không phải của ăn Thánh Thể biến thành chúng ta, nhưng chính chúng ta được biến đổi cách mầu nhiệm bởi Thánh Thể. Đức Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng cách nối kết chúng ta với Người; “Người lôi kéo chúng ta đến với Người”[26].
Tắt một lời, khi tham dự Phụng Vụ, con người được bước vào một tương quan tuyệt diệu với Thiên Chúa, tương quan này vượt không gian và thời gian, qua đó con người bước vào và hưởng nếm bàn tiệc vĩnh cửu.
Đây là tựa đề của phần thứ ba trong Tông huấn Sacramentum Caritatis của cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI, qua đó ngài mời gọi các Kitô hữu hãy ý thức và sống thực tại Thánh Thể trong đời sống hằng ngày. Thánh Thể không phải là một thực tại nằm bên ngoài cuộc sống con người, nhưng bao trùm và thánh hóa toàn bộ cuộc sống ấy. “Linh đạo Thánh Thể không chỉ là tham dự Thánh lễ và viếng Thánh Thể. Nó bao trùm toàn bộ đời sống”[27].
2.1. Sống hạnh phúc từng giây phút hiện tại
“Không có gì thật sự thuộc về con người - tư tưởng và tình cảm, lời nói và hành động - lại không tìm thấy trong Bí tích Thánh Thể hình thái thích hợp để sống một cách tràn đầy.” Sự hiệp thông nơi Thánh Thể được kéo dài trong cuộc sống thường ngày của con người: mỗi giây mỗi phút hiện tại đều là vô giá. Bởi lẽ mỗi giây phút đều trở thành ‘một sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa’.
Tất cả giá trị nhân loại của sự mới mẻ triệt để mà Đức Kitô mang đến trong Thánh Thể tỏ hiện ở đây: việc phượng tự dành cho Thiên Chúa trong đời sống con người không thể bị đóng khung trong một thời khắc đặc biệt và riêng tư nào đó, nhưng do tự bản chất, việc phượng tự này hướng tới việc thấm nhập từng khía cạnh của thực tại con người. Vì thế việc phượng tự đẹp lòng Thiên Chúa trở thành một cách thức mới mẻ để sống mọi hoàn cảnh của cuộc đời, ở đó mọi nét đặc thù đều được thăng hoa trong mức độ chúng được sống trong tương quan với Đức Kitô và được hiến dâng cho Thiên Chúa. “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống, và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa”[28].
Thái độ sống trọn vẹn phút hiện tại này là nguồn cảm hứng giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống và mạnh mẽ chống lại sự thống trị của cái ác, sự dữ, để rồi sau cùng, tình yêu trở thành ngôn ngữ duy nhất của họ. Sự hiệp thông qua Thánh Thể sẽ nung nấu trong con người khát vọng trao ban tình yêu cho anh chị em mình và đó cũng chính là cách tuyệt hảo nhất để bày tỏ lòng tri ân Thiên Chúa. “Chính trong việc phượng tự và việc rước lễ mà người Kitô hữu nhận ra mình được yêu thương, để rồi đến lượt mình cũng phải yêu thương người khác. Bí tích Thánh Thể mà không đưa đến hành động thực tiễn của tình yêu thì không còn nguyên vẹn”[29].
2.2. Được mời gọi nên thánh... Sự hiệp thông nơi Thánh Thể thúc đẩy và gia tăng lòng ao ước được ‘ở với Chúa’, được thuộc về Chúa luôn. “Là mầu nhiệm để sống, Thánh Thể được hiến ban cho mỗi chúng ta trong điều kiện hiện tại, làm cho hoàn cảnh sống của chúng ta trở nên nơi sống hằng ngày sự mới mẻ của Kitô giáo. Nếu Hy tế Thánh Thể nuôi dưỡng và làm lớn lên nơi chúng ta điều đã được trao ban trong Bí tích Rửa tội, nhờ đó tất cả chúng ta được mời gọi đến sự thánh thiện, điều đó phải xuất hiện và bày tỏ cách đích thực nơi những hoàn cảnh hoặc tình trạng sống của mỗi người Kitô hữu. Ngày qua ngày, họ trở nên một phượng tự đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách sống ơn gọi của chính mình. Khởi điểm từ sự tập hợp phụng vụ, chính Bí tích Thánh Thể dẫn đưa chúng ta vào trong thực tại hằng ngày để mọi sự được thực hiện vì vinh quang của Thiên Chúa”[30].
Điều đó cũng có nghĩa là các Kitô hữu được mời gọi trở thành những chứng nhân của lòng thương xót Chúa cho anh chị em mình. “Như thế, mầu nhiệm Thánh Thể khơi dậy lòng bác ái đối với tha nhân, vốn “hệ tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ có thể xảy ra từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và tác động vào tình cảm”[31]. Bí tích Thánh Thể là lời mời gọi chúng ta cũng hãy trở nên những ‘tấm bánh được bẻ ra’ cho người khác. Thuộc trọn về Chúa, cũng chính là trở thành chứng nhân cho tình yêu nhưng không của Người trong thế giới hôm nay.
Sự hiệp thông nơi Thánh Thể đưa con người đến gần Thiên Chúa hơn bao giờ hết, con người được thông dự vào sự sống thần linh, được làm Chúa. Sự hiệp thông này là tiền đề và nền tảng đưa con người vào sự hiệp thông với toàn thể Giáo hội. Khi cử hành Bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu sẽ càng ý thức mình thuộc về Thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô.
Mầu nhiệm Thánh Thể giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của sự hiệp thông các thánh (communio sanctorum). Hiệp thông bao giờ cũng mang cả hai nghĩa, chiều dọc và chiều ngang, không tách biệt: hiệp thông với Chúa và hiệp thông với anh chị em chúng ta. Cả hai chiều kích này hội tụ một cách mầu nhiệm trong hồng ân Thánh Thể. “Ở đâu mất sự hiệp thông với Chúa, nghĩa là hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì nguồn gốc và nguồn mạch cho sự hiệp thông của chúng ta với người khác cũng tiêu tan. Và ở đâu chúng ta không sống hiệp thông với nhau, thì sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng mất sinh khí và vô thực”. Được kêu gọi để trở thành phần tử của Chúa Kitô và phần tử của nhau (xc. 1Cr 12,27), chúng ta hợp thành một thực thể được xây dựng một cách huyền nhiệm trên Bí tích Thánh Tẩy và được nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể, một thực thể đòi phải có sự thể hiện hữu hình trong đời sống cộng đoàn của chúng ta[32].
2.3. Những chứng từ sống động
Thánh Tôma Aquinô: Ai cũng biết là thánh Tôma đã viết bài phụng vụ về Thánh Thể, nhưng không phải chỉ là lý thuyết, những lời này được viết nên từ những suy tư lâu giờ, từ những khoảng thời gian thinh lặng bên Thánh Thể. Nếu đọc tiểu sử của ngài hay những lời chứng trong tiến trình phong thánh, chúng ta có thể thấy rằng mọi nhân chứng đều nhấn mạnh đến cách thức ấn tượng qua đó đời sống thường nhật của ngài được hình thành từ một chuỗi liên tục không đứt đoạn giữa làm việc và cầu nguyện[33].
Một nhân chứng đã kể lại rằng, một buổi tối trong những tháng cuối đời của thánh Tôma, anh đã đi theo thánh nhân để quan sát. ‘Anh đi ra phía cuối nhà nguyện thánh Nicôla, nơi thánh Tôma đang chìm sâu trong cầu nguyện. Anh thấy ngài được nâng lên khỏi mặt đất... Đột nhiên, từ phía vị tôn sư của chúng ta đang đối mặt, một tiếng nói vang lên từ cây thánh giá: “Tôma, con đã viết rất hay về ta, con muốnphần thưởng gì cho những công khó ấy?”Thánh nhân trả lời, “Lạy Chúa, con chẳng cần gì ngoài Ngài mà thôi”.
Đang khi hấp hối tại Fossanova, “Thánh Tôma ao ước được rước Mình Thánh Chúa, và khi Mình Thánh được đưa đến, thánh nhân đã quỳ xuống, tung hô và thờ lạy, và thốt ra những lời tuyệt diệu này, ‘Con xin rước Ngài, giá chuộc hồn con, con xin rước Ngài, Của ăn đàng cho con, lộ phí cho cuộc lữ hành của con, để được Ngài yêu thương, con đã gắng học hỏi, đã thức tỉnh đợi chờ, đã lao động cần cù, đã giảng thuyết cùng giảng dạy’”[34].
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II[35]: Bí tích Thánh Thể chính là nguyên lý chính yếu cho đời sống linh mục của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ngài nói rằng, “Đối với tôi, Thánh lễ thiết lập trung tâm cả cuộc đời và từng ngày sống của tôi.” Ngài còn nói thêm, “Không có gì ý nghĩa hơn đối với tôi, hoặc cho tôi niềm vui lớn lao hơn là cử hành Thánh lễ mỗi ngày và phục vụ dân của Chúa trong Giáo hội.” Đức Gioan Phaolô II không chỉ đơn thuần dâng Thánh lễ, nhưng ngài còn sống Thánh lễ. Như Bí tích Thánh Thể, Đức Gioan Phaolô II đã trở nên một hiến tế của tình yêu - một của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa Cha vì ơn cứu độ cho nhân loại.
