KHAI PHÁ TIN MỪNG
THỜI VẬN
Được sinh ra trong một gia đình Công Giáo nơi miền Bắc Việt Nam, tôi được đem đến nhà thờ để rửa tội khi mới chỉ được mấy ngày tuổi; bố mẹ tôi nói thế, nhưng sau này qua những biến chuyển di cư vào miền Nam năm 1954, giấy tờ rửa tội đã bị đánh mất. Tôi được nuôi dưỡng và lớn lên, được theo học dưới sự giáo dục của những nhà trường Công Giáo cho tới hết bậc trung học.
Mãi cho tới năm 1958, anh tôi và tôi mới được khai học, cùng lớp 5 (lớp 1 bây giờ) vì trước đó chưa có trường lớp. Sau nửa năm lớp năm, anh tôi và tôi được cho lên lớp 4. Năm sau, học xong lớp ba, lại được nhảy một lớp, không phải học lớp nhì mà lên thẳng lớp nhất. Sở dĩ chỉ cần bốn năm, anh tôi và tôi đã qua bậc tiểu học vì anh em tôi được người cậu dạy kèm chứ không phải thần đồng thần kẽm gì. Bố tôi đi buôn cá, cỡ hai hoặc ba giờ chiều bắt xe đò tới miền Phương Lâm, mang theo những bình rượu đế, hai rổ lớn rau muống mua buôn tại chợ, hay rau dền, ba cha con đi nhổ nơi những vườn rau lang, gánh bộ 7 cây số tới làng Thọ Lâm bán lấy lời gỡ gạc tiền xe. Sáng hôm sau, bố tôi mang cá về, bỏ buôn cho những hàng bán lẻ. Thường thì tôi phải ra chợ sau khi tan học, phụ bố múc nước từ giếng công cộng cuối chợ, rửa những chiếc rổ lớn được lót bên trong bằng miếng nylon đựng nước rộng cho cá sống; đường kính miệng rổ bằng một sải tay của tôi, đan bằng mây, bền hơn nan tre.
Trong năm học lớp nhất, mẹ tôi sanh người em thứ năm, con gái; như vậy, gia đình tôi lúc này bốn đứa con trai, gia đình tứ quý, và nàng công chúa út. Tuy nhiên, người em gái lại hay đau lặt vặt nên công việc nhà, nấu nướng, đi chợ, rửa chén bát, giặt giũ, được chia đều cho anh tôi và tôi. Con trai, phải rửa bát, quét nhà, giặt quần áo cho mọi người, hoặc nấu nướng, tôi cảm thấy thèm có được một người chị gái. Mấy đứa bạn cùng lớp, chúng sướng như những ông hoàng, tôi thầm nghĩ. Đi học về, ăn trưa, chưa kịp bỏ đũa bát, đã vội hẹn hò cùng chúng bạn rong chơi, đi câu, đi tắm suối; đôi lần chúng rủ nhập bọn và bị tôi chối từ, chúng đặt cho tôi danh hiệu: Thằng vú em.
Tôi thích đi câu, món ăn chơi hấp dẫn mọi người. Tuy nhiên, thích câu nhưng cá không thích tôi, nên thường đi không về rồi; nếu câu được đôi ba con cá rô, không bõ nấu nướng, tôi đành nén lòng tiếc nuối mà cho người bạn đi cùng. Sau mấy lần như thế, tôi nghĩ ra cách câu nhiều cần. Một khúc cây dài cỡ hơn hai sải, đầu được buộc vô hai móc bằng dây kẽm gai được tháo ra, hình chữ V để nhấc những đoạn tre nhỏ dài cỡ một cánh tay được buộc dây cước ở giữa, dài độ ba gang tay nối với lưỡi câu. Tới những ruộng cần nước, móc mồi, đoạn dùng cần có hai móc đặt xuống giữa mấy hàng cần, chờ cá cắn. Tôi chỉ có 7 cần ngắn; móc mồi và đặt câu hết lượt, trở lại thăm từ cần đầu tiên thì đã có cá dính câu. Tuy thích đi câu nhưng càng ngày, công việc nhà cửa và rửa rổ rộng cá cùng chờ xe đò trong khi bố tôi ngủ lấy lại sức vì phải dậy sớm cân cá, gánh bộ 7 cây số từ Thọ Lâm ra quốc lộ 20 cho kịp chuyến xe đò sớm từ Bảo Lộc đi Sài Gòn, đã cắt đứt thú vui câu kẹo. Những gì mình thích, thường thì ít có cơ hội; bởi ít có cơ hội nên mới thèm thuồng.
Một buổi chiều ít ngày sau khi có kết quả thi tú tài hai, tôi ghé vô nhà xứ gặp cha phó đang lúc ngài cắt tỉa mấy cây hoa hồng trước cửa. Tôi bày tỏ ý định muốn nhờ ngài giới thiệu cho tôi nơi nào để gia nhập chủng viện. - Thì cứ về, học cho xong tú tài hai rồi hãy nói chuyện. Ngài vừa chăm chú ngắm nghía công trình xén gọt cành lá, trả lời tôi. Cả giáo xứ, chỉ có tôi và hai người bạn nữa thi tú tài hai mà ngài không nghe biết chi, bảo tôi học thi cho xong tú tài hai. Tôi chợt nghĩ, có lẽ phải nói bố mẹ tôi vô nhờ ngài nhận đỡ đầu thì mới được chăng. Vài tháng sau, người cậu giới thiệu tôi với một cha phó xứ khác, nghe đâu ngài thần thế, quen lớn lắm lắm, và tôi được ngài nhận, đồng thời viết thư giới thiệu gửi tới cha giám đốc của chủng viện tu muộn mới được thành lập tại Nha Trang trong khi tôi đang theo học năm thứ nhất tại đại học Khoa Học Sài Gòn.
Sau năm thứ nhất tại đại học Khoa Học, tôi phải tham dự một tháng cao cấp quân sự học đường. Trước khi đi, mẹ đưa cho tôi 2,000 đồng thời đó để chi tiền xe từ Gia Kiệm tới Quang Trung. Con nhà nghèo, đã quen với lối sống tiết kiệm, có sao sống vậy, tôi đành chấp nhận… Ăn cơm nhà bàn, uống nước bi đông.
Quý vị quân nhân đã từng uống nước bi đông nơi quân trường thừa biết nó như thế nào. Mỗi khi khát, tôi phải nín thở nuốt từng ngụm nước nặng nề mùi hôi, nếu không sẽ bị mửa ngay tức thì. Dân sinh viên, đa số thuộc thành thị hoặc nếu từ những miền quê, có lẽ gia cảnh họ khấm khá hơn; nên tới cuối tuần xả trại chủ nhật, họ hối hả tìm những giờ phút thoải mái nơi phố thị. Chủ nhật đầu tiên chẳng biết đi đâu, tôi bắt xe đò về nhà. Chỉ được chừng hai tiếng ở nhà, tôi lại phải bắt xe đò trở lại Quang Trung, uổng ba trăm rưỡi bạc vô tích sự. Những chủ nhật cuối tuần sau đó, tôi xung phong ở lại coi trang trại nếu mỗi người trong đại đội góp cho tôi 10 đồng. Như vậy, hai cuối tuần liên tiếp, tôi có được 1,900 và chủ nhật cuối tuần thứ bốn không cần người canh chừng. Cũng có vài sinh viên ghi danh ở lại nhưng tôi đã ghi danh trước nên họ cũng bị bắt buộc ra khỏi trại cuối tuần thứ ba. Hết khóa học cao cấp quân sự, tôi mang về trả lại mẹ 1700, trong khi anh tôi nói kỳ tham dự ba tháng học tập quân sự nghĩa quân, anh phải tiêu hết 5,000 đồng. Tôi không nói gì, chỉ thầm nghĩ, thì mình cũng đã tiêu hết hơn hai ngàn nội chỉ một tháng chứ có ít chi đâu. Sau đó, tôi gia nhập chương trình chủng viện tu muộn Lâm Bích tại tòa giám mục Nha Trang do Đức giám mục Nguyễn Văn Thuận khởi xướng, đồng thời ghi danh tại đại học Văn Khoa Sài Gòn, và học hàm thụ thêm hai năm văn chương.
Một đôi lần ghé chào cha linh hướng giới thiệu vào chủng viện trong những kỳ nghỉ hè, mẹ tôi thường mua một con thỏ lớn, kèm thêm cây thuốc Ba số năm bắt tôi đem biếu ngài. Tôi quen hút thuốc lá, thuốc lào từ năm 13 tuổi. Phải đem đồ biếu cha, rồi lúc trở về, ngài cho được ít tiền không đủ trả vé xe. Tôi tự hỏi, nhận linh hướng để làm gì vì có gì hướng đâu mà linh. Nhận linh hướng chỉ tốn tiền quà cáp trong khi, mặc dầu mẹ tôi không nói ra, tôi cũng biết được tiền quà cáp, tiền xe cũng gây mối khó khăn cho mẹ. Tôi tự quyết định ngưng không nhận cha linh hướng. Có những vết ghẻ gây quá phiền hà, không có nó, không thuộc giòng họ loài ghẻ, trị dứt ghẻ, hết bị phiền!
Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 xảy đến khi đang giúp xứ Xuân Ninh, Cam Ranh, tôi đi theo 40 gia đình từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, vô vùng kinh tế mới Tân Hữu cư ngụ nơi đó độ một năm rưỡi, sau đó, gần cuối năm 1978, trở về bản xứ nơi miền Gia Tân, Long Khánh, sống qua ngày trong khi tìm đường vượt biên. Hơn kém hai năm rưỡi vất vơ, muốn đi làm thuê nơi vườn tược hầu ít nhất có cơm ăn, nhưng với thân phận đi tu giữa những gia đình Công Giáo, không ai dám thuê, tôi đành làm đủ mọi thứ nghề, xay củ tróc cho thiên hạ lọc lấy bột làm miến tróc, mua đi bán lại một vài vật dụng để kiếm lời, ra Bà Rịa xin làm chân kéo lưới rùng mong kiếm được ngóc nghách nào đó để vượt biên. Tuy nhiên, cả đời chỉ biết cắp sách tới trường, không quen chịu đựng sương gió, nắng mưa, lại vào thời kỳ tháng 11 và 12 cuối năm, vừa cực, vừa lạnh, chịu không nổi nên đành trở về quê nghỉ tết.