Với niềm tin sâu xa về sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, Đức Gioan Phaolô II đã nghiêm khắc với các linh mục và Giám mục về việc phải cử hành Thánh lễ như thế nào. Ngài đã nói với một nhóm các Giám mục Hoa kỳ như sau, “Đây là lý do tại sao việc tôn trọng luật phụng vụ thì rất quan trọng: Linh mục chỉ là người phục vụ của Phụng vụ chứ không phải là người tạo ra hay sáng tác, nên ngài phải có một trách nhiệm cụ thể trong vấn đề này, kẻo nếu không ngài sẽ làm mất đi ý nghĩa đích thực của phụng vụ, hoặc làm lu mờ đi chiều kích linh thánh của phụng vụ.”
III. THÁNH THỂ: CON NGƯỜI BƯỚC VÀO SỰ HIỆP THÔNG NƠI GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Khi thực sự thông phần vào Thân Mình của Chúa trong việc bẻ bánh Thánh Thể, chúng ta được đưa vào hiệp thông với Người và với nhau. “Vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Bằng cách này tất cả chúng ta được trở nên những chi thể của Thân Mình Người (xc. 1 Cr 12,27), “vì mỗi người đều là chi thể của nhau” (Rm 12,5) (Lumen Gentium, 7).
1. Mỗi Giáo hội địa phương là một Giáo hội trọn vẹn
1.1. Thánh Thể: Mầu nhiệm của sự hiệp thông trong Giáo hội
“Thánh Thể làm nên căn tính và hoạt động của Giáo hội”[36].Thật vậy, khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta được nên một với Đức Kitô, nên một với anh chị em mình nhờ quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa. Thánh Thể quy tụ và hiệp nhất các tín hữu trong sự hiệp thông Giáo hội. Việc tưởng niệm Chúa Kitô trong Phụng vụ Thánh Thể chính là sự thể hiện mang tính bí tích cao cả nhất về mối hiệp thông trong Giáo hội.
Mầu nhiệm Giáo hội được tỏ bày cách đặc biệt khi cộng đoàn quy tụ lại và cùng cử hành Phụng vụ Thánh Thể với sự chủ toạ của Giám mục giữa các linh mục và các thừa tác viên[37]. Nơi nào cộng đoàn dân Chúa tụ họp cùng nhau trong sự hiệp thông với những chiều kích hữu hình và vô hình là nơi đó Giáo hội đang hiện diện. “Được kể là gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo hội, những ai lãnh nhận Thánh Thần Chúa Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và các phương tiện cứu rỗi được thiết lập trong Giáo hội; và nhờ các mối liên lạc do việc tuyên xưng đức tin, các bí tích, việc cai trị của Giáo hội và sự hiệp thông, họ liên kết với Chúa Kitô trong tổ chức hữu hình màNgười điều khiển nhờ Giáo hoàng và các Giám mục”[38].
Quả thật, đây chính là sự kỳ diệu của mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo hội. Sự quy tụ của cộng đoàn dân Chúa, hiệp thông với vị Giám mục Giáo phận trong việc cử hành Phụng vụ Thánh Thể làm nên sự hiệp thông trong Giáo hội. Việc xướng tên Đức Giáo Hoàng và vị Giám mục Giáo phận là dấu chỉ tỏ lộ sự hiệp thông này. Chính Thánh Thể kết hợp tất cả mọi người nên một vì họ cùng chia sẻ một tấm bánh và một chén thánh. “Sự duy nhất của hiệp thông Hội thánh biểu lộ cách cụ thể trong các cộng đoàn Kitô hữu và được lặp lại trong cử hành Thánh Thể, việc làm này vừa kết hợp họ lại và làm cho họ khác biệt nhau trong các Giáo hội địa phương, “trong và nhờ những Giáo hội địa phương này Hội thánh Công Giáo duy nhất được thể hiện” (in quibus et ex quibus una et unica Ecclesia catholica exsistit)”[39]. Chỉ có một Thân Mình Đức Kitô, nên các cộng đoàn địa phương cùng hiệp thông trong Giáo hội hoàn vũ. “Sự kiện chỉ có một Bí tích Thánh Thể được cử hành tại mỗi Giáo phận quy tụ quanh Đức Giám mục giúp chúng ta hiểu rõ mỗi Giáo hội địa phương tồn tại trong và từ Giáo hội Mẹ thế nào. Thật vậy, “tính duy nhất và bất khả phân của Thánh Thể Chúa hàm chứa tính duy nhất trong nhiệm thể Người, là Giáo hội duy nhất và bất khả phân”[40].
1.2. Mỗi Giáo hội địa phương là một Giáo hội trọn vẹn
Thánh thể tạo nên nét đẹp lung linh của sự hiệp thông trong Giáo hội. Dù thánh lễ được cử hành trong một cộng đoàn nhỏ bé nghèo nàn hay trong một vùng xa xôi hẻo lánh, thì việc cử hành phụng vụ ấy vẫn là việc cử hành của toàn thể Giáo hội hoàn vũ. Chính sự hiện diện của Chúa Kitô Thánh Thể làm cho cộng đoàn nhỏ bé và xa xôi ấy thực sự là một Giáo hội trọn vẹn. Thánh Thể liên kết mọi người như những chi thể trong Thân Thể Đức Kitô. “Hy tế Thánh Thể, dù luôn được cửhành tại một cộng đoàn cụ thể, không bao giờ là việc cử hành của một mình cộng đoàn đó mà thôi. Quả vậy, khi nhận lãnh sự hiện diện Thánh Thể của Chúa, cộng đoàn cũng nhận lãnh toàn bộ hồng ân cứu độ và tỏ lộ rằng, dù trong một dạng thức tồn tại hữu hình nhất định, nó là hình ảnh và là sự hiện diện thật sự của Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”[41].
Giáo hội Đức Kitô thật sự hiện diện trong mọi cộng đoàn tín hữu địa phương hợp pháp, là những cộng đoàn luôn gắn bó với các vị Chủ chăn của mình, và Tân Ước cũng gọi đó là các Giáo hội. Thật vậy, trong địa phương của mình, các cộng đoàn này là đoàn dân mới, được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự sung mãn dồi dào (xc. 1Tx 1,5). Nơi các cộng đoàn đó, các tín hữu được tụ họp lại nhờ việc rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, và mầu nhiệm Bữa Tiệc của Chúa được cử hành “để nhờ Thịt và Máu Chúa, tình huynh đệ trọn vẹn được kết thành trong một thân thể”. Nơi mỗi cộng đoàn tụ họp quanh bàn thờ, qua tác vụ thánh của vị Giám mục, bày tỏ rõ ràng biểu tượng của đức ái và của “sự hợp nhất nơi nhiệm thể, điều kiện thiết yếu để có ơn cứu độ”. Đức Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, thường là nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi, và chính nhờ thần lực của Người mà Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền được quy tụ. Bởi vì “việc tham dự vào Mình và Máu Đức Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành điều mà chúng ta nhận lãnh” (LG 26).
Mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình cho sự hiệp thông nơi mỗi Giáo hội địa phương. Các Giám mục hiệp nhất với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô tạo nên sự hiệp thông giữa các Giáo hội trong một Giáo hội phổ quát:
Sự hiệp nhất của Giám mục đoàn còn được biểu lộ qua mối tương giao giữa mỗi Giám mục với các Giáo hội địa phương và Giáo hội phổ quát. Đức Giáo hoàng Rôma, Đấng kế vịPhêrô, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu. Còn mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo hội địa phương. Các Giáo hội này được thành lập theo hình ảnh Giáo hội phổ quát: Chính nhờ và trong các Giáo hội ấy mà có một Giáo hội Công giáo, duy nhất. Vì thế, mỗi Giám mục đại diện cho Giáo hội mình, và tất cả các Giám mục cùng với Đức Giáo hoàng đại diện cho toàn thể Giáo hội trong mối dây bình an, yêu thương và hiệp nhất[42].
1.3. Niềm vui cử hành ngày của Chúa
Tông thư Dies Domini đã đưa ra rất nhiều lý do của việc tham dự thánh lễ Ngày Chúa nhật[43]: Sống trong sự diện diện của Đấng Phục Sinh, mọi người quy tụ trong cộng đoàn Thánh Thể, cử hành ngày của niềm hy vọng, cử hành bàn tiệc Lời Chúa và Mình Chúa... trong đó phải kể đến việc Thánh Thể nuôi dưỡng và cổ võ sự hiệp thông trong Giáo hội. Thế nhưng, Tông thư cũng mời gọi các Kitô hữu hãy sống ngày Chúa nhật như ngày của niềm vui, của sự nghỉ ngơi, và tình liên đới. Quả vậy, ngày Chúa nhật chính là một món quà Chúa ban cho dân Người, giúp họ đạt được điều Thiên Chúa muốn trong cuộc hiện hữu của mình, sống trọn vẹn tự do và tình liên đới của con cái Chúa. “Việc cử hành ngày Chúa nhật giúp cho cộng đoàn Kitô hữu được đào tạo bởi Bí tích Thánh Thể. Hằng tuần, Lời của Chúa Phục Sinh soi sáng sự hiện hữu của chúng ta, để hoàn tất nơi chúng ta điều Chúa muốn khi gửi Lời của Người cho chúng ta (xc. Is 55, 10-11). Hằng tuần, việc rước Mình và Máu Chúa Kitô cũng muốn làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên của lễ đẹp lòng Chúa Cha, trong tình hiệp thông huynh đệ, chia sẻ, hiếu khách, phục vụ. Hằng tuần, năng lượng của tấm bánh được bẻ ra nâng đỡ chúng ta trong việc loan báo Tin mừng…”[44]
Phần này sẽ là phần trích dịch những suy tư mục vụ - thần học của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu về ý nghĩa một số các cử hành trong Phụng vụ Thánh lễ. Hy vọng suy tư này sẽ khơi gợi niềm vuihọc hỏi và sống ngày của Chúa, không phải như một điều luật bó buộc, nhưng như một ân huệ của Thiên Chúa. Càng khám phá ơn ban của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày, con người sẽ càng muốn đến tạ ơn và tỏ lòng tôn thờ Người. Việc tụ họp của cộng đoàn Phụng vụ sẽ càng giúp con người ý thức mối hiệp thông sâu xa bản thân với Chúa và Giáo hội của Người. Ý thức thuộc về cũng là một ý niệm mang lại khích lệ cho cuộc sống mỗi người.
2. Ý nghĩa các cử hành trong phụng vụ thánh lễ[45]
2.1. Nghi thức nhập lễ
a. Quy tụ như một gia đình trong Thiên Chúa: Dấu chỉ chống lại sự phân chia
Bước đầu tiên trong việc cử hành Thánh Thể là sự quy tụ của một cộng đoàn hay một gia đình. Chính Thiên Chúa là Đấng kêu gọi, ngỏ lời mời và triệu tập. Khởi kiến thuộc về Người. Vì thế, chúng ta ý thức rằng mọi người quy tụ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Chính Thiên Chúa “là người thiết đãi” bữa tiệc hy tế này, tức là việc tưởng nhớ cuộc Thương Khó cứu độ của Đức Giêsu và là điều bảo đảm cho bữa tiệc thiên cung trong Vương quốc của Thiên Chúa. Như được tỏ lộ qua cuộc đời Chúa Giêsu, bữa ăn là một trong những cơ hội đặc biệt để quy tụ mọi người, không chỉ để thưởng thức thực phẩm mà còn để “thưởng thức” Triều đại Thiên Chúa.
Lời mời của Thiên Chúa, khác với chúng ta, quy tụ về bàn tiệc Thánh Thể mọi người từ muôn ngàn bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, sắc tộc khác nhau và thậm chí cả những vùng địa lý, múi giờ khác nhau. Một gia đình mới gồm những người con Thiên Chúa, được tạo nên từ ân sủng và đức tin, xuất hiện ngay giữa chúng ta. Đây là Giáo hội (ecclesia). Hoa trái nảy sinh từ tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa là một cộng đoàn những anh chị em, cùng chia sẻ một phẩm giá chung là được làm con Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúatrong ân sủng làm nảy sinh sự hiện diện của tình anh chị em. Đây là việc hưởng nếm trước về một nhân loại mới mà chúng ta luôn ước mong. Chúng ta trở thành một gia đình vì đã đáp trả lời kêu gọi vượt trên chúng ta. Thánh Thể dạy cho biết rằng, nếu chúng ta có thể vượt lên trên những quan tâm nhỏ nhặt của mình, nếu chúng ta chỉ lưu tâm đến lời kêu gọi vượt trên chúng ta, thì khi đó chúng ta mới có thể thông truyền với người khác một sự hiện diện trong tình láng giềng, tình chị em và anh em.
b. Nhận ra Chúa, ý thức tình trạng tội lỗi bản thân (Nghi thức Sám hối)
Được sinh ra cách mới mẻ do việc đáp trả lời gọi mời và ân sủng của Chúa nơi Thánh Thể, Giáo hội là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi: Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô, và Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Chính sự ý thức trong ân sủng về thực tại này làm gia tăng cảm thức về việc chúng ta là một cộng đoàn gồm những tội nhân. Ngay trong cuộc đời sứ vụ của Đức Giêsu, chính tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi Người đã làm cho những con người như Simon, Lêvi, và Giakêu nhận thức tình trạng tội lỗi của mình. Cũng rất giống như người con hoang đàng trong Luca 15, chúng ta cũng đang lãng phí phần gia sản thừa kế của mình.
Vì vậy, chúng ta quay trở lại với Cha, mang theo gánh nặng tội lỗi, và chúng ta thưa, “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa Toàn năng...” “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con”. Chúng ta nhìn nhận tội lỗi của mình, tuy nhiên, không chỉ là tội phạm tới Chúa, mà cả những lỗi phạm đến anh chị em mình nữa. Chúng ta xin họ “khẩn cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta.” Chẳng ai tỏ ra mình thánh thiện hơn người khác. Chúng ta nhìn nhận việc dự phần của mình vào sự đổ vỡ chung nơi nhân loại. Cộng đoàn tham dự thánh lễ là một cộng đoàn cần những người khẩn cầu trước Thiên Chúa và lẫn nhau. Tất cả chúng ta đều nghèo, đều cần lòng thương xót Chúa. Tất cả chúng ta đều cần lời cầu nguyện của người láng giềng. Chúng ta đối thoại với Chúa và hàng xóm trong khiêm nhường.
2.2. Phụng Vụ Lời Chúa
a. Lắng nghe câu chuyện về Chúa Giêsu
Cộng đoàn được quy tụ giờ đây sẽ được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa vì “con người sống không nguyên bởi bánh, nhưng nhờ mọi lời do miệng Chúa phán ra.” Bánh sự sống, là Đức Giêsu, được đón nhận từ bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể (xc. DV 21). Bàn tiệc Thánh Thể gắn liền với việc lắng nghe Lời Chúa. Chúa Giêsu, trong suốt sứ vụ công khai của Người, đã dạy dỗ và rao giảng Lời Chúa. Hôm nay, Người vẫn tiếp tục chỉ dạy chúng ta và chúng ta lắng nghe Người, Con Thiên Chúa là Đấng có lời hằng sống (xc. Ga 6, 68-69).
Lúc này chúng ta sẽ hỏi: Lời Chúa thức tỉnh điều gì nơi chúng ta? Đó là đức tin. Đức tin được sinh ra và được củng cố nhờ việc lắng nghe Lời Chúa. Thánh Phaolô nói: “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10, 17). Trong một thời đại mà chữ in và chữ “thị giác” của công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình những tín ngưỡng, ý kiến, não trạng, khuynh hướng và lối sống, thì chúng ta càng nên khai thác sức mạnh của Lời Chúa trong việc sản sinh một đời sống đức tin.
Năm 2006, Đại Hội về Sứ Vụ ở Châu Á tổ chức ở Chiang Mai, Thái Lan, đã chọn “Thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu ở Châu Á” như là một lối thi hành sứ vụ. Vì thế, chúng ta có thể xem Phụng vụ Lời Chúa như một thời điểm kể chuyện về việc tưởng niệm Thánh Thể. Thiên Chúa ngỏ lời.
Thiên Chúa luôn khởi xướng cuộc đối thoại. Thiên Chúa kể câu chuyện tình yêu của Người cho chúng ta. Lời của Chúa hoạt động. Lời Chúa sống động. Lời Chúa đem lại sự sống. Trong Phụng vụ Lời, câu chuyện về hành động cứu độ và mặc khải của Chúa trong lịch sử được công bố qua những bài đọc từ Cựu Ước và Tân Ước, đặc biệt là Tin mừng của Chúa Giêsu, Đấng là sự hoàn thành của mặc khải Thiên Chúa.
Sự đáp trả trước ký ức sống động được chứa đựng trong Lời Chúa chính là đức tin. Cần phải có đức tin để có thể gặp gỡ Đấng Phục Sinh nơi những dấu chỉ bí tích và nơi cuộc sống thường ngày. Nhưng chỉ trong Chúa Thánh Thần là Đấng hướng dẫn chúng ta tới chân lý (xc. Ga 16,3) thì chúng ta mới đạt tới việc tin nhận Đức Giêsu là Chúa (xc. 1Cr 12,3). Nếu chỉ cậy dựa vào sự khôn ngoan nhân loại, chúng ta không thể đạt tới việc tin vào Lời Chúa. Chúng ta cần ý thức rằng đức tin liên quan đến việc lắng nghe Lời, đón nhận Lời vào trong cuộc sống, và để Lời biến đổi đời sống mình, hành động dựa trên Lời và chia sẻ Lời cho tha nhân. Đức tin vượt ra ngoài sự đồng thuận của trí năng. Đức tin được ví ngang với sự vâng phục Thiên Chúa, một sự vâng phục bao hàm sự hoán cải triệt để. Đức tin thay đổi đời sống. Đức tin trở thành đời sống.
b. Xây dựng một ký ức chung (Kể lại Lời)
Các bài đọc Kinh Thánh trong thánh lễ quay trở lại theo chu kỳ và các ngày lễ. Sau một khoảng thời gian nào đó, các bài đọc được lặp đi lặp lại. Việc xuất hiện trở lại của cùng một bài đọc nhiều lần có thể gây buồn chán cho một số người. Nhưng việc lặp đi lặp lại là cần thiết cho đức tin. Việc thuật lại câu chuyện về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ không chỉ có ý nghĩa như là việc chuyển trao thông tin. Đúng hơn, đó là một ký ức sống động được trao truyền lại cùng với Chúa Thánh Thần như một vị hướng dẫn chắc chắn. Khi tự do đón nhận Lời hằng sống trong đức tin, thính giả trở thành một phần trong ký ức sống động của Hội thánh về Thiên Chúa và về hành động cứu độ của Người.