Cũng may vào dạo này, linh mục Đông Anh là chính xứ nơi tôi ở, tôi vô gặp ngài, trình bày thân phận và xung phong giúp việc phụng vụ nhà thờ. Được ngài chấp nhận và cho ăn nhờ những khi cần. Tôi lây lất qua ngày, sáng sáng dự lễ, giúp ngài cho giáo dân rước lễ, sau đó vô nhà xứ dùng cà phê. Đã nhiều lần ngài nói, - Theo nhận định của tôi, thày nên quyết định chọn một trong hai con đường. Thứ nhất, vì bố mẹ thày đang ở Mỹ, chắc chắn thày sẽ không bao giờ được chịu chức linh mục, nếu thày ở lại, chỉ còn cách lập gia đình. Con đường thứ hai, nếu thày quyết chí theo đuổi ơn gọi làm linh mục, thày chỉ có một đường duy nhất là vượt biên.
Thường thì tôi im lặng hoặc kiếm cách trả lời cho qua vì cũng trong thời gian này, một đôi lần tôi đi đây đó vài ngày kiếm cách mưu sinh; đồng thời cố tìm ngóc ngách vượt biên. Tuy nhiên, dò hỏi tìm nơi nào bán máy dầu Hai xanh cho đôi nhóm người lo đường thuyền bè, đi mua, cắt dây lang nơi những vùng Tam Bung sâu phía sau rừng cao su Túc Trưng, đem về bán cho người nuôi heo kiếm lời sống qua ngày, tiền bạc không có, ngóc ngách vẫn mù khơi, tôi biết trả lời sao. Mặc dầu ý định phải vượt biên với bất cứ giá nào, nhưng cái khó bó cái khôn, ngày mai có còn mua được dây lang bán cho người nuôi heo kiếm lời sống hay chăng thì nói gì đây.
Gặp được người bạn ngày xưa cũng ở chủng viện tu muộn Nha Trang, hiện anh ta ở gần và có chiếc máy bơm nước chạy bằng xăng, tôi đề nghị hai người chung nhau làm máy xay tróc. Anh ta đồng ý, tôi, dầu chưa bao giờ làm nghề mộc, nhưng lúc đói, đầu gối phải bò, cũng cố cẩn thận từng chút, kiếm gỗ đóng khung, mua cặp bạc đạn xe díp làm trục ráp thành chiếc máy xay tróc, bỏ lên xe đạp, sáng sáng hai người đẩy xe tới một đôi nhà làm miến xay tróc cho họ. Tôi dự định cố dành tiền đóng cho vài nhà làm miến tróc giàn lọc vì lẽ tất nhiên, giàn lọc của tôi nên họ sẽ kêu tôi tiếp tục xay tróc cho họ. Dự tính thì hay, thời vận lại chẳng hợp; tôi đã đóng dùm cho cô tôi một giàn, bác tôi một giàn, nhưng họ cũng không nhờ tôi xay tróc. Nghề xay tróc đành bị đình chỉ vì đã không cung cấp đủ chi phí tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày.
Tôi có ý định đóng giàn lọc để có mối xay tróc do một chuyện tình cờ. Sáng hôm đó, sau khi dùng cà phê với cha xứ, tôi đạp xe đạp đi lăng quăng, chợt nhớ có một người bạn cũ thời học trung học Bùi Chu, Giốc Mơ, ở xứ Gia Yên gần nhà, nên tiện thể không biết đi đâu, do đó ghé thăm. Anh ta tên là Lương; từ ngày rời trường đến nay cũng đã mười một năm. Tới nơi, cỡ bốn tạ tróc đã được xay chờ lọc lấy bột sẵng sàng để được xúc chuyển qua những thau, chậu, rổ rá, và dùng nước phân tách bột tróc ra khỏi bổi. Tới trưa, trong túi có được hai đồng, tôi ra quán đầu ngõ mua một xị rượu đế, một đồng đậu phọng hột về rang, hai người ngồi nhâm nhi, dằn bụng nghỉ trưa. Tôi thấy lọc tróc theo kiểu này vừa tốn công sức, vừa bị phiền vì bột tróc sẽ trở nên màu xám do nhựa tróc bị oxít hóa, tốn thêm tiền thuốc tẩy làm cho bột trắng.
Hôm sau, tôi trở lại, thấy cả gia đình anh ta, chị vợ và hai cháu gái đang ép miến trên những mảnh phên tre được bọc bằng bao nhựa màu đen đem phơi. Bố ngồi quay ốc ép miến, mẹ nấu nước và pha bột, hai cháu gái như hai búp bê kéo phên; phên này đầy miến kéo ra, cháu khác đẩy phên mới vô, để mẹ mang phên miến vừa được ép đem phơi. Sau khi kéo xong miến của số bột tróc hôm qua đã xay, anh ta tiếp tục xay thêm hai tạ tróc mới đã được chuẩn bị sạch sẽ với chiếc cối chạy bằng motor điện, và lúc đó khoảng 11 giờ 30 trưa. Sau một lúc đứng nhìn cảnh vợ chồng con cái kéo miến, xay bột, tôi trộm nghĩ nên tìm hiểu cho biết có cách nào lọc bột nhanh hơn chăng; nên nói với anh ta, - Anh với tôi thử dạo một vòng ghé qua những nhà kéo miến gần đây xem họ làm thế nào, có lọc bột nhanh hơn chăng. Anh bạn tôi rất hiền lành, chân thật, đồng ý. Và thế là hai người cỡi hai chiếc xe đạp, tôi theo anh ta lượt qua một vài nhà làm miến tróc quanh vùng Gia Yên, Bạch Lâm. Chúng tôi ghé qua bốn nơi, nhà thì dùng sàng, rổ, chậu lớn, chậu nhỏ lược bột ra khỏi bổi nhờ nước. Cả buổi sáng, bốn người cật lực liền tay mới có thể lấy bột được năm tạ tróc đã xay. Nơi khác, dùng một hộp gỗ như chiếc quan tài đóng ngờ phía trong cách đáy hộp cỡ một gang tay và dùng một tấm phên khung gỗ được bọc bằng lưới chống ruồi, phía dưới lưới được đỡ với thép mắt cáo. Cũng là một sáng kiến hay, tôi nghĩ, nhưng không nói gì vì khi xúc bột đã đứng cấn ra hơi vất vả. Nhà khác dùng rổ, bỏ lên một chiếc khung gỗ nối liền với chiếc máng dẫn bột và nước đến chậu cho bột lắng.
Trở lại nhà anh bạn, tôi nói, mình ngưng lại hết, đóng giàn lọc trước khi ăn trưa. Anh bạn tôi đồng ý vì anh ta làm nghề thợ đóng bàn ghế. Tôi giải thích sẽ đóng như hộp ép đậu phụ, bỏ bổi tróc vô hộp và nối máng chảy dẫn bột vô chậu. Sau khi dùng cơm pha khoai khô với mướp luộc chấm mắm thì cũng đã ba giờ chiều, chúng tôi tiếp tục thử lọc bột với đồ nghề mới. Lọc kiểu này nước xả khá nhiều, nếu không muốn nói là quá nhiều khiến vợ anh bạn phải kêu ca vì không có đủ thau, chậu cho bột lắng. Một người bạn ở gần nhà tôi, dùng máy giặt để áp dụng sức ly tâm lọc bột, chợt ghé qua; thấy hai người tụi tôi đang hì hục xúc bổi, xả nước, trong khi vợ chủ nhà kêu ca, anh ta lên tiếng, nếu mà giữ được nước lại thì hay quá. Tôi im lặng không nói gì, trong lòng toan tính ngày mai phải làm sao. Sáng hôm sau, tôi lại đến và thấy hai tạ tróc xay hôm qua đã được biến thành miến trên giàn phơi trong khi anh bạn tôi đang xay bốn tạ tróc sắp xong. Tôi nói với anh ta cùng đóng giàn lọc mới chừng hai tiếng thì xong. Anh đồng ý và tới trưa thì giàn lọc bột mới cũng hoàn thành. Chúng tôi đóng một hộp gỗ có bốn chân, dài cỡ 36", cao 16", và rộng 16", bên trong đóng ngờ chung quanh cách đáy 6", và đặt lên ngờ bằng một miếng tôn lợp nhà được đục lỗ bằng đinh mười, ngang, dọc khít với hộp. Nơi vách cuối của hộp, sát với đáy được đục hai lỗ tròn để thoát nước và được đóng lại để giữ nước hay mở ra bằng hai nút gỗ. Hộp chứa bổi được nối với ba chiếc máng cũng bằng tôn, mỗi máng dài cỡ hai thước tư, hai đầu bịt bằng gỗ và rộng cỡ ba gang tay. máng nọ được chuyền qua máng kia và cho nước thoát ra ngoài trong khi bột từ từ lắng nơi máng thứ nhất và thứ hai; máng thứ ba chỉ là bột bổi.
Mẻ lọc thứ nhất, tôi đổ vào nửa tạ tróc đã xay, pha nước vô đầy hộp bổi, quấy đều cho bột lắng đoạn mở nút xả nước. Sao chỉ thấy một ít bột tróc chảy theo. Tôi đậy nút, pha thêm đầy nước đoạn quấy từ từ cho bột chắc chắn lắng hết xuống đáy hộp, và mở nút xả nước, hốt hết bổi ra, rồi nhấc phên tôn tìm hiểu lý do. Thì ra bột tróc lắng rất nhanh, đóng đầy đáy hộp lọc lên tới sát miếng tôn. Không cần giải thích thì chúng tôi cũng đã biết phải làm gì; thế là hai người lại hì hục tháo đinh, hạ ngờ thấp xuống gần đáy hộp. Và chỉ trong một tiếng đồng hồ, chúng tôi lọc xong bốn tạ tróc đã được xay. Sau này, khi phải ngưng xay tróc thuê, người em tôi nói,
- Anh thấy chưa, bao nhiêu công lao thí nghiệm giờ để người ta hưởng.
Tôi chỉ biết trả lời,
- Thì thấy người ta kiếm được miếng ăn là mừng rồi, có gì mà tiếc nuối.
Vài tháng sau, tôi ghé thăm anh bạn. Thời điểm này, công việc làm miến tróc tương đối khá nhẹ nhàng vì mọi người đã quen việc, nhất là vấn đề lọc bột đã không còn vất vả như trước; tôi tâm sự với anh ta muốn kiếm đường vượt biên nhưng không quen ai nơi vùng biển cả, sông nước. Anh ta nói, mẹ của chị ấy đang ở Chu Hải, Phước Hòa gần Bà Rịa, nếu muốn, anh ta viết thư giới thiệu. Trong túi tôi chỉ có mấy chục bạc (tiền VN thời đó); tính ra chỉ đủ tiền xe và góp gạo ăn trong vòng nửa tháng, chưa tính đến tiền xe lúc trở lại.