Việc tưởng niệm Thánh Thể không bị giới hạn trong việc thuật lại bữa tối. Phụng vụ Lời Chúa cũng cất giữ ký ức này. Mỗi khi câu chuyện được kể, chúng ta lại được mời gọi đáp trả Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương và cứu độ chúng ta. Và qua việc tưởng nhớ, chúng ta được hiệp nhất, nhờ Chúa Thánh Thần, với những cộng đoàn của quá khứ là những người đã tưởng nhớ trước chúng ta và chuyển trao ký ức của họ cho chúng ta. Tương tự như vậy, chúng ta được hiệp thông với những cộng đoàn Thánh Thể khắp thế giới, là những cộng đoàn tưởng nhớ lại những công việc vĩ đại của Thiên Chúa qua cũng cùng một Lời. Chúng ta cũng được hiệp thông với những thế hệ Kitô hữu tương lai, là những người, nhờ việc lắng nghe Lời Chúa, sẽ tưởng nhớ đến cùng những việc ấy. Đức tin được sinh ra từ Lời Chúa không đơn giản chỉ mang tính cá nhân và đơn độc. Đó cũng là đức tin mang tính cộng đoàn. Khi chúng ta đón nhận và chuyển trao ký ức, chúng ta hình thành nên cộng đoàn như một cộng đoàn đức tin. Các nhà khoa học xã hội nhấn mạnh vai trò thiết yếu của ký ức chung trong việc sống sót và gia tăng sức mạnh của các gia đình, bộ tộc, cộng đoàn, quốc gia, và thậm chí cả các tập đoàn thương mại nữa. Điều thú vị cần ghi nhớ ở đây là người ta thường tụ họp trong các bữa ăn gia đình hoặc cộng đoàn, và trong những dịp này, các câu chuyện của họ được tập hợp vào trong một “hồ chứa” ký ức chung. Vì thế, Lời Chúa không chỉ đánh thức đức tin nơi tâm hồn người tin, Lời Chúa còn quy tụ người tin trong một cộng đoàn đức tin tập trung vào ký ức chung về những điều tốt đẹp Thiên Chúa đã thực hiện.
c. Thiên Chúa: Tác giả của Lời
Mỗi cộng đoàn Thánh Thể đều có thể tìm được niềm vui và niềm an ủi từ việc tưởng nhớ chung được chia sẻ với những thế hệ Kitô hữu trong quá khứ và hiện tại. Nhờ vào Lời Chúa, không Kitô hữu nào phải cô độc. Tuy nhiên, niềm an ủi này phải dẫn dắt các Kitô hữu biết nhạy cảm, lưu tâm đến tới những người bị xóa khỏi ký ức của thế giới này, những người không được ai nhớ tới và cũng chẳng có thể nhớ tới. Việc nhớ đến những ân sủng của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta sống trong sự liên đới với những người bị lãng quên, một số rất đông đến nỗi ta phải tự hỏi sao lại không hay biết. Đức tin của chúng ta công bố họ luôn mãi là một phần trong câu chuyện và ký ức của Thiên Chúa. Khác xa với tính đa cảm, việc nhớ đến những anh chị em bị lãng quên chính là hành vi đức tin sống động vào Thiên Chúa, Đấng luôn giữ họ trong ký ức cứu độ của Người.
Chúng ta tin rằng Sách Thánh đích thực là Lời Thiên Chúa được ký thác trong chữ viết qua sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Lời Chúa, câu chuyện về hành động cứu chuộc của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ xuất hiện nơi dạng thức những lời và câu chuyện của nhân loại. Vì thế, sách Thánh vịnh, sách Isaia, các thư của thánh Phaolô thực sự là Lời Chúa. Sau khi Lời được công bố, chúng ta không ngần ngại đáp lại, “Tạ ơn Chúa!” Tuy vậy, chúng ta vẫn chân nhận Đavit, Isaia, Phaolô và những tác giả nhân loại khác là những người đã ghi lại Lời Chúa trong dạng chữ viết. Các vị này thực sự là tác giả tới mức các bản văn của họ đều mang dấu ấn của những hoàn cảnh, phong cách và tính khí duy nhất của họ. Chính đức tin làm cho chúng ta thấy quyền tác giả Thiên Chúa trong những bản văn do con người biên soạn. Đức tin của Giáo hội, được hướng dẫn bởi cùng một Thánh Thần linh hứng các bản văn Thánh Kinh, hướng dẫn Giáo hội phân định quyền tác giả đích thực của Thiên Chúa. Chính ở đây, chúng ta đối diện mầu nhiệm về sự thông truyền của Thiên Chúa. Thiên Chúa thông ban Lời của Người qua công cụ con người và những câu chuyện của họ.
d. Những câu chuyện bị đàn áp ở Châu Á
Kinh nghiệm quan trọng về Thánh Thể dạy chúng ta luôn biết lắng nghe sự thông truyền của Thiên Chúa qua những câu chuyện về người khác. Đức tin đến từ việc lắng nghe cũng liên quan đến những câu chuyện của con người và những lời Thiên Chúa phán qua đó. Ở một số vùng tại Châu Á, đó là những câu chuyện đơn giản nhưng đầy bạo lực về những con người đang bị đàn áp. Sự thật chứa đựng nơi những câu chuyện này có thể làm kinh sợ những kẻ mà lợi ích cá nhân của họ sẽ có thể bị chấm dứt nếu sự thật được phơi bày. Sự đàn áp nơi những câu chuyện này mang nhiều hình thức khác nhau như sự cai trị độc tài, sự thẳng tay đàn áp trên phương tiện truyền thông, bắt bớ và giết chết những người bị dán nhãn là phản động, thay đổi kết quả bầu cử, và sửa lại sách lịch sử. Nhưng chúng ta sợ điều gì nơi những câu chuyện này? Chúng ta sợ điều Thiên Chúa muốn truyền đạt. Đức tin Thánh Thể cho chúng ta can đảm để lắng nghe và thậm chí đón chào những câu chuyện này vào trong việc tưởng nhớ chung của chúng ta. Lắng nghe Chúa nói qua dấu chỉ thời đại, chúng ta phân định cách thức câu chuyện của Chúa đang tỏ lộ cho chúng ta qua những câu chuyện con người ngày nay.
e. Một hành vi vui mừng nhưng mạo hiểm (Tuyên xưng một đứctin chung)
Thiên Chúa đã lên tiếng. Giờ đây chúng ta đáp lại. Vào ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng hay lễ kính, kinh Tin kính được đọc ngay sau phần công bố Lời Chúa và bài giảng. Không có lời đáp nào hay hơn thế. Việc tuyên xưng đức tin có cấu trúc Ba Ngôi, điểm tập trung là mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô. Công thức làm nổi bật nhiệm cục cứu độ đã được mặc khải trước trong Thánh Kinh. Lời kinh nuôi dưỡng tương quan sống động của các tín hữu với Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ. Sự cô đọng chính xác về mặt tín lý được trình bày trong kinh Tin kính phản ánh sự phân định mà Giáo hội đã trải qua suốt nhiều thế kỷ để ổn định và đề nghị một nội dung chính thống cho đức tin Kitô giáo. Kinh Tin kính, vì thế, là một dạng khác của ký ức chung trong Giáo hội gắn kết chúng ta với những cộng đoàn của những thời đại trước. Trong sự hiệp thông với Giáo hội của những thế hệ trước và với những tín hữu trong tương lai, cộng đoàn Thánh Thể hân hoan tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhờ sự tuyên xưng đức tin như thế, họ cũng tiếp tục gắn bó với sự hiểu biết mới mẻ về thế giới, về con người và về vận mệnh của con người.
f. Khẩn cầu Thiên Chúa là Đấng lắng nghe (Lời nguyện tín hữu)
Cộng đoàn giờ đây ngỏ lời với Thiên Chúa bằng những lời nguyện xin cho nhu cầu của Giáo hội, thế giới, những người nghèo và đang đau khổ, và của chính cộng đoàn. Truyền thống thiêng liêng của Giáo hội, được bắt nguồn từ Thánh Kinh, ca tụng những lời khẩn nguyện này như một hành vi đức tin. Lời nguyện tín hữu diễn tả đức tin của chúng ta vào một vị Thiên Chúa là Đấng mà sự quan phòng của Người vẫn tiếp tục hướng dẫn công trình tạo dựng, nhân loại và lịch sử hướng về sự thành toàn của kế hoạch cứu độ. Đồng thời, nó tỏ lộ sự tự hiểu biết của chúng ta trong tư cách là những thụ tạo qua việc luôn cần đến tình yêu và sự bảo vệ của Thiên Chúa. Chúng ta hiệp nhất chính mình với toàn thể gia đình nhân loại trong việc quay trở lại nguồn mạch sự sống để kín múc chất bổ dưỡng nuôi dưỡng chính sự sống đó. Những lời cầu nguyện, được thốt lên trong tinh thần tôn thờ và nhận biết Thiên Chúa thật, diễn tả sự hiệp thông của chúng ta với tất cả mọi dân tộc mà chúng ta biến nhu cầu của họ thành của chúng ta. Sau cùng, trong lời nguyện tín hữu, Giáo hội tuyên bố niềm tin rằng Thiên Chúa không chỉ nói mà còn nghe, đặc biệt lắng nghe những ai đang túng thiếu, những ai bị xã hội bỏ rơi. Thiên Chúa thực sự là một vị Thiên Chúa của tình yêu trong đối thoại.
g. Dấu chỉ niềm hy vọng trong một thế giới bất công (Dâng của Lễ)
Bánh sự sống, Đức Giêsu, đã nuôi dưỡng cộng đoàn với lời hằng sống. Việc cử hành Thánh Thể giờ đây chuyển sang Bàn tiệc Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng ta sẽ nối kết phần này của Phụng vụ từ việc chuẩn bị lễ vật cho đến Vinh tụng ca kết thúc của Kinh nguyện Thánh Thể với việc sống trong hy vọng.
Hy vọng Kitô giáo liên quan đến sự thành toàn của sự sống con người và việc tạo dựng trong Vương quyền Thiên Chúa. Nơi mầu nhiệm Vượt Qua là cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta chắc chắn rằng cuộc kiếm tìm sự sống và ý nghĩa sẽ không vô ích. Chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi và cái chết đã được đóng ấn nơi Chúa Kitô. Niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên một điều ước hay lời hứa trống rỗng. Chúng ta hy vọng vì điều mình hy vọng là có thực và lúc này đang diễn ra. Những hoàn cảnh vô lý và vô nghĩa thường là bối cảnh thuận tiện cho việc sống và làm chứng cho nhân đức hy vọng.
Việc chuẩn bị lễ vật cử hành niềm hy vọng vào quyền năng biến đổi của Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng và sức lao động con người. Cầm bánh trên tay, vị linh mục nói, “Lạy Chúa là Chúa cả trời đất! Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh cho chúng con.” Một lời nguyện tạ ơn tương tự cũng được đọc trên rượu, “Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con rượu này, là sản phẩm từ cây nho và công lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên của uống thiêng liêng cho chúng con.”
Khi bánh và rượu được chuẩn bị, chúng ta nhận ra chúng là hoa mầu của công trình tạo dựng và công sức từ đôi tay con người, là tất cả dấu hiệu của quà tặng sự sống vẫn tiếp tục tuôn đổ của Thiên Chúa. Trong quyền năng Chúa Thánh Thần, những biểu tượng này của công trình tạo dựng và sức lao động của con người sẽ trở thành Bánh Sự Sống và “Công trình Cứu độ”, gợi hứng cho chúng ta tiếp tục chia sẻ những quà tặng này cho nhân loại. Thánh Thể làm nổi bật một thế giới chứa đầy quà. Thiên Chúa Tạo Thành chia sẻ quà tặng tình yêu của Người cách cụ thể qua bánh và rượu. Nhưng không chỉ Thiên Chúa của việc tạo dựng được nhận biết. Trái đất là đối tác của Người trong việc cung cấp cho chúng ta bánh và rượu. Đôi tay con người làm việc để biến đổi hoa màu ruộng đất thành bánh và rượu cũng được tháp nhập vào hành vi cao cả của tình yêu và chia sẻ những món quà này.
Tấm bánh đơn sơ và rượu chúng ta dùng trong cử hành Thánh Thể không xứng để xuất hiện trên những bàn tiệc được chuẩn bị cho bữa tối sang trọng. Thế nhưng, chúng ta được quy tụ chung quanh một bàn tiệc khác. Bàn tiệc Thánh Thể là nơi thích hợp để tỏ lộ sự tinh khiết của quà tặng thể hiện trong hình thức giản dị là tấm bánh và chén rượu. Thánh Kinh làm chứng về những tác động của ân sủng Thiên Chúa nơi những con người nhỏ bé và tầm thường, những con người hay những sự kiện, mang lại niềm hy vọng cho những con người thấp cổ bé họng và người nghèo (xc. Lc 1, 46-55). Sự biến đối mà Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện trên những lễ vật đơn giản này mang lại niềm hy vọng chắc chắn cho tạo vật, cho trái đất và cho người lao công. Những của lễ của họ sẽ trở thành Bánh Sự Sống và Chén Cứu Độ, Hy Tế của Chúa Giêsu Kitô, mang lại hiệu quả tái tạo thế giới và nhân loại.
2.3. Kinh nguyện Thánh Thể
a. Trình thuật lập Bí Tích Thánh Thể: từ bị phản bội cho đến Hy Tế trao ban chính Mình và phục vụ Kinh nguyện Thánh Thể được mở đầu với Lời Tiền Tụng và thánh thi “Thánh, Thánh, Thánh”. Đây là sự dẫn nhập thích đáng dẫnvào lời nguyện Tạ Ơn của Giáo hội, trong đó chúng ta nhớ lại bữa tiệc Vượt Qua Chúa Giêsu dùng với các môn đệ trước khi chịu chết. Nhờ quyền năng Thánh Thần, chúng ta nhớ lại và “nhắc Chúa Cha” về Hy Tế đã giao hoà chúng ta với Người. Chúa Giêsu là bình an của chúng ta! Nhờ cũng một Thánh Thần, của lễ bánh và rượu trở nên quà tặng cho sự hiện diện mãi mãi của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta. Bữa Tối tỏ lộ ánh sáng và ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu.
Chúng ta tưởng nhớ điều gì? Giáo hội được ngưỡng mộ vì can đảm dám tưởng nhớ. Giáo hội có thể che đậy những chi tiết gây lúng túng, nhưng Giáo hội đã chọn không làm như vậy. Vì thế chúng ta tuyên bố, “Trong đêm bị trao nộp, Người cầm lấy bánh... (xc. Kinh Nguyện Thánh Thể III). Sự tưởng niệm Thánh Thể là một lời mời gọi nhân loại tới sự hồi tưởng mang tính chữa lành và thanh tẩy để rồi chúng ta có thể cổ vũ sự hiệp thông đích thực giữa mọi dân tộc. Nhân loại đang bị tổn thương, và cũng muốn quên đi quá khứ tổn thương này. Nó cố đè nén những ký ức gây khó chịu này. Thánh Thể dạy chúng ta can đảm đối mặt với chính những ký ức đau thương này. Vì nơi mỗi ký ức đen tối ấy, chúng ta đều nhận thấy hành động của Thiên Chúa biến đổi những đêm tối của sự phản bội thành bình minh của sự hoà giải. Lãng quên hoặc chối bỏ những ký ức đáng xấu hổ này không làm chúng biến mất. Đúng hơn, chúng sẽ bào mòn sự bình an và niềm hy vọng của chúng ta.
Khi tưởng nhớ sự dấn thân và sự kiên trì của Chúa Giêsu trong sứ vụ trao ban sự sống của Người, chúng ta được tràn đầy với những “ký ức về lời hứa tương lai”, đã được bắt đầu và đang chờ đợi hoàn trọn. Thánh Thể làm cho chúng ta có thể đương đầu với bóng đêm của quá khứ với niềm hy vọng do tình yêu khải hoàn của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu trao ban. Sự phản bội và cái chết có thể trở thành nguồn suối sự sống cho chính mình và người khác, nếu như chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu, cũng dâng lên Chúa Cha một hy tế sự sống đáng được đón nhận.
Thế giới này đã bị xé toang vì sự phản bội. Cuộc chạy đua để có thêm nhiều tài sản, quyền lực và sức mạnh tạo ra nhiều kẻ phản bội nơi các dân tộc và quốc gia. Bị mù quáng trước những lời hứa giả tạo, chúng ta không còn nhận ra món quà tình bạn. Nạn nhân lại bị cám dỗ báo thù. Thế nhưng, sự thoả mãn chóng vánh mà nó mang lại mau chóng biến thành sự cay đắng để rồi lại sản sinh sự phản bội trong tương lai.
Trong Bữa Tối trước khi chịu chết, Chúa Giêsu đã biến đổi sự phản bội sự sống của Người thành quà tặng sự sống. Quà tặng của Người không phải là một đồ vật hay thứ gì, mà là chính Mình và Máu Người. Người đang dạy các môn đệ rằng cái chết nhục nhã trên thập giá của Người thực sự là một hiến dâng tình yêu của sự sống. Sự sống đích thực và ơn cứu độ đến từ việc trao ban chính mình, từ hy tế của việc ban tặng chính mình ngõ hầu người khác được sống. Sự phản bội giết chết người khác, trong khi món quà của việc trao ban chính mình làm cho người khác sống trọn vẹn. Tuy nhiên, món quà bản thân phải là món quà trao ban sự sống đối với chính người trao ban. Điều này chỉ xảy ra khi có đủ ba yếu tố: tự do hoàn toàn, tình yêu chân thành và lý do đích đáng. Đức Giêsu nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Đức tin từ Thánh Thể khẳng định rằng con đường tới sự sống không phải là con đường hy sinh người khác cho tham vọng của mình, nhưng là trao tặng cách tự do và trong yêu thương sự sống mình như một hy tế sống động cho Thiên Chúa và thiện ích của người khác. Chúng ta thấy nơi việc dâng hiến chính thân mình của Chúa Giêsu trong tự do và tình yêu một nguyên tắc xử thế bất bạo động. Tình yêu không biến người khác thành nạn nhân, nhưng biến đổi họ từ tình trạng là nạn nhân sang việc trao tặng chính mình. Tình trạng bị biến thành vật hy sinh sẽ dừng lại vì tình yêu đã vượt thắng.