Cũng may, có người đưa tôi ít tiền đi xe nhờ đến vùng Hố Nai tìm xem có nhà máy cưa nào bán máy dầu có thể ráp vào ghe vượt biên. Lang thang tới quá trưa, đang định bắt xe đò dọc quốc lộ 1 về nhà tại Gia Tân. Khi đi ngang một nhà bên đường, tôi thấy một ông cụ đang ngồi trước cửa vót nan tre đan rổ. Dĩ nhiên, bụng đã đói vì từ sáng sớm vẫn chưa ăn gì, nhưng có lẽ nhịn đã quen, tôi dừng lại chào cụ và hỏi chuyện mưa nắng hầu lòng ruột quên đi mối nản lòng do chẳng tìm ra manh mối nào về máy với móc, chỉ mua được một cặp bạc đạn ráp vào một thanh sắt dùng để làm trục xay tróc và hai lưỡi cưa mâm cho bàn cưa xẻ gỗ nơi một nhà máy cưa đã đóng cửa; có lẽ chủ của nó cũng lo bán tống bán táng bất cứ gì để tính chuyện khác. Ông cụ với giọng miền Nam, khá cởi mở, hỏi tôi có muốn ăn cơm với cụ không. Có gì may mắn hơn nơi thời vận đã quá quen với sáng nhịn đói, trưa giả chừng đi thăm người quen, cố ý tới lúc người ta đang ăn trưa dở dang, dù họ chào giơi cũng lăn vào kiếm mấy miếng cho qua cơn khốn cùng, và tối uống nước lạnh trừ cơm trước khi leo lên giường ngủ. Tôi vội vàng nhận lời và cảm ơn cụ. Bữa ăn chỉ gồm có cơm được nấu bữa sáng cho cả ngày, một chén nước cá kho nhan nhát lấy nước chấm và ít rau cải thìa sống. Hãy còn may mắn, cặp bạc đạn và đôi lưỡi cưa mâm, tôi bán cũng có lời được ba chục bạc.
Không hiểu khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, một người dễ mang tâm trạng mặc cảm hay tự ái, hoặc chính lúc cuộc đời dồn họ vào ngõ tối, tâm trạng mặc cảm và tự ái lại nói lên cá tính nào đó của một người. Nhớ lại một lần:
- Thằng này tối ngày chỉ đi chơi, không lo làm bất cứ công việc gì. Chú rể tôi la người con lớn cỡ 15 tuổi trong khi tôi vừa ăn được nửa chén cơm, và tôi ăn vội nửa chén còn lại đoạn đứng lên chào ra về với cơn đói càng dằn vặt hơn, nhưng không hiểu tôi bị mặc cảm ăn bám hoặc nghĩ rằng ông chú rể la người con lớn để nói kháy tôi. Những ngày khốn cùng ấy tôi đã phải trây mặt giả đò thăm hỏi để “ăn chực”. Ra về với tâm trạng bị tổn thương, đôi tay run run do tức giận nhưng phải cố nén không để lộ bất cứ thái độ khác lạ nào, tôi chỉ ráng lấy giọng bình thường trả lời,
- Cháu cũng vừa mới ăn trước khi tới đây, khi cô tôi hỏi: “Sao hôm nay ăn ít vậy”. Biết trả lời sao hơn, khi vận số đã dồn ép mình vào đường cùng.
Mấy ngày sau, cầm lá thư không phong bì, được ghi thêm địa chỉ đơn giản, Chu Hải, Phước Hòa, tôi quyết định đi phóng sinh. Đường ở miệng, tôi thầm nghĩ; người ta chấp nhận cho mình ở nhờ hay không tùy thuộc sự lễ độ cuộc đời của mình. Thực tâm, tôi chẳng cảm thấy gì với danh hiệu thày tu của tôi, mà đôi khi còn bực mình vì chính nó đã dồn tôi vào ngõ hẹp không lối thoát. Thời gian phải cắt dây lang kiếm sống cũng thế, và sau này khi làm chính xứ giáo xứ người Mỹ cũng vậy, tôi chỉ thấy mình là mình, còn nhiều thứ kém cỏi thua xa người khác trong bất cứ phương diện nào nơi cuộc đời thì lấy chi lên mặt, lấy chi hãnh diện.
Và tôi đã được gia đình mẹ vợ người bạn chấp nhận cho ở nhờ, để rồi hôm sau theo người con bà ta leo núi, chặt, vác cây đốt than. Ôi, dân học trò, làm ăn sao bì được với người chuyên môn xốc vác, và một tuần sau, cũng vì cái mác thầy tu tôi được một gia đình khác, đang sửa ghe chuẩn bị đánh mối vượt biên rước về cho ăn ở nhưng không. Chẳng hiểu thần thánh nào xúi khôn, xúi dại, dẫu với chủ đích tìm đường vượt biên nhưng nào dám hé môi, tôi nghĩ, muốn để người ta không chú ý thì tốt nhất nên xuất hiện nhiều trước công chúng, và nếu có thể, nên có những thái độ làm cho người khác nghĩ mình chỉ lo kiếm sống cho qua ngày. Dĩ nhiên, đã trải qua thời gian giúp xứ, phải coi ca đoàn, tôi gia nhập ca đoàn nơi nhà thờ Chu Hải và giữ chân múa voi, múa nhịp cho ca đoàn nhà thờ hát lễ. Cũng không phải dễ dàng chi để được ca đoàn chấp nhận mình đứng lên đánh nhịp cho họ hát, nhưng có lẽ một chút tính chất liều mạng, không chịu khuất phục dưới bất cứ hoàn cảnh nào đối với bản thân cùng với ý định thầm kín nên tôi lỳ lợm xông xáo, và âu cũng là vận số nếu có thể nói như vậy.
Lẽ đương nhiên, tạm gọi là thích âm nhạc nhưng muốn hát cho đúng nhịp thì phải học nhịp. Muốn đánh nhịp cho ca đoàn hát lại phải tập hát cho họ; muốn tập hát cho họ phải biết xướng âm, chẳng đờn, không địch, cũng có thể hát lên được đúng cung giọng, nhịp nhàng. Có điều lạ là không ai có thể dạy cho tôi bất cứ điều gì; tất cả những gì tôi biết, đều phải tự học. Nơi phương diện này, có lẽ một vài tính chất của toán học đã giúp tôi không ít; vì tất cả những gì muốn học, tôi phải sắp xếp chúng thành những hệ thống cho dễ nhớ, dễ liên tưởng, và dễ thực hiện.
Nhớ lại khi còn đang giúp xứ, một tối, khi ca đoàn họp nhau tập hát, một thày giúp xứ cũ ghé qua nhân ngày nghỉ. Dĩ nhiên, nhiệm vụ của tôi là tập hát nên phải chọn bài hát và tự học hát trước, thật cũng không dễ dàng chi. Gặp người cũ, ca viên nhao nhao thăm hỏi; thấy mối thân tình của họ đối với thày xứ cũ khá mặn nồng, tôi mở lời nhờ thày tập hát. Thày nhận lời, cầm cuốn thánh ca hỏi, chúng ta hát bài nào. Thế là các ca viên nhao nhao lên, người đề nghị bài này, kẻ yêu cầu bài khác. Tôi ngồi đó mà lo sốt vó vì những bài họ đề nghị tôi chưa bao giờ để ý tới. Cuối cùng ông thày nói, chúng ta hát bài này, đoạn ngậm miệng lấy cung chừng hơn một phút và cất giọng hát mẫu. Tôi đỏ mặt tự thẹn với lòng vì nhịp thì biết; biết chưa đủ, phải rành, nhưng xướng âm thì chưa bao giờ thực tập. Xấu hổ với chính mình để rồi một tuần sau, lần tập hát tới, tôi đã có thể ấm ứ với những bài hát lạ mà không phải ngượng ngùng vì thiếu khả năng xướng âm. Bài học nào không phải trả giá!
Và có một người khác sau hai ba tuần chi đó, thấy tôi không có việc làm, đề nghị tôi đi làm ghe te cho người em rể mới ra ghe đang chuẩn bị xuống nước. Làm ghe te thì chiều đi, sáng về tùy theo con nước ban đêm, ăn ở tại nhà họ. Tôi đành từ giã ca đoàn bước vào nghề sông nước chưa bao giờ biết gì về đường đi nước bước của vùng sông lạch vùng này. Chủ ghe những ngày trước cũng chỉ đi làm thuê nơi ghe te của người khác. Chủ ghe chỉ mới làm chủ lái, người làm lại càng mới, mới đến nỗi không biết gì, chỉ mới biết cách cột đùm lưới sao cho dễ mở khi phải kéo đùm đổ tôm cá lên sàn khi con ghe chạy chậm lại và cột đùm sao cho khỏi bị tuột, tránh mất tôm cá. Chủ ghe cũng dễ dãi, hình như ngang ngửa tuổi tôi, một vợ ba con; các cháu gọi tôi bằng chú; tôi gọi vợ chồng họ là anh, chị.
Qua lần nói chuyện khi gặp gỡ hôm trước ngày ghe xuống nước, tôi hỏi chuyện mình phải làm những gì khi đánh te và được anh ta giải thích đại khái.
- Chú đừng lo lắng gì, có chuyện chi tôi sẽ nói cho chú biết. Khi trời nhá nhem tối hôm sau, mọi sự đã sẵn sàng trước khi nổ máy,
- Anh chạy sát bờ cỡ nửa cây số, khi thấy tôi giơ tay, cho chạy chậm lại để tôi thử đùm; nếu thấy tôi vẫy tay thì đi tới, còn không, giơ ngang tay thì bỏ cách bờ một miệng te. Và chỉ mới lần đầu với chủ mới, với người làm lớ ngớ, máy ghe lại nhỏ mà thành quả tôm cá nghe đâu không thua gì ghe te máy một “block.” Trưa hôm sau, chủ ghe mượn xe đạp của ai đó chở tôm cá về nhà vì ghe đậu tại bến Phước Hòa; tôi ở lại coi ghe và đánh một giấc bởi đêm rồi không ngủ. Lúc giật mình tỉnh dậy do con thuyền lắc lư, tôi hơi lo lắng vì dây cột tuột sào khiến ghe đang lềnh bềnh theo con sóng lùi ra giữa dòng. Vội chụp chiếc sào bên ghe, tôi lấy sức chống ghe trở lại bến, ghe trượt nước trở vô; tôi giật sào, và nhào xuống nước. Lần đầu lớ ngớ giật sào không đúng cách, sào giật ngược lại tôi.
Ba tuần trôi qua êm ả, tôm cá đánh được tương đối khá khiến gia đình chủ ghe hài lòng. Hôm ấy đụng con nước lừng, tôm cá được gần miệng rổ, tôi đội từ bến ghe gần nhà mang về cho chị chủ ghe bán lẻ. Dẫu ít nhưng vì con nước lừng, các ghe khác không đi, thế nên tiền bạc cũng không thua gì những ngày con nước chảy. Sau khi đội rổ tôm cá về tới nơi, tôi ghé qua chào bố vợ chủ ghe trong lúc cụ đang đan sảo dùng để lựa tôm cá. Vì tôi cũng phải dùng sảo, mà những chiếc sảo người ta quen dùng, lỗ sảo hơi nhỏ, bất tiện khi lắc cho những con tép lọt qua, tôi đề nghị cụ đan cho tôi chiếc sảo mắt lớn gấp rưỡi lỗ sảo thường dùng.