Trong Lễ Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta cử hành lại hay tưởng niệm việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ được kể lại trong Tin Mừng Gioan (xc. Ga 13). Vào thời Đức Giêsu, người nô lệ thấp hèn nhất sẽ làm hành động này không phải vì tình yêu, nhưngvì bổn phận đôi khi được áp đặt cho họ một cách tàn nhẫn. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã làm việc rửa chân cách tự do. Việc trao ban Mình và Máu Người không chỉ là hành động yêu thương mà còn là hành động phục vụ nữa. Cái chết của Người là tột đỉnh của việc phục vụ. Đức Giêsu, là Thầy và là Đức Chúa, đã biến chính mình thành một người đầy tớ để rồi chính các môn đệ của Người cũng được biến đổi thành những đầy tớ rửa chân cho nhau (xc. Ga 13, 13-15).
b. Hiệp thông với người sống và người chết
Chúng ta khẩn cầu Chúa Thánh Thần hai lần trong Kinh nguyện Thánh Thể. Lần thứ nhất là trên bánh và rượu để chúng trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Lần thứ hai là khi chúng ta cầu xin cùng một Thần Khí của Chúa Giêsu biến đổi cộng đoàn “được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Đức Kitô” thành “một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”. Giáo hội không thể trở nên một Thân Mình hiệp thông của Đức Kitô nhờ nỗ lực riêng của mình được. Không tự thực hiện việc biến đổi được, Giáo hội phải cậy dựa vào sáng kiến của Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần (xc. Cv 2) là Đấng mưa hết ơn này tới ơn khác trên các chi thể vì lợi ích của một thân thể (xc. 1Cr 12). Sự hiệp thông nảy sinh nhờ Chúa Thánh Thần không bị giới hạn vào cộng đoàn địa phương. Nhờ cùng một Thánh Thể và một Thần Khí của một Đức Chúa, cộng đoàn địa phương được đưa vào sự hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ. Sự hiệp nhất của chúng ta vượt ra ngoài những căn tính về sắc tộc, văn hoá, kinh tế, hoặc chính trị. Việc nhắc đến tên Đức giáo hoàng và Đấng Thường quyền địa phương minh chứng cho sự hiệp thông hoàn vũ đó.
Kinh nguyện Thánh Thể cũng bao gồm việc nhớ đến những người còn sống và những người đã ra đi. Niềm tin vào sự hiệp thông các thánh được nhắc lại. Chúng ta nhớ đến các thánh giờ đây đang chia sẻ chiến thắng khải hoàn phục sinh của Đức Kitô. Việc nhớ đến các ngài làm bùng lên ngọn lửa hy vọng rằng cuộc hành trình dương thế của chúng ta sẽ thành toàn nơi Chúa Giêsu. Qua việc nhớ đến những người đã ra đi, chúng ta trông cậy nơi Thiên Chúa rằng họ cũng sẽ được chia sẻ cuộc phục sinh của Đức Kitô như các thánh. Sự hiệp thông Thánh Thể vượt lên trên mọi ranh giới của nhân loại, kể cả ranhgiới do sự chết dựng nên.
2.4. Nghi thức Rước lễ
a. Tình yêu là hiệp thông và bình an (Kinh Lạy Cha và cử chỉ chúc bình an)
Đỉnh điểm của giờ khắc kế tiếp trong việc cử hành Thánh Thể là việc rước Mình và Máu Đức Giêsu Kitô trong sự Hiệp thông Thánh. Bàn tiệc Lời và bàn tiệc Mình và Máu dẫn đến ân sủng độc nhất của việc đón nhận quà tặng là chính Chúa Giêsu để chúng ta được sống trong sự hiệp thông với Người. Hiệp thông là tình yêu. Như lời dẫn nhập, cộng đoàn thưa với Thiên Chúa là Cha bằng chính lời Chúa Giêsu đã dạy. Trong nghi lễ La tinh, việc chúc bình an theo ngay sau Kinh Lạy Cha. Việc trao bình an vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của nó như một hành vi hiệp thông và tình yêu ngay cả khi nó được đưa vào những nơi khác trong Phụng vụ của những nghi lễ khác.
Thưa với Thiên Chúa là “Abba” là một dấu ấn riêng biệt của Chúa Giêsu. Nó gây cớ vấp phạm cho những ai tin rằng sự tôn kính loại trừ sự tiếp xúc thân thiết với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu diễn tả thực tại tương quan của Người với Thiên Chúa. “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Con và Cha thuộc về nhau. Con và Cha trao cho nhau trọn vẹn chính mình trong tình yêu tương hỗ là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ cầu nguyện với Thiên Chúa như là Cha của họ. (xc. Mt 6, 9-13). Nhưng chúng ta chỉ kêu lên ‘Abba’ khi Thần Khí Thiên Chúa biến chúng ta thành dưỡng tử, thành những người con trong Người Con Giêsu (xc. Rm 8, 15-16). Việc đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu là hoa trái của việc chúng ta được đưa vào đời sống nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng là Thiên Chúa của Tình Yêu, của việc trao ban chính mình và hiệp thông. Chúng ta thưa với Thiên Chúa như là Cha của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha, Đấng chu cấp mọi nhu cầu của chúng ta, đặc biệt bánh hằng ngày. Chúa Giêsu là bánh hằng ngày của chúng ta, Đấng sẽ sớm được trao cho chúng ta qua việc rước lễ. Nhưng thuộc về Chúa Cha cũng có nghĩa là thuộc về những người con khác trong gia đình của Thiên Chúa và bẻ bánh với họ. Được rửa tội trong cùngmột đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta trở nên một thân thể Chúa Kitô, là anh chị em với nhau (xc. Gl 3, 26-29; 1Cr 12). Không có tình yêu đích thực với Chúa Cha nếu không thực sự yêu thương người thân cận. Thánh Phaolô nói rằng, đón nhận Thân Mình Đức Kitô trong bữa tiệc hy tế Thánh Thể mà không phân định sự hiện diện của Thân Mình Chúa Kitô trong cộng đoàn là ăn và uống án phạt mình (xc. 1Cr 11,29).
Dấu bình an sau kinh Lạy Cha là biểu tượng tình yêu của Chúa Cha nối kết chúng ta lại với nhau. Bình an là quà tặng của Đấng Phục Sinh. Người trao cho chúng ta bình an của Người để chúng ta cũng có thể trao bình an cho nhau. Đón nhận bình an từ Cha và người bên cạnh giúp chúng ta đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là bình an của chúng ta (xc. Ep 2, 14-16). Bình an của Chúa Giêsu giao hoà chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Người đã phá bỏ những hàng rào thù địch làm cho người ta xa nhau (xc. Ep 2,14).
b. Tình yêu rất mực dồi dào (Rước Mình Thánh)
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta xin Cha cho chúng ta lương thực hằng ngày. Chúa Cha ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, Bánh hằng ngày cho cuộc lữ hành của chúng ta về Nước Chúa, vốn chưa hiển trị. Vì thế, chúng ta dám đến gần bàn tiệc Hiệp thông Thánh Thể, nhưng chỉ sau khi đã thú nhận rằng chúng ta chẳng đáng đón nhận Đức Giêsu. Chúng ta cậy dựa vào lời mời của Người, vào Lời thương xót và trắc ẩn của Người để có sức mạnh và can đảm đến gần Người. Tình thương chào đón của Người gia tăng lòng ao ước của chúng ta muốn nên một với Người qua việc ăn Thịt và uống Máu Người. Không một ao ước nào trong tâm hồn chúng ta cao quý hơn khao khát chào đón sự sống của Đức Giêsu Kitô trở thành sự sống của chúng ta. Người yêu chúng ta trước. Đáp lại, chúng ta yêu mến Người và yêu thương láng giềng với tình yêu của Người trong tim. Sự hiệp thông này vượt hẳn điều chúng ta đáng hưởng nếu những chuẩn mực về sự công bằng đúng mực được tuân theo. Chúng ta thưởng nếm tình yêu rất mực dư tràn của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Đấng trao ban chính sự sống Mình. Món quà này chúng ta không xứngđáng được hưởng. Với lòng biết ơn trào dâng từ đáy lòng, chúng ta cảm tạ và tôn thờ Chúa Đấng là tình yêu. Lòng tri ân đào sâu khát vọng yêu mến của chúng ta như một sự đáp trả. Được nuôi dưỡng bởi Đức Giêsu, Bánh được Cha ban xuống, chúng ta chia sẻ Chúa Giêsu với người khác, đặc biệt những ai bị cướp mất tình yêu.
Châu Á được chúc phúc với những nguồn nhân lực dồi dào và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tình trạng thiếu bánh là do lòng tham vô độ của một số người buộc nhiều người phải nghèo đói. Tiếng kêu xin bánh hằng ngày phát ra từ nhiều ngôi nhà và nhiều vùng của Châu Á. Tình yêu Thánh Thể khiến chúng ta nghe và hành động theo sự mong muốn của Chúa Cha, Đấng yêu thương. Thế nhưng, khi làm việc vì một xã hội công bằng, chúng ta không được phép trốn tránh nghĩa vụ chia sẻ Lời Chúa như bánh cho những ai đang kiến tạo một xã hội yêu thương và có lòng trắc ẩn. Chỉ khi được thúc đẩy bằng tình yêu, chúng ta mới không lưỡng lự chỉ trích những khao khát lầm lạc của thời đại chúng ta và những lòng thèm muốn bánh mà bên dưới là thuốc độc.
Chúng ta biết rằng không có số lượng thành công và thành tựu nào có thể thoả mãn cơn đói tình yêu của nhân loại. Nhiều người giàu có ở Châu Á đói khát tình yêu và tình bằng hữu. Vì thế, giống như việc đón nhận Chúa Giêsu nơi Thánh Thể, chúng ta cũng chào đón Người là Đấng hiện diện nơi người nghèo, người cô độc, người bị lạc lối, người yếu mệt, và người bị bách hại. Như Chúa Giêsu, chúng ta trao cho họ không chỉ điều chúng ta mắc nợ họ, nhưng cả điều thuộc về chúng ta - đó là tình yêu và sự sống của chúng ta.
c. “Amen!” Trước Bánh tình yêu: Dấn thân cho sứ vụ
Sau khi kết thúc Kinh Tạ Ơn, Phụng vụ đi vào hồi kết thúc. Nghi thức không chỉ là việc tuyên bố rằng phụng vụ đã chấm dứt. Cũng không đơn thuần là việc giải tán một nhóm người. Nghi thức này là việc sai đi. Đây là một sự phát triển rất đẹp trong thần học phụng vụ, một nghi thức đơn giản trở thành một “khoảnh khắc sứ vụ”. Thiên Chúa sai những nhà truyền giáo đi vào cánh đồng lúa của Người. Điều quan trọng phải lưu ý là Thiên Chúa, Đấng quy tụ một gia đình mới,giờ đây lại sai chính gia đình này như những người làm công cho Người trong vườn nho, vì quả thật mùa gặt thì rất dồi dào.
Chúng ta có thể rút ra nguồn cảm hứng và nhận thức từ việc sai các Tông đồ đến với chiên lạc nhà Israel, người bệnh tật, người chết, những người bị mắc chứng bệnh khủng khiếp như phong cùi và cả những người bị quỷ ám (xc. Mt 10, 6-8). Đây là mùa gặt bội thu của các Tông đồ Chúa Giêsu: kẻ nghèo, kẻ bị lãng quên, và kẻ lạc lối. Họ là tài sản thực sự của Giáo hội. Mỗi cộng đoàn Thánh Thể, được thúc đẩy bởi Thánh Thần, đến với họ vì Triều đại Thiên Chúa được hứa cho họ. Như các Tông đồ là những người đã được tuyển chọn để ra đi và mang lại hoa trái (Ga 15,16), Giáo hội cũng được sai đi để mang lại nhiều hoa trái hơn.
Nhưng điều này chỉ xảy ra nếu chúng ta ở lại trong tình yêu của Người (Ga 15,4). Kẻ được kêu gọi để ở lại trong tình yêu Thiên Chúa lại được chính Thiên Chúa sai đi. Đây là mầu nhiệm sứ vụ: ở lại ngay khi ra đi và ra đi ngay khi ở lại. Đó không phải là “sự chia tách” khỏi Chúa Giêsu, nhưng là tình bạn hữu có được qua việc tham dự vào sứ vụ của Người.
Sống Thánh Thể ở Châu Á mời gọi chúng ta chăm chú lắng nghe Thiên Chúa nhiều hơn, Đấng sai chúng ta như những chứng nhân cho kế hoạch cứu độ của Người. Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi một sự sẵn sàng đầy nhiệt tâm đáp trả và vui tươi lên đường đến bất cứ nơi đâu Chúa sai đi. Với lòng háo hức, chúng ta đi đến mùa gặt dồi dào của những đám đông vô số người nghèo, người mệt mỏi và người thấp hèn trong thế giới bao la của Châu Á. Suốt cả đời, họ chỉ nghe những tin xấu. Họ kinh nghiệm tin xấu. Nhiều người trong số họ coi đời mình như những tin xấu. Đến với họ, chúng ta mang Tin mừng của một vị Thiên Chúa Cứu độ trong Chúa Giêsu, Đấng trở nên nghèo vì yêu chúng ta. Chúng ta được cứu độ nhờ tình yêu - đó là Tin mừng. Nhưng liệu đức tin từ Thánh Thể có làm cho tâm hồn chúng ta bừng cháy lòng nhiệt thành truyền giáo không? Sứ vụ có tác động hay gợi hứng chúng ta, đặc biệt tuổi trẻ? Với những nguyên nhân chính đáng nào mà chúng ta luôn sẵn sàng? Phải chăng người Kitô hữu Á Châu say mê ‘những vụ gặt’ được hứa hẹn bởi người theo chủ nghĩa cá nhân vàgiờ đây lại sai chính gia đình này như những người làm công cho Người trong vườn nho, vì quả thật mùa gặt thì rất dồi dào.
Chúng ta có thể rút ra nguồn cảm hứng và nhận thức từ việc sai các Tông đồ đến với chiên lạc nhà Israel, người bệnh tật, người chết, những người bị mắc chứng bệnh khủng khiếp như phong cùi và cả những người bị quỷ ám (xc. Mt 10, 6-8). Đây là mùa gặt bội thu của các Tông đồ Chúa Giêsu: kẻ nghèo, kẻ bị lãng quên, và kẻ lạc lối. Họ là tài sản thực sự của Giáo hội. Mỗi cộng đoàn Thánh Thể, được thúc đẩy bởi Thánh Thần, đến với họ vì Triều đại Thiên Chúa được hứa cho họ. Như các Tông đồ là những người đã được tuyển chọn để ra đi và mang lại hoa trái (Ga 15,16), Giáo hội cũng được sai đi để mang lại nhiều hoa trái hơn.
Nhưng điều này chỉ xảy ra nếu chúng ta ở lại trong tình yêu của Người (Ga 15,4). Kẻ được kêu gọi để ở lại trong tình yêu Thiên Chúa lại được chính Thiên Chúa sai đi. Đây là mầu nhiệm sứ vụ: ở lại ngay khi ra đi và ra đi ngay khi ở lại. Đó không phải là “sự chia tách” khỏi Chúa Giêsu, nhưng là tình bạn hữu có được qua việc tham dự vào sứ vụ của Người.
Sống Thánh Thể ở Châu Á mời gọi chúng ta chăm chú lắng nghe Thiên Chúa nhiều hơn, Đấng sai chúng ta như những chứng nhân cho kế hoạch cứu độ của Người. Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi một sự sẵn sàng đầy nhiệt tâm đáp trả và vui tươi lên đường đến bất cứ nơi đâu Chúa sai đi. Với lòng háo hức, chúng ta đi đến mùa gặt dồi dào của những đám đông vô số người nghèo, người mệt mỏi và người thấp hèn trong thế giới bao la của Châu Á. Suốt cả đời, họ chỉ nghe những tin xấu. Họ kinh nghiệm tin xấu. Nhiều người trong số họ coi đời mình như những tin xấu. Đến với họ, chúng ta mang Tin mừng của một vị Thiên Chúa Cứu độ trong Chúa Giêsu, Đấng trở nên nghèo vì yêu chúng ta. Chúng ta được cứu độ nhờ tình yêu - đó là Tin mừng. Nhưng liệu đức tin từ Thánh Thể có làm cho tâm hồn chúng ta bừng cháy lòng nhiệt thành truyền giáo không? Sứ vụ có tác động hay gợi hứng chúng ta, đặc biệt tuổi trẻ? Với những nguyên nhân chính đáng nào mà chúng ta luôn sẵn sàng? Phải chăng người Kitô hữu Á Châu say mê ‘những vụ gặt’ được hứa hẹn bởi người theo chủ nghĩa cá nhân vànhững hệ thống vật chất hơn là “mùa gặt” của những người mù được nhìn thấy, người tật nguyền được bước đi, người phong hủi được chữa lành, người điếc lại nghe được, kẻ chết được trỗi dậy, và người nghèo được nghe công bố Tin mừng? (xc. Lc 7,22)
Chúng ta khẳng định rõ rằng việc chinh phục theo kiểu trần thế hay tham vọng không phải là động lực cho việc dấn thân vào sứ vụ của Giáo hội. Thánh Thể là sứ vụ. Thánh Thể là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ. Việc trao ban chính Người nơi Thánh Thể, niềm vui vì tìm thấy sự sống nơi Chúa Giêsu và bổn phận chia sẻ niềm vui này với người khác - tất cả những điều này thúc đẩy chúng ta đến với sứ vụ.
d. Một sứ vụ làm chứng cho Đức Giêsu Kitô
Đức Giêsu sai các môn đệ đi làm chứng cho Tin mừng của Vương Quyền Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ thu gọn phương thức của lời chứng như vậy khi viết, “Đây là điều chúng tôi công bố cho anh em: Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến - đó là Lời sự sống” (1Ga 1,1). Vị tông đồ có thể làm chứng nhân cho Đức Giêsu chỉ khi ông đã thấy, đã nghe, và đã chạm đến Người trước. Suốt buổi cử hành Thánh Thể, chúng ta quy tụ và chạm đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong cộng đoàn. Chúng ta nghe Thiên Chúa nói với chúng ta Lời sự sống và hy vọng biến Lời ấy trở thành một phần trong ký ức của chúng ta. Chúng ta đã sững sờ khi nhìn thấy niềm hy vọng được trao ban cho thụ tạo, cho lao công con người và những ký ức thương đau nhờ Hy tế tự hiến mình của Đức Giêsu. Chúng ta đã thưởng nếm Bánh sự sống chứa đầy tình yêu và bình an. Điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, đã chiêm ngắm và nếm thử, giờ đây chúng tôi làm chứng. Việc tham dự vào cử hành Thánh Thể cũng kéo theo một sứ vụ làm chứng bằng lời nói và việc làm cho sự sống mà chúng ta đã được vinh dự trải nghiệm. Linh đạo, sự chiêm ngắm, và sứ vụ gặp nhau. Tin mừng được trải nghiệm nơi Thánh Thể cần được chia sẻ. Quà tặng chúng ta đón nhận cũng kéo theo nó trách nhiệm chia sẻ với người khác vị Thiên Chúa mà chúngta đã gặp gỡ.