- Như vậy lọt cả tôm đi thì sao? Cụ nói.
- Thưa không đâu cụ, mắt sảo nhỏ, tép khó xuống nên phải lắc nhiều lần, sầu dập cả tôm. Mắt sảo lớn hơn, chỉ cần lắc nhẹ tép đã lọt hết và nếu tép to sót lại bán theo giá tôm thì có lợi hơn nhiều, lại mau nữa. Và tôi đã có được chiếc sảo mắt lớn khỏi bị gai tôm đâm sưng mấy đầu ngón tay.
- Cho tới nay chú đi làm cho em nó đã ba tuần, thế chú định tính tiền công xá với em thế nào để tôi bảo em tính toán cho chú.
- Thưa cụ, thì cứ để đó sau hãy tính, mới có ba tuần mà!
- Không được, chuyện nào phải ra chuyện đó; đi làm thì phải có tiền công đến đâu phải thanh toán đến đó. - Thưa cụ, xưa nay con nhờ vả thiên hạ cũng nhiều. Anh chị ấy mới ra ghe, còn đang nợ nần, thì cứ để khi nào trả nợ ghe xong hãy nói đến công xá cũng được mà.
- Chú nói thế thì cũng được.
Ai không muốn lấy tiền công ngay khi làm xong công việc, nhưng tôi đã phải nói nghịch với lòng vì nghĩ, mình là dân học trò, chân ướt chân ráo liều lĩnh đến nơi xứ lạ, không ai quen biết, ngành nghề lại càng lớ ngớ thì làm ăn đã chắc gì bằng dân địa phương quen với sông nước, sóng gió; lỡ đặt vấn đề công lao, họ thuê người khác sức vóc hơn, mình coi chừng mất cơ hội kiếm đường vượt biên, rồi ăn đâu, ngủ đâu, và cơ hội sẽ ra sao. Ôi, cuộc đời đôi khi ép chặt lòng người, đành giả đò ngu ngơ tốt bụng, cố bám hy vọng cho qua cơn khốn cùng.
Và sáu tháng sau, công việc ghe nước tương đối khá, chủ ghe đã trả nợ được một nửa. Anh tham gia một chuyến vượt biên và công chuyện bị bể khiến tôi một đêm lội nước tìm đường trốn trối chết. Nếu tôi bị bắt thì ai thăm nuôi trong khi tiền bạc không có một đồng trong túi. Sáng hôm sau, đôi bàn chân bị cắt nát bét bởi lội qua nơi những vùng đước gốc bị chặt vát lấy củi đốt than. Tôi khập khễnh về bến Phước Hòa leo lên ghe te đang được cột tại đó, không cần biết thế nào, mệt quá, chui vô buồng ghe ngủ một giấc. Lúc tỉnh dậy đã thấy dăm ba du kích đến kéo ghe trong tổ chức vượt biên hụt. Tôi lặng người, giả vờ như không biết chi, lên bờ đến chiếc ghe cào của người đã cho tôi ở ba tuần trước khi làm ghe te. Phía trên buồng ghe, hai người đang ngồi nhậu. Ông chủ ghe trông thấy tôi lớn tiếng hỏi:
- Sao, đêm rồi tôm cá thế nào, cũng muộn rồi, vô buồng ghe ngủ giấc cho khoẻ. Tôi ậm ừ cho qua giống người ít nói, chui vô buồng ghe. Ông chủ ghe ngay sau đó mang chén nhỏ có mấy miếng lòng heo, đưa cho tôi và nói lớn,
-Thôi ngủ đi, chiều đi làm sớm. Đoạn ông nhỏ giọng bảo, Thằng trưởng du kích xã đang ngồi trên ghe đó. Tôi im lặng, ăn vội mấy miếng lòng heo và chìm vào giấc ngủ.
Ghe mất, việc hết, chân khập khiễng, tôi trở về quê cũ với cõi lòng nát tan, dầu ý vượt biên vẫn còn ôm ấp mặc dù hy vọng quá mong manh. Tôi chỉ còn biết ngậm ngùi thầm thĩ than van, Chúa muốn thế nào cũng được, tùy Ngài, tôi đâu có gì, và nào có chi hầu bám víu để nuôi hy vọng mong thực hiện ý định của mình. Hơn nữa, bởi thấy khó còn cơ hội trở ra vùng sông nước chờ dịp đào thoát, trong khi không biết được thân phận mình rồi sẽ bị kết cục thế nào; do vận số đã dồn tôi đến tận cùng cuộc sống, không phương xoay xở, lại càng không muốn sau này phải ân hận về những kết quả có thể xảy đến do mình quyết định, nên chỉ biết thầm thĩ với lòng, nếu Ngài muốn tôi tiếp tục ơn gọi, hãy giúp tôi vượt biên. Còn tôi, chẳng có và cũng chẳng còn gì để níu kéo hoặc tiếc nuối.
Ba tuần sau khi đôi chân gần như hết đau, tôi được tin nhắn trở lại Chu Hải đi làm hàng đáy. Người anh rể của chủ ghe cũ mới mua hàng đáy trong sông gần bến ghe để chủ ghe trông coi. Tôi cũng không hiểu tại sao họ không thuê ai đó nơi Chu Hải làm phụ mà lại kêu tôi. Một hôm, sau khi đội rổ tôm tép của một đêm nước lừng về xay mắm tép, người em của chủ hàng đáy nói:
- Chiều nay sau cơm trưa, chú qua đây, anh Hòa nói muốn gặp chú. Mẹ và vợ của anh Hòa đưa mắt nhìn tôi có vẻ ngại ngùng. Anh Hòa rất biết điều và thẳng thắn, ít khi muốn gặp riêng ai ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt quan trọng.
Sau trưa, khi gặp tôi anh nói, mình ra cống cạn ngồi nói chuyện, đoạn hỏi luôn, - Sao, làm hàng đáy có khó khăn chi không?
- Có gì mà khó, quai (buộc, mắc) đáy (lưới), ngủ tới khi đồng hồ báo thức trở dậy quay (kéo) đáy lên nào có chi mệt nhọc đâu!
- Sao chú K. khăn kháu, có phần tỏ ra bất mãn. Tôi nghĩ rằng chú K. bực bội vì chú không cố gắng làm việc. Vậy chú có hài lòng với tiền công tôi trả cho chú không?
- Em đi làm đâu phải vì tiền công. Từ ngày đi làm te, rồi làm hàng đáy tới nay em chưa bao giờ hỏi một đồng tiền công. Mục đích của em là vượt biên chứ không phải đi làm thuê. Có lẽ anh ấy mất ghe, lại còn mang nợ, làm hàng đáy cho anh thì bao giờ mới có thể ngóc lên được.
- Tôi vẫn trả tiền công cho chú hàng tuần mà.
- Nào em biết tiền công là gì đâu; không tin, anh hỏi lại anh chị K. coi.
- Tôi xin lỗi chú; tôi cứ nghĩ là tại chú lười không chịu làm việc nên chú K. bất mãn.
- Vì mục đích của em là vượt biên đến nỗi cũng không dám đặt vấn đề công sá, chỉ cần có chỗ ở và có việc làm chờ cơ hội thì anh nghĩ em sao có thể lười biếng.
- Tôi ước mong có được người em như chú. Thôi chúng ta về; từ nay, chú cứ bình tĩnh làm hàng đáy, khi nào có chuyến tôi sẽ gửi chú đi.
Sau vài lần chôn giấu dầu, coi chừng nghe ngóng ghe nhà nước canh bắt vượt biên cho một vài chuyến ra đi, tôi đã vượt biên đến Paulo Bidong, Malaysia, và được ông anh bảo lãnh qua Mỹ vào tháng ba năm 1980. Dù sao chăng nữa sống nơi nước người, chuyện quan trọng đầu tiên phải là ngôn ngữ, thêm vào đó, nếu muốn tiếp tục học làm linh mục, không biết gì về ngôn ngữ sao có thể theo học. Ngay trên chuyến bay từ Kuala Lumpur tới phi trường Oakland, CA, và nghỉ lại một đêm chờ chuyến bay chuyển tiếp tới phi trường Virginia, gần nơi gia đình anh tôi cư ngụ, tôi đã phải dứt khoát quyết định. Thế nên, vừa gặp mặt người anh, tôi đã lên tiếng nhờ ông đưa đi khai học ngày hôm sau.
- Tôi đã hỏi “Community College,” giữa tháng ba mới có lớp vì chương trình nhà trường dạy theo “quarter”. Thì cứ nghỉ ít ngày cho khoẻ đã, có chi mà vội. Tôi đã lấy nghỉ bệnh ngày mai để đưa chú đi mua sắm quần áo và những gì cần thiết. Tôi biếu chú 300 đồng; thực ra nếu khấm khá hơn chút, tôi sẽ cho chú nhiều hơn, nhưng cả nhà, các cháu còn nhỏ, chỉ có mình tôi đi làm.
Sáng hôm sau, người anh đưa tôi tới đại học cộng đồng ghi danh cho bốn lớp, gramar (văn phạm), reading (đọc sách), lab (nghe và đọc theo), composition (viết bài), sẽ được mở vào ngày 15 tháng ba. Nhân viên văn phòng đưa cho tôi một tập giấy giải thích về các lớp học bao gồm những gì, giờ giấc các lớp học thế nào, lại cho người dẫn anh em tôi tới phòng “lab,” trong đó có những khung bàn riêng biệt để học viên có thể nghe bằng “head phone” từ “cassette;” trong khi mắt theo dõi những dòng chữ viết nơi cuốn sách để luyện nghe và phát âm. Người hướng dẫn cũng cho biết tôi có thể ghi danh mượn những “băng” và sách để nghe và tập luyện nói ở nhà. Sau đó người anh đưa tôi ghé qua JCPenny mua quần áo. Khi ngang qua khu máy móc, tôi muốn mua thêm một đầu máy “cassette deck” và một “head phone”.
- Chú mua thứ này làm gì? Chú định mua để nghe nhạc à? Nghe nhạc thì mua máy cassette loại có loa rẻ hơn và tiện hơn lại không phải dùng head phone.
- Em mua để học Anh văn vì có thể mượn băng và sách từ phòng lab mà.
- Vô phòng lab ở nhà trường không tiện lợi hơn sao?
- Mua thứ này về để nghe khi ngủ lợi hơn nhiều. Và 300 đồng ông anh cho chỉ còn lại hơn chục bạc.
Một quarter chỉ học có 11 tuần, vừa bước tới cửa lớp của giờ đầu tiên, ngày đầu tiên, lớp văn phạm, tôi sửng người. Đi dọc phía giữa hai dãy bàn kiếm chỗ trống, nghe thấy thiên hạ nói chuyện nhanh như gió mà cảm thấy ớn lạnh, họ đã nói được tiếng Anh giỏi như vậy mà còn phải tham dự lớp này thì tôi phải làm sao. Dĩ nhiên, nghe thấy họ nói chuyện trong khi chờ lớp bắt đầu mà tôi nào có hiểu chi đâu, chỉ thấy thiên hạ líu lo, mình thì như vịt nghe sấm mà phát thèm. Tuy nhiên, mới hết tuần thứ 9, tôi ra khỏi lớp, trong khi thiên hạ còn phải ở lại miệt mài thêm hai tuần.
Nơi lớp văn phạm Anh văn, cuốn English 2600 được dùng làm sách học căn bản. Nghe đâu tác giả cuốn sách này là một người Đức sinh trưởng tại New York, USA. Bên trong, mỗi trang sách được phân chia thành những phần nhỏ. Sách gồm 2600 khuông nên được gọi English 2600. Phương pháp học thì đọc theo thứ tự số của những khuông. Vô lớp, bà giáo chỉ nói lời chào mọi người, đoạn phát cho mỗi người một tờ giấy làm bài trong đó ghi những câu hỏi liên hệ đến môn học, bất cứ lúc nào làm bài xong, nộp và ra về. Lớp học nào cũng thế, nhận lại bài làm được chấm điểm, nhận bản thi mới, hí hoáy làm bài thi, nộp, và ra về. Những bài làm theo thứ tự đã được phân chia theo những chương mục trong sách. Tôi làm hết những bài thi sớm nên ra khỏi lớp sớm hơn hai tuần. Sau đó, có người quen học cuốn English 3200, tôi ghé vô phòng bán sách mua một cuốn. Cuốn này cùng tác giả và cũng được phân chia cách đọc giống cuốn “2600,” gồm có 3200 khuông nên được đặt tên English 3200, thêm 600 khuông dạy về viết lách phải thế nào theo văn phạm Anh văn. Hai cuốn này chỉ cần đọc qua và trả lời những câu hỏi ngắn gọn của từng phần nơi khuông vừa đọc, rất dễ nhớ. Tôi cảm phục sáng kiến sắp xếp những bài học văn phạm Anh ngữ của tác giả, và thường đề nghị những người quen gặp khó khăn với văn phạm Anh ngữ, tự học cuốn English 3200.
Quarter tiếp theo tôi ghi mấy lớp về toán cầm chừng vì mới nhận được thư từ nhà trường Divine Word ở Epworth, Iowa, nói kiếm giấy chứng nhận của một linh mục, giấy rửa tội, thêm sức và điền đơn để ghi danh nhập học. Sáng hôm ấy không có lớp, tôi đang ở nhà người anh; chuông điện thoại chợt reo, và tôi bốc phone,
- Tôi là cha H, ở Epworth, Iowa, cho tôi gặp anh…
- Thưa cha con đây.
- Cậu có định đi tu thật không đấy mà sao vẫn chưa thấy nộp đơn.
- Thưa cha, con không kiếm được cha nào bên Mỹ chứng nhận đồng thời phải gửi thư về Việt Nam để xin giấy chứng nhận rửa tội, thêm sức nên còn đang chờ.
- Khỏi cần, mua vé phi cơ tới phi trường Epworth, Iowa, và gọi cho cha biết số chuyến bay, ngày giờ tới, cha sẽ cho người đón. Mọi chuyện giấy tờ cha sẽ chứng cho.
VẤN ĐỀ HỌC HÀNH
Và đầu năm 1981 tôi bay tới Epworth, Iowa, nhập lớp “ESL” (English as Second Language) trong một buổi chiều lạnh ngắt, tuyết phủ trắng xóa mọi nơi. Sau một năm rưỡi, tôi xin đi nhà tập, điều này cũng có nghĩa xin gia nhập SVD (Society Verbi Divini). Một năm yên ổn nơi nhà tập chóng qua, sau khi khấn lần thứ nhất, tôi được gửi tới “Theologate” một chung cư cho các học viên thần học tại Chicago, IL. để theo học tại CTU (Catholic Theological Union), một trong bốn trường thần học nổi tiếng tại Mỹ.
Tôi thích nhà trường này vì học theo “quarter” và không có “test” mà chỉ làm bài viết (paper). Lý do, với giới hạn ngôn ngữ như tôi, thiên hạ đọc mười phút, tôi phải đọc cả một giờ. Làm bài viết, tôi không làm theo cách dạy của môn “Composition” nhà trường Mỹ, đọc sách, viết dàn bài, lục lọi nơi sách cho những câu trích dẫn, ghi rõ đàng hoàng, sắp xếp diễn trình tư tưởng và đánh máy. Tôi làm ngược lại, chọn bất cứ đề tài nào, viết dàn bài theo những gì tôi định viết về đề tài đó, cầm dàn bài vô thư viện lục sách vở cho dàn bài. Như vậy, thời gian rất mau, chỉ cần hai tiếng đồng hồ, tôi đã có thể tìm được 10 cuốn sách viết về cùng một đề tài tôi chọn. Thực ra, hai tiếng chọn sách để viết về một đề tài là hơi quá, vì chỉ cần sáu hay bẩy cuốn là quá đủ. Đến phần chứa đựng sách viết về chủ đề mình muốn tìm, lật qua mục lục, liếc sơ qua đoạn có đề mục liên hệ cho bài viết, nên chỉ cần một tiếng dẫu ngú ngớ như tôi.
Năm đầu tiên tại CTU, tôi và một người Việt khác chỉ được cho phép lấy 8 giờ (credits) vì giới hạn Anh ngữ. 3 quarters sau đó, mỗi quarter tôi chỉ được phép ghi danh 12 giờ một tuần. Đầu năm tiếp theo, tôi ghi danh 15 giờ, giám học tại nhà không chịu, nói chỉ được phép ghi danh học 12 giờ một tuần. Số là cuối năm trước, tôi ghi danh học lớp “Later Prophecy,” tôi được điểm A, quarter này cũng giáo sư đó dạy lớp Thánh Vịnh chỉ là một môn lựa chọn. Bực trong lòng với điều luật vâng lời của nhà dòng, tôi trở lại trường lấy mẫu ghi danh chỉ ghi những lớp khác, không có lớp Thánh Vịnh.
Giờ đầu tiên của lớp Thánh Vịnh, thiên hạ vô chật kín 34 ghế (tối đa học viên), tôi tỉnh khô queo vô gặp linh mục giáo sư xin được dự thính (không ghi danh và sẽ không được chứng điểm). Linh mục giáo sư chấp thuận, tôi qua phòng học bên cạnh không có lớp, lôi chiếc ghế một (có cả bàn nhỏ) đặt ngay cạnh cửa tham dự. - Chúng ta chỉ có 11 tuần cho lớp này, mỗi tuần ba giờ, ai vắng mặt 3 giờ kể nhưng không có điểm. Bài làm thì chúng ta làm năm bài, mỗi bài từ hai đến ba trang, chữ đánh máy cỡ 12 cách một hàng, nghĩa là mỗi trang cỡ chừng hơn kém 220 chữ.
Sau ba tiếng nghe giảng của tuần đầu, giờ thứ nhất tuần sau tôi nộp một bài, 5 trang, chữ cỡ 10, không cách hàng, và A+. Giờ đầu tuần thứ ba, tôi nộp thêm một bài, A-. Giờ đầu tuần thứ tư, tôi nộp thêm một bài, A; và giờ cuối tuần bốn cũng là thời hạn ghi danh thêm hoặc bỏ lớp (add or drop). Khi linh mục giáo sư vô tới lớp, thiên hạ nhao nhao, “nhiều bài thi quá, xin bỏ bớt bài làm”; vì thật ra cũng chưa ai nộp bài nào ngoại trừ tôi. Linh mục giáo sư lên tiếng, thôi thì làm ba bài. Hết giờ, tôi tới gặp Lm giáo sư, hỏi, tôi có thể ghi danh thêm lớp này không. Ngài trả lời,
- Anh dù không tham dự lớp này nữa thì cũng đã có điểm A rồi, lấy phiếu ghi danh mang tới đây tôi ký. Tôi vội bước ra hành lang nơi có bàn để phiếu lấy mẫu ghi danh mang vội vô; ngài ký trước khi tôi điền vô mẫu đơn. Mang về nhà trình giám học, khó chịu và bực mình, nhưng giám học đành nhận giấy ghi danh và đóng tiền; vì “Giáo sư” đã ký dầu tôi không theo lớp nữa vẫn có điểm (credit). Coi chừng cố gắng, thực tâm, đôi khi cũng trở thành án phạt. Nguyễn Du khá thâm trầm để lại câu nói, “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.”
Hình như nếu ai đó đầu óc thiên nhiều về lý luận, suy tư thì trí nhớ hơi kém. Cũng vì Anh văn nghèo nàn, tôi phải cày, gồng mình cày; bởi không muốn bị thua kém nơi phiếu điểm. Thay vì lang bang giao dịch đây đó, tôi lo đọc, lo tra tự điển để hiểu cho rõ ràng khi đọc những sách (text) của lớp và rồi cũng bị lên án, bị cho rằng thiếu tính chất sinh hoạt cộng đồng. Nói sao, giãi bày làm gì, nào có lợi ích chi. Chúa muốn gì với tôi nếu tôi không cố gắng học hành. Một sáng tôi không có lớp nên nấu ăn trưa cho nhóm. Sau ăn trưa, tôi theo hành lang, ghé qua khu của nhóm khác, gặp bác Đ. đang lau bàn, bác cũng không có lớp sáng nay. Tôi gọi là bác vì hơn tôi hai tuổi, có bằng sư phạm và dạy văn chương đệ nhị cấp ở VN, nhập SVD sau và mới được gửi tới Theologate theo học năm thứ nhất thần học tại CTU.
Vừa trông thấy tôi, bác Đ. treo khăn lau nơi tay cầm bếp nướng, mở tủ lạnh lấy ra một lon bia “Ham,” miệng nói,
- Chỉ còn có một lon, thôi thì mình chia đôi, trong khi lấy ly rót một nửa đoạn đặt trên bàn trước mặt tôi. Nói chuyện qua lại đôi câu về học hành, bài vở. Chúng tôi đồng ý rằng Anh ngữ là một khó khăn khá lớn nơi trường hợp hai chúng tôi. Chúng tôi cũng có người bạn khác, anh ta đi tu ở Việt Nam từ nhỏ, rành về Latin, Anh văn hơn chúng tôi. Chợt tôi đổi giọng, nhẹ nhàng hỏi,
- Có khi nào bác nản đến cực độ chỉ muốn dồn hết mọi sự vô valy và bỏ ra về không? Bác rơm rớm nước mắt, nhìn tôi nói,
- Mẹ, sao mày nói đúng tâm trạng tao vậy.
- Thằng bạn tụi mình nó đi tu từ nhỏ, gốc Latin, Anh văn nó rất khá vì ở trong chủng viện thường theo ban C. Còn bác với tôi là tay ngang. Tôi hứa với bác, bác kiếm sách, viết bài, tôi sẽ đánh máy cho bác ít nhất hai bài trong khi bác học đánh máy mười ngón. Có tí tuổi nơi nước người, nói bằng tay, nghe như không nghe, mà chui vào lớp thần học, ngôn từ tiếng nào tiếng nấy được viết do các học giả, thường ngắn cỡ gang tay, phiền ơi là phiền.
Giữa năm thứ hai thần học, tôi bị bề trên (Rector) gọi vô gặp ngài. Ngài không giải thích lý do, nói tôi ngồi và đưa ra một chương trình, giải thích tùm lum, tôi nghe tiếng được, tiếng không, đại khái bảo tôi phải sống như thế. Tôi trả lời, chương trình sống đó nên áp dụng cho chính ngài, tôi gần 36 tuổi rồi, cần phải đọc sách nhiều vì Anh ngữ kém; tôi phải lo học trước, không thể sống theo người khác được. Và cuối năm thứ hai thần học, ban điều hành Theologate họp và đuổi tôi với 5 tội. Tôi chỉ nhớ được hai và đó là ương bướng (stubborn) và chống Mỹ (Anti American). Cố níu kéo để được ở lại, nhưng cũng uổng công; bề trên tỉnh dòng viết thư trả lời, tôi không có ơn gọi SVD. Tôi viết 13 lá thư gởi tới 13 địa phận dọc bờ biển miền Nam nước Mỹ, định bụng địa phận nào nhận trước, tôi nhắm mắt gia nhập; vì bố mẹ tôi cũng đã có tuổi, sau khi chịu chức kiếm nhà để ông bà ở vì thời tiết ấm áp hơn. Một linh mục trong năm linh mục điều hành “Theologate,” ngài cũng là giáo sư Thánh Kinh tại CTU, người đã bỏ phiếu tống khứ tôi, nghe đâu cũng bỏ áo dòng theo tiếng gọi của bà thơ ký một tháng sau đó.
Đức giám mục địa phận Biloxi ngày đó nhận và gửi tôi vô Notre Dame Seminary, New Orleans, LA. thêm ba năm. CTU là trường thần học truyền giáo nên quan điểm rộng rãi. Trường thần học ở New Orleans là trường thần học huấn luyện linh mục cho các giáo phận, chương trình học theo “Sermester.” Sáu tháng đầu, vô lớp nhưng tôi nghe giảng lõm bõm, kể như vịt nghe sấm; vì đang nghe quen giọng miền Bắc Mỹ, giọng miền Nam hình như không thích cặp tai của tôi.
Nơi lớp học về Phúc Âm Thánh Gioan, vị giáo sư đã hơi có tuổi, hơn sáu chục. Nghe đâu mấy năm trước có thày Việt Nam nào đó, thay vì tự làm bài, lấy bài của người khác học năm trước, đánh máy đề tên của mình rồi nộp cho ngài khiến ngài bị in trí đối với những học viên Việt Nam. Bài làm cho lớp học này gồm ba bài viết; mỗi bài từ ba đến năm trang, dĩ nhiên, chữ cỡ 12 và cách hàng. Làm ba bài, theo dự đoán của tôi nếu ở CTU, tôi sẽ được A cả ba; nhưng kết quả tôi lãnh, C, D+, D.
Lớp học Ba Ngôi Thiên Chúa, vị giáo sư là một học giả, có ba bằng tiến sĩ. Bài làm chỉ một bài 15 trang. Mọi học viên phải lấy lớp này; nhưng nghe từ các học viên đã học qua, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi hoặc mặt bí xị. Ai đã từng học chung với người Mỹ, bài làm được B đã là thoả mãn, hạnh phúc lắm rồi. Tôi nghĩ, ông là một học giả, tôi chơi trò học giả với ông cho vui. Bài viết tôi nộp, 26 trang, cỡ chữ 10, không cách hàng, 108 ghi chú từ 28 cuốn sách. Dĩ nhiên tôi lãnh A. Đùa với học giả cần phải chịu khó hơn một chút, nhưng cố gắng với những đầu óc in trí, cho dù tốt lành đến đâu, coi chừng cũng bị lãnh mỏ lết bởi bị cho rằng chép từ đâu đó. Hay hoặc giỏi đôi khi cũng có hại, tôi học thêm được bài học nên giả đò ngu đần; hèn chi cụ Thanh Giang Nguyễn Duy Cần dịch câu Phúc Âm, “Phúc thay kẻ ngu đần” (Mt. 5:4) nơi cuốn Cái Cười của Thánh Nhân.
THỰC TẠI NỖI LÒNG
Run rủi phận số rồi cũng qua, phiền hà với ngôn ngữ mới kể cũng tạm ổn, nhưng nỗi thao thức nào đó cứ trầm trầm đè nặng tâm hồn tôi mỗi khi soạn giảng. Lời phúc âm Luca được ghi lại, mục đích cuộc đời của đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ,'Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.' Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê” (Lc. 4:42-44). Mình được dạy là Chúa Giêsu chết vì và chết cho tội lỗi của loài người; mọi Kitô hữu đều tuyên xưng như thế. Mà phúc âm Luca lại được chép, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến,” nghĩa là sao? Đức Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời, vậy Tin Mừng Nước Trời là gì? Đức Giêsu đã rao giảng những gì được gọi là Tin Mừng; sao lại nói, lại được rao giảng, chuộc tội thiên hạ, chuộc tội cho loài người! Vậy Phúc Âm là gì vì Phúc Âm được viết vào khoảng từ năm 70 đến năm 100 sau công nguyên, theo kiểu truyền miệng; bởi vào khoảng thời gian ấy, những người sinh thời với Chúa Giêsu có thể đã quá già lão hoặc đa số đã chết hết.
Dĩ nhiên, trường thần học chỉ có thể dạy kiến thức nơi các bộ môn Kinh Thánh luân lý, bí tích, giáo luật, v.v
, những tri thức hầu thúc đẩy nhận thức căn bản cho một người tạm gọi là đầy đủ để thi hành chức vụ của một linh mục. Tất cả những kiến thức, tri thức này không dính dáng gì đến sự truyền chức, mà chỉ là điều kiện cần thiết để thi hành nhiệm vụ được trao phó. Chúa Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng chứ không phải để làm phép lạ. Được coi là phép lạ là những chuyện phải xảy đến, như kết quả của lòng tin, đức tin. Đức tin, lòng tin là gì mà có thể mang quyền lực chữa lành như được chép, “Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt. 9:22), hoặc, “Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được” (Mt. 21:21-22).
Phỏng mình cũng ham muốn sử dụng được lòng tin, đức tin để có thể chứng kiến những gì được gọi là phép lạ, tôi tự hỏi lòng. Muốn hay không mà đức tin là gì chưa phân định được rõ ràng, Tin Mừng đức Giêsu rao giảng vẫn mù mờ thì có gì đáng nói! Phương cách nào để tôi biết, để tôi nhận thức rõ ràng đức tin là gì, Tin Mừng là gì, đều là chuyện cần thiết nhất. Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng; tôi được truyền chức để rao giảng Phúc Âm. Chẳng lẽ Phúc Âm là Tin Mừng. Nếu hiểu theo nghĩa từ chương, Phúc Âm có nghĩa là Tin Mừng, nhưng Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là gì? Vì Phúc Âm được biên soạn theo những lời truyền khẩu. Tôi đã có ý nghĩ này khi học lớp Kinh Thánh Tân Ước nhưng không dám nói ra, nói ra lỡ bị đội cho chiếc mũ rối là tàn đời, ơn gọi linh mục chấm dứt thì sao. Ai là học trò mà dám to miệng bắt bẻ thày dạy; nhất là nơi mà ông thày lại là linh mục đã có tuổi, ý kiến, ý bọ của ngài sẽ là án định cho cuộc đời của mình. Khốn khổ đủ rồi, tôi chẳng dại gì mà dám lên mặt khoe khôn khoe khéo với kẻ cầm án quyết, nhưng, càng im miệng thì khúc mắc càng đậm in những lớp sóng trong lòng; mà lúc này, đối diện với suy tư về Lời Chúa để soạn giảng, tôi phải giải quyết. Giải quyết cách nào, đâu đó nơi Phúc Âm cũng có câu, “Hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ được mở cho.” Tìm ở đâu, gõ ở đâu? Lại cũng có câu khác, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33). Ôi lời phúc âm nghe ngon lành lắm, muốn gõ mà không biết chỗ nào mà gõ thì lấy gì mà mở, muốn tìm mà không biết chỗ nào mà tìm thì tìm làm sao! Chẳng lẽ ghé vô tiệm tạp hóa để tìm hiểu Nước Trời! Nhưng, lại chữ nhưng khốn khổ, sao Phúc Âm lại nói, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa?” Tại sao không nói “Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa;” vì nếu biết Chúa thì mới có thể biết Nước Thiên Chúa. Đàng này, Phúc Âm đề nghị phần cuối thay vì cần đi từ gốc.
Kể ra tôi cũng phải tự khen mình hơi thông minh; nghĩ hươu, tán vượn, mới nhận ra được Phúc Âm chơi khăm con người đã bao lâu nay mà không ai dám lên tiếng đặt vấn đề. Nơi sách Khởi Nguyên có câu, đoạn nào tôi cũng chẳng nhớ, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN 1:27); đại khái là như thế. Do đó, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa,” cần được viết cho xuôi, sẽ là, “Tiên vàn hãy biết chính mình vì mình là hình ảnh Thiên Chúa.” Biết được mình thực sự thế nào thì Chúa sẽ như vậy, rồi hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Giời, nếu ở nhà trường mà dám phét lác như lúc này, thử hỏi giám mục nào dám truyền chức cho tôi. Ôi, càng thông minh càng phải nín nhịn, càng phải nên im miệng cho thuận lễ độ cuộc đời.
Nhận ra được đầu mối là phải biết, phải nhận thực ra con người mình trước hết, khởi nguồn cho mọi nhận thức, nhưng phương thức nào, cách nào. Tôi đọc được đâu đó, nơi nhà Phật có công án, “Tôi là ai.”Cái mà được gọi công án này coi bộ tửng tửng mà coi chừng bao gồm nhiều sự rắc rối! Ai không cho rằng mình là người biết rõ về mình! Nơi cuốn Mây Bay Về Ngàn có đoạn một người thực hiện phương cách nhận ra mình thế nào, được kể như sau,
“- Thưa cha, thưa bác, và anh em, con xin kể lại việc con đã làm để nhận biết chính mình. Vào thời đó con suy nghĩ mãi nhưng không biết cách nào để trả lời câu hỏi “Tôi là ai,” con đành lấy một tờ giấy, kẻ một đường thẳng ở giữa từ trên xuống dưới. Một bên con viết tất cả những điều con thấy tốt lành, thánh thiện nơi mình từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Bên kia, con cũng viết xuống tất cả những gì con thấy nơi mình không nên, không phải. Sau khi viết xong, con cảm thấy tá hỏa, không dám chấp nhận mình tệ như thế. Dĩ nhiên, con không để cho ai biết. Sau một lúc ngỡ ngàng, con nhận định, những gì được viết nơi tờ giấy chính là con viết về con; bởi đâu ai biết con thế nào. Thế nên, sau khi suy nghĩ con đi tới kết luận; đây thực sự là chính mình, mình không chấp nhận nó là tự lừa dối để rồi con mở rộng lòng chấp nhận mình thực sự là như thế. Ngay lúc chấp nhận đó là thực thể nơi mình, con cảm thấy tâm tư thoải mái, đồng thời cũng nhận thức được trên cuộc đời này không ai bết bát hơn mình, không có thằng quỷ, con ma nào tệ hơn mình; có lẽ chúa quỷ chỉ đáng làm đàn em của con. Tuy nhiên, cũng từ đó đối với những sự việc hay ai đó vô tình hay hữu ý làm phiền con, con nhận ra rằng, sự tệ hại người đó đã làm phiền lòng con không đáng để so sánh với sự tệ hại nơi con nên chẳng có gì đáng cho con phải chấp chiếm vì con còn tệ hơn người ta nhiều. Nói cho đúng, bởi nhận ra được như thế, con cảm thấy lòng mình thanh thản, dễ chịu hơn. Có thể nói, con không dám đặt vấn đề đúng, sai nơi người khác nữa; bởi đàng nào thi họ cũng dễ thương, tốt lành hơn con. Không hiểu tâm tình này lâu dần có làm cho con thêm tự ty mặc cảm hay chăng, nhưng cái lợi ích trước tiên về chuyện dám đối diện chính mình đã giúp con chấp nhận cuộc đời và người chung quanh dễ hơn. Có điều, nhân tiện con xưng tội trống với cha, đó là chính sự thể hồi tâm đối diện và chấp nhận chính mình cũng làm phiền con không ít. Số là nếu có ai đó chủ đích đụng chạm đến con, con biết nhưng không nói ra, không tỏ bất cứ thái độ nào khi gặp họ mà cứ như chẳng để ý gì; con lại cảm thấy thái độ im lặng này cả là một sự độc ác vì như thế có nghĩa cố tình để người đó phải trả giá nặng nề hơn. Con xin hỏi, cha và bác cùng quý anh em nghĩ thế nào?” (MBVN; Tr. 397-398).
Học theo câu chuyện hầu mong nhận biết thực sự mình như thế nào, tôi cũng lấy giấy bút thực hiện đúng phép tắc theo câu chuyện, lòng tự nhủ lòng lấy hết can đảm đối diện chính mình. Sau khi đọc lại những gì đã được chính mình viết ra về mình, tôi ngồi đó ngẩn ngơ chẳng ngờ mình bết bát như thế. Trời đêm cũng đã muộn, tôi in ra một bản bỏ nơi hộc bàn viết với ý định ngày mai sẽ đọc lại thêm một lần. Thế là hết ngủ, ngủ làm sao khi thấy mình chẳng ra gì; lòng ruột tôi cứ nổi lên những lý lẽ biện hộ, dùng mọi điều kiện này, phương diện kia, hoàn cảnh nọ, chống chế tự bào chữa.
Tâm trí vẫn còn đang miên man với muôn nỗi khó chịu vì nhận ra tâm tưởng mình xưa nay nghĩ rằng ít nhất tốt lành đủ, nhưng những sự tốt lành chỉ được tự nhận định theo nhãn quan hữu vi thế tục mà quên rằng nơi phương diện tâm thức rất ít khi được đặt vấn đề cho thái độ, lối sống. Chính nơi trạng thái tâm hồn này, lời thú nhận Phao lô nơi thư gửi tín hữu Rôma trở về nơi tâm trí, “Vì chúng ta biết rằng: Lề luật hẳn là thần thiêng, còn tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội. Điều tôi muốn làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi ghét. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn, tức là tôi đồng ý với lề luật” (Rm. 7:14-16).
Chuông đồng hồ báo thức khiến tôi giật nẩy người. Tôi chỉ mới lên giường được một lúc mà, thế là bốn tiếng đồng hồ, tâm hồn mông lung nên thời gian qua nhanh như chớp mắt; tôi phải dậy, chuẳn bị dâng lễ lúc bẩy giờ sáng. Mình không chấp nhận thì cũng là mình, tôi thầm nghĩ. Chính mình nhận định, có ai xét xử mình đâu, bào chữa nào ích chi; nếu mình không chấp nhận coi chừng chỉ tạo nên tâm trạng tự kết án. Người ta nói gì về mình thì còn có thể bào chữa, nếu mình tự kết án thì không thể nào giải quyết. Trong khi bước qua phòng tắm, tôi thầm nghĩ. Mình là thế, thực sự mình là thế. Vừa nghĩ đến chấp nh?n sự thể thực nơi mình, tôi lại thầm nhủ, thánh Phao lô can đảm nói lên sự thể đối nghịch giữa tâm ý và hành động không nhận biết, tôi không dám chấp nhận chính mình thì quá là hèn. Lời tự thuật nơi câu chuyện thực hiện phương pháp tự nhận biết mình nói đúng tâm trạng tôi.
Tuy nhiên, biết lòng mình, tâm tính mình, lầm lỗi, tốt lành mới chỉ là phần nhỏ, vậy tâm tính mình, lòng mình phát sinh từ đâu; linh hồn mình là gì, thế nào; làm sao chứng minh? Mọi người thực sự nhận thấy, con mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, bộ óc suy nghĩ; các nhà khoa học cũng nói thế. Nhưng, tôi tự đặt vấn đề; vào thời đại này đã có những chiếc xe tự lái, mà nếu nó không có bộ AI (Artificial Intelligence) phỏng nó có tự lái được không. Hơn nữa, bộ óc thuộc về vật chất, và vật chất có phát sinh tư tưởng được không? Nếu vật chất có thể phát sinh tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, thì coi chừng lúc nào đó mình đang ngủ; căn phòng sẽ đẩy mình ra ngoài. Suy tới, suy lui, suy nghĩ thế nào để minh chứng được mình có linh hồn, và linh hồn mình thế nào; nói cho đúng, chưa bao giờ tôi nhìn thấy linh hồn của tôi. Nó hình dáng ra sao, màu mè, hoạt động của linh hồn là gì, phương cách nào, nhận thức chi để biết linh hồn mình; mấy câu hỏi vớ vẩn này làm phiền tâm trí tôi không biết bao nhiêu ngày tháng.
TÌM Ở ĐÂU; GÕ CHỐN NÀO
Nhiều khi tôi bực với chính mình vì đầu óc không chịu nghỉ yên; những câu hỏi vớ vẩn, cắc cớ, chẳng ra gì, không liên hệ chút nào tới cuộc sống hay nhiệm vụ, cứ liên tu bất tận nổi lên trong óc mà tôi lại cứ thích suy nghĩ tìm câu giải đáp sao cho hợp lý hợp tình, ít nhất sao cho có được những câu trả lời phải mang ý nghĩa hài hòa với chính tôi. Cũng bởi cái đầu thích suy nghĩ lung tung, gặp bất cứ chuyện gì cũng đặt vấn đề để rồi tự đưa ra câu giải đáp, giả sử mình nơi trường hợp, vị thế ấy, mình sẽ giải quyết hay thực hiện cách nào, làm sao. Chẳng hạn, chỉ trong một năm, tôi kê lại bàn viết, xoay giường ngủ, sắp xếp đồ dùng sao cho thuận lợi mỗi khi cần sử dụng, hay lên giường xuống giường khi đi ngủ, khi thức dậy v.v
tùy thuộc thời gian, ý thích, chẳng biết mấy lần.
Vào nhà ai, hoặc vô tiệm hàng xén, mới chợt nhìn thấy cách thức người ta kê bàn, sắp ghế hoặc những kiểu cách xếp hàng quà theo thứ tự, trong đầu tôi, cứ tự nhiên như ruồi, thiết lập phương trình, nếu phải là tôi, tôi sẽ sắp xếp chúng như thế này, thế kia sao cho tiện lối ra vào, tới lui, hoặc nơi tiệm thì thứ nào cần xếp gần loại nào cho khách hàng dễ nhận biết mà tìm kiếm, chọn lựa. Nơi nhà thờ, dẫu chẳng biết gì về nghệ thuật, nhưng những dự án, màu sắc, hình ảnh cần nên đặt để ra sao cho thuận mắt; giáo dân đi lên đi xuống theo lối nào tiện lợi hơn và nhanh hơn. Những nhận xét thực dụng này thường thì chỉ thoáng qua nhưng lắm lúc cũng khiến ý nghĩ chìm vô đôi phút; đôi khi tôi phải tự hỏi, phỏng con người tôi có niềm đam mê nào thúc đẩy khiến mình chăm chú tâm ý vào những điều vớ vẩn như thế.
Những hình ảnh, cơ cấu hiện thực khơi dậy giải đáp nhất thời đến rồi đi kể như không ảnh hưởng gì tới cá tính thích quan sát và đam mê suy nghĩ nơi tôi. Ngược lại, những vấn đề, những câu nói bất thường, lắm khi đầy ngang ngược, mới nặng nề áp lực nơi tâm trí. Đọc nơi sách vở, thường thường trong đầu tôi cứ nổi lên những câu hỏi ngược lại kèm theo điều kiện nào đó hầu tìm ra lý lẽ hay nguyên nhân có thể giải thích tại sao tác giả hay soạn giả đặt vấn đề hoặc biện giải như thế. Tôi không chống đối, không đặt vấn đề nhận thức hoặc quan niệm của tác giả hay soạn giả đúng, sai, phải, trái, mà cố suy nghĩ sao cho có thể chấp nhận biện chứng, hoặc nhận định của mình hợp lý, hợp tình với tác giả hầu cảm nhận được tâm ý muốn đề bạt. Đâu phải phi lý mà tác giả tốn thời giờ công sức suy nghĩ viết ra, rồi tiền bạc in ấn, lại đem những điều chẳng ra gì trình bày. Ít nhất, theo tôi nghĩ, tác giả đã dư khả năng suy tư, năng lực và tài lực thực hiện công sức, đam mê, nhận thức của mình thành thành quả. Nhận định để hấp thụ, học hỏi nơi sách vở là điều nên và cần thiết cho kiến thức để có nhãn quan rộng mở hơn, nhất là thăng tiến nhận thức, ít nhất tâm hồn tôi trở nên điềm đạm hơn khi phải đối diện với những sự việc chẳng ngờ.
Câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” ngay nơi trang đầu của cuốn Lão Học Tinh Hoa do cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần biên soạn đã luẩn quẩn, tới lui làm phiền hà tâm trí tôi chẳng biết bao nhiêu ngày tháng; nói cho đúng, cả mười năm trời mà vẫn chưa buông tha. Đã nhiều lần tôi tự nhủ thôi quăng quách nó đi, nghĩ chi cho mệt, cho phiền tâm tư, nhưng hình như những gì mình càng cố quên thì lại chỉ càng nhớ thêm; nó cứ như bùa mê thuốc lú ám ảnh chẳng khác gì ma đùa, quỷ trêu. Chưa hết, câu, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng,” nơi phần Huệ Thi của cuốn Trang Tử Nam Hoa Kinh do Ngô Tất Tố biên soạn, cũng hùa theo cho đủ cặp âm dương, nếu nói theo lối nhìn Đông Phương; cả hai hồ hởi thách đố tâm trí tôi quay cuồng giải mã.
Thích đọc, đam mê suy tư, khiến đầu tôi cứ như nửa mê, nửa tỉnh, và rồi bởi tâm trí liên miên theo đuổi những câu nói bất thường hầu kiếm tìm nhận thức sao cho hợp tình, hợp lý đã khiến tôi triền miên mất ngủ. Ngủ sao được khi tâm trí cứ mông lung suy cách này, tìm lý lẽ kia sao cho thuận lý hoặc moi ra cho được thâm ý của những câu chẳng những ngang như cua lại quá nghịch thường. Nói sao thì nói, bảo rằng “Lửa thì không nóng” không ngang, không nghịch thường thì khùng hay điên cũng chẳng khác gì. Tuy nhiên, đâu phải phi lý mà nó được in ra; đâu phải Huệ Thi khùng mà nói tào lao thiên tướng, và cũng đâu phải Ngô Tất Tố điên đến nỗi không biết mình biên soạn những gì. Nơi cuốn Đạo của Người Quân Tử, cụ Nguyễn Hiến Lê, một học giả nổi tiếng, sành sỏi ba thứ ngôn ngữ, Việt, Pháp, Hán, cụ chỉ chép lại nửa câu, “Lửa thì không nóng” đoạn ghi chú, “Không ai hiểu câu này nói gì.” Một học giả nổi tiếng đã chấp nhận bó tay mà cái đầu tôi lại cứ miên man húc vô; có lẽ tôi khùng hơn người khùng, điên hơn kẻ điên. Tôi không dám so sánh về tri thức với bất cứ vị nào, nhưng cũng không thể và không biết cách nào để con ngựa chứng nơi tâm trí ngừng nghĩ suy tư hầu cho có được chút an định tâm tư, ngủ ngon ít nhất là vài đêm. Không hiểu ai có thể cảm nhận được tâm thần, thể xác mệt mỏi vì luôn luôn nơi trạng thái buồn ngủ đến độ nào; bởi tâm trí cứ như con ngựa chứng hoang dại không cương theo đuổi giãi mã những câu nói viễn vông vô bổ. Riêng tôi, cứ mỗi tối thứ sáu, sau khi soạn giảng cho lễ cuối tuần, đành tắt phone, tắt đồng hồ báo thức, tắt hết mọi sự để tự thưởng cho mình giấc ngủ muốn đến khi nào cũng được vào sáng thứ bẩy; do ngày cuối tuần không có chương trình phụng vụ vào buổi sáng. Món quà tôi trân trọng tặng cho tôi chỉ có thế.
Dẫu đầu óc cứ như bị nhấn chìm trong cảnh dầu sôi, lửa bỏng; vì mấy câu nói vớ vẩn, nhưng nào tôi dám nói ra, nói ra lỡ thiên hạ tưởng mình khùng, đem tâu lên giám mục thì lại càng phiền hơn. Nào có lạ gì, bất cứ chi chưa được quen tai nghe thấy đều tự tạo nơi tâm tư con người phản ứng ngược; tôi chẳng dại gì tự bày ra hố thẳm cho mình rơi xuống. Hơn nữa, thích đọc sách mà lại những loại sách chứa đựng đầy những câu nói cắc cớ, nghịch thường, khiêu khích tâm trí nhảy nhói hoạt động, chẳng biết bao câu nói ngang ngửa, táo bạo thi đua thách đố tâm trí, kiếm cách bày binh bố trận giải mã. Càng thích đọc, càng bị bế tắc nơi suy tư, và những thách đố càng ngày càng chồng chất. Chẳng hạn nơi cuốn Cái Cười của Thánh Nhân do cụ Nguyễn Duy Cần biên soạn, phần đầu bao gồm những câu truyện trời mây trăng nước, đọc vô khiến chiếc đầu quay mòng mòng, mông lung, mờ mờ thách đố suy tư. Nơi phần thứ ba, phần cuối được cụ mệnh danh, “Tư Tưởng U Mặc” ghi chép đầy những câu nói nghịch thường, thâm trầm của những danh nhân Tây Phương; đọc vô, câu nào câu nấy cứ như vác gậy chọc vào lỗ tai khiến tôi cứ muốn nhảy quay lên. Và rồi sao, tất cả chúng quyện lại chẳng khác gì tạo nên một đám mây khổng lồ u tối luôn vần vũ điệu múa hắc ám bao phủ và ép buộc tâm trí tôi nhào lộn không phương hướng, chìm đắm theo. U mặc, thâm trầm đâu không biết, nhưng tôi đang lụt vào chiến trận u tối không đường tránh thoát.
Mới chỉ những câu nói khơi khơi đã khiến lòng trí tôi mơ mơ tỉnh tỉnh, chưa biết đâu mà mò; đàng này, khúc mắc minh chứng linh hồn nơi mình lại càng tạo nên áp lực nặng nề nơi tâm tư. Hay đâu không biết, giỏi dang cỡ nào thì lấy gì để huênh hoang, linh hồn của mình, nơi chính mình, tôi tin thật như thế, tôi tự chấp nhận, và đã chưa bao giờ nghi ngờ về sự thể tôi có linh hồn như bao người từ ngàn xưa tới giờ chấp nhận và tin tưởng hay cho rằng như vậy. Chỉ đơn giản chấp nhận rằng mình có linh hồn, nhưng khi đặt vấn đề tìm hiểu và minh chứng cho rõ cái linh hồn của mình ra sao lại kiến tạo cả đám khúc mắc nối đuôi thách đố nhận thức sự thể hầu có thể dùng nhận thức và lý luận để minh chứng.
Câu hỏi đơn sơ nhưng quỷ quái, “Tôi là ai” không ngờ đẩy tôi vào ngõ bí, bí cứng! Hèn chi không thấy hoặc chưa thấy tác giả nào viết sách trình luận nhận thức hầu giãi bày thực thể con người. Tuy chỉ bao gồm ba chữ, mà mới một nét nhỏ của nó, cái linh hồn nơi con người đã khiến biết bao nhà thông thái, khoa học, danh nhân, vĩ nhân, đành im lặng vô phương bày tỏ sự cả sáng. Thiển nghĩ, đâu phải cứ cảm thấy, cứ chấp nhận, cứ tin tưởng, cho rằng mình có linh hồn thì mình có linh hồn. Cứ cho rằng mình có linh hồn mà không biết linh hồn mình ra sao, thế nào, đóng vai trò gì nơi cuộc đời một người, thì cũng chẳng khác gì cứ cho rằng mình giầu có, tiền rừng bạc bể trong khi móc rách cả túi vẫn chẳng thấy gì. Mơ tưởng, hay tưởng tượng, ai không thực hiện được, nhưng có linh hồn mà không biết, không liên lạc được với nó, không biết nó ra sao thì rõ ràng minh chứng mình cũng chỉ giống như con vật; vì con vật đâu tự biết nó có linh hồn, giác hồn hay thứ gì hồn cũng như mình mà thôi.
PHƯƠNG TIỆN, CƠ HỘI
Tiếng phone reo bất thường lúc 6 giờ vào một buổi tối, mời tôi đi xức dầu thánh cho một bệnh nhân Công Giáo người Mỹ nơi nhà thương. Bác sĩ cho rằng, bệnh nhân không thể qua khỏi nội trong tám tiếng. Sáng hôm sau tôi được người nhà nhắn tin bệnh nhân đã qua đời. Có lẽ cái đầu của tôi cứ mơ mơ màng màng về những câu nói bất thường nên tôi không mát tay mấy; do không muốn ai chết khi tôi giữ nhiệm vụ chính xứ. Sáu năm coi xứ, mà chỉ chết có bốn người, mặc dầu người bệnh thì lúc nào cũng có và chắc chắn ai đã được xức dầu thì không chết trước cũng sẽ chết sau. Sau khi cà phê cà pháo, tôi tới nhà thương an ủi thân nhân đang chờ nhân viên an táng đưa xác về nhà quàn tẩm liệm. Dĩ nhiên, gặp thân nhân người qua đời thì lòng chùng xuống, ai chả thế, nên tôi không ăn nói kiểu tửng tửng bình thường. Sau khi nói mấy lời chào hỏi, tôi im lặng cúi đầu âm thầm cầu nguyện cho người quá cố. Bỗng câu Phúc Âm, “Ai có tai thì nghe” đã biết bao lần nghênh ngang thách đố tôi giải đoán trở về nơi tâm trí khiến tôi chú ý nhìn vào thân xác bệnh nhân đã qua đời được phủ kín bằng tấm vải trắng từ cổ đến hai bàn chân. Tôi bàng hoàng vì chợt nhận ra một sự thể rất thường tình mà cả đời chưa bao giờ để ý; đó là tai người chết không nghe được nữa; mắt người chết không nhìn được nữa; miệng người chết chẳng nói được chi; và có lẽ óc người chết cũng không thể nghĩ được gì. Một cảm giác như điện giật lan toả khắp thân tôi. Tôi thầm lặp lại câu Phúc Âm, “Ai có tai thì nghe,” và chợt cảm thấy vui mừng vì nhận ra được cái tai không thể tự nó nghe được, cũng như bộ óc, mắt, miệng không thể tự chúng hoạt động mà chúng chỉ là phương tiện cho cái gì đó nơi một người hoạt động; và khi cái gì đó thoát ra khỏi xác thì tất cả đều ngưng hoạt động. Người tôi run lên bởi nhận thức này, nhưng cố điềm tĩnh nói