e. Một quà tặng và Lời hứa hiện diện
Khi đi thi hành sứ vụ được trao phó, chúng ta tin rằng Chúa Giêsu cùng đi với chúng ta. Người đã hứa với các môn đệ đầu tiên của mình: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Bảo chứng về sự hiện diện luôn mãi của Người trong sứ vụ Giáo hội là sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu nơi bánh rượu Thánh Thể vẫn tồn tại ngay cả sau khi cử hành phụng vụ. Nghi thức có thể kết thúc, nhưng quà tặng là sự hiện diện vẫn tồn tại. Vì thế, Thánh Thể có thể được trao cho người bệnh sau thánh lễ, và cộng đoàn đã cử hành Thánh Thể đó vẫn có thể tiếp tục tôn thờ Bí tích cực thánh này. Lời hứa của Đức Kitô rằng Người sẽ luôn hiện diện trong sứ vụ đã thành hiện thực rồi: đó là sự hiện diện nơi Thánh Thể. Chúng ta được an ủi vì sự hiện diện của Đức Kitô nơi Thánh Thể đã hoàn trọn lời hứa hiện diện của Người đối với ai Người sai đi thi hành sứ vụ. Trong linh đạo Thánh Thể, việc tôn thờ đi song hành với sứ vụ. Sứ vụ chân thật phải đưa tới việc tôn thờ. Việc tôn thờ đích thực phải đưa tới sứ vụ. Quà tặng và lời hứa hiện diện này duy trì Giáo hội đang khi Giáo hội đi trên những con đường gồ ghề và những vùng biển nổi sóng dữ dội.
Sự hiện diện luôn mãi của Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể và trong sứ vụ nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện của Người nơi người láng giềng của chúng ta, đặc biệt là những người đói, khát, khách lạ, người đau ốm, tù nhân, người cô thân, người bị bỏ rơi và những nạn nhân (xc. Mt 25, 31-46). Thần Khí của Đấng Phục Sinh bay lượn trên thụ tạo và những sự kiện trong lịch sử. Đang khi làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta cũng khám phá và nhìn ngắm sự hiện diện của Người nơi người nghèo, nơi tạo vật, và trong dòng lịch sử. Sứ vụ không bao giờ thiếu sự chiêm niệm. Nhưng khi càng dấn thân vào sự chiêm niệm mang tính sứ vụ, chúng ta càng nhận ra rằng sự hiện diện của Đức Kitô thường được “ẩn giấu” bởi chính những dấu chỉ mà những dấu chỉ này hoàn toàn không nắm bắt được mầu nhiệm chúng truyền tải. Tình trạng tội lỗi của thế giới và nhân loạinày, bao gồm cả các môn đệ Đức Kitô, cũng làm lu mờ sự sống của Đức Kitô. Sứ vụ và sự tôn thờ của chúng ta diễn ra trong sự căng thẳng của “sự hiện diện bị ẩn giấu” khiến chúng ta khao khát được thấy mặc khải trọn vẹn Vương quyền Thiên Chúa và sự tự do của con cái Chúa (xc. Rm 8,19). Trong thời gian đó, chúng ta tiếp tục biến quà tặng và lời hứa thành của ta (xc. Pl 3,12), được củng cố nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu - là một quà tặng đã được trao tặng và một lời hứa chờ được hoàn trọn.
Có thể nói, khi tham dự Phụng vụ Thánh lễ, con người được bước vào những khoảnh khắc tuyệt vời trong cuộc đời mình. Đó là lúc họ được sống và hít thở sự sống của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước: Người muốn mời gọi con người tới ngồi ăn “bữa tiệc hy tế của Chiên Con và được sống nhờ Người.” Con người chỉ có một bổn phận duy nhất là “để cho Thiên Chúa yêu thương, để cho người thu hút chúng ta”[46]. Đáp lại lời mời gọi này là việc con người đến dự tiệc cưới, gặp gỡ Đức Kitô hằng sống, đón nhận Lời và Thịt Máu Người. Nhờ việc “ăn thịt và uống máu Chúa”, chúng ta nên một với Người: được thông dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người. Nhờ hiệp thông với Đức Kitô, chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Cha, Đấng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Đó là sự hiệp thông trong sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sự hiệp thông thần linh này đưa tới sự hiệp thông với các tín hữu khác, bởi vì mọi người cùng ăn một tấm bánh cho nên tất cả chúng ta được trở nên một thân thể (1 Cr 10,17). “Sự kết hiệp với Chúa Kitô đồng thời cũng là kết hiệp với những người mà Chúa Kitô đã trao ban mình. Tôi không thể giữ Chúa Kitô cho riêng mình; tôi chỉ có thể thuộc về Người trong sự kết hiệp với những người đã hoặc sẽ thuộc về Người. Việc hiệp lễ đưa tôi ra khỏi bản ngã của mình để đến với Người và đến sự hợp nhất với tất cả các Kitô hữu. Chúng ta trở thành một thân thể duy nhất, được hoà tan trong một cuộc sống”[47]. Bên cạnh mối dây hiệp thông giữa các tín hữu xét như cá nhân, chúng ta cũngđồng thời bước vào mối dây hiệp thông Giáo hội với nhiều chiều kích: hiệp thông Giáo hội địa phương, hiệp thông Giáo hội Công giáo, hiệp thông vô hình và hữu hình.
Sự hiệp thông không phải là một cảm xúc nhất thời hay một tương quan vu vơ, nhưng được thể hiện cụ thể qua sự hiệp thông về đức tin, hiệp thông về bí tích, và hiệp thông về phẩm trật (x. GLCG, 815). Việc hiệp thông Mình Thánh Chúa Giêsu thúc đẩy và nối kết mỗi Kitô hữu vào sự hiệp thông với các Kitô hữu khác, xét như là cá nhân cũng như cộng đoàn. Sự hiệp thông này còn thúc đẩy các Kitô hữu nỗ lực trong hoạt động đại kết, nhằm tái lập sự hiệp nhất trong Giáo hội hoàn vũ. Và hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy các Kitô hữu dấn thân vào hoạt động sứ vụ truyền giáo như sự tuôn trào của tình yêu.
Quả thật, chính Thánh Thể đã quy tụ, hiệp nhất, và đưa con người đến sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và với nhau. Sự hiệp thông nơi Thánh Thể nhờ quyền năng Thánh Thần Thiên Chúa, đưa con người vượt qua mọi rào cản không gian, thời gian, sắc tộc, văn hoá, chính trị... bước vào sự hiệp thông huynh đệ của những người con Chúa. Chỉ trong những khoảnh khắc thánh thiêng khi tham dự Phụng vụ Thánh Thể, con người mới có khả năng nhận ra căn tính của mình trong sự liên đới với tha nhân: Tất cả chúng ta đều là con cái Chúa.
Cha Timothy Radcliffe OP, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, kể về một chuyến đi thăm mục vụ của ngài tới Burundi, một quốc gia nhỏ và nghèo ở Châu Phi[48]. Nơi đây, đang xảy ra cuộc xung đột đẫm máu giữa hai bộ tộc Tutsi và Hutu. Khi đến thăm Đức Giám mục Giáo phận, ngài kinh ngạc khi thấy người của hai bộ tộc này lại sống hoà thuận vui vẻ với nhau trong khu đất sau vườn của Giáo phận. Cha hỏi Đức Giám mục làm cách nào mà họ lại sống chung với nhau được, trong khi những người bà con, anh chị em của họ đang chém giết nhau ngoài kia. Đức Giám mục trả lời, mọi người đều được chào đón đến ở đây miễn là họ chịu cùng quy tụ quanh bàn thờ tham dự Thánh lễ... Thánh Thể quy tụ chúng ta, hiệp thông chúng ta trongThân Mình Đức Kitô là như thế.
Củng cố sự hiệp thông phải khởi phát trước tiên từ một lời mời gọi: mời gọi con người đến đón nhận sự sống thần linh của Thiên Chúa. Lời mời gọi này cũng phải rập theo khuôn mẫu lời mời gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi con người đến dự bữa tiệc ‘hy tế của Chiên Con’, nhưng trước đó, Người đã sai Con Mình đến làm người và dâng hiến chính thân Mình trở thành của ăn cho con người.
Để kết thúc, xin được nhắc lại lời mời gọi tha thiết của vị Cha chung thân yêu của chúng ta: “Chúng ta hãy từ bỏ những cuộc tranh luận để cùng nhau lắng nghe điều Thánh Thần đang nói với Hội thánh. Chúng ta hãy bảo toàn sự hiệp thông. Hãy tiếp tục ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của Phụng vụ. Mầu nhiệm Vượt qua đã được ban cho chúng ta. Chúng ta hãy đặt mình vào trong nỗi khao khát của Chúa muốn tiếp tục ăn Lễ Vượt qua với chúng ta”[49].
[11]H. Seeseman, Der Begriff Koinonia in Neuen Testament, Giessen 1933, trích trong J. Hamer, The Church is a Communion, Sheed and Ward, New York 1964, p.160-161.
[12]Trích lại Lm Giuse Phan Tấn Thành OP, “Giáo hội Hiệp Thông”.
[45]Như đã trình bày, phần này trích dịch lại những suy tư thần học - mục vụ của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC) trong kỳ họp chung thứ IX với chủ đề “Sống Thánh Thể Tại Châu Á”. Vimal Tirilmanna, For All The People Of Asia, Federation of Asian Bishop's Conferences Documents from 2007 to 2012, Claretian Publications (Quezon City, Philippines: 2014) p. 12 - 36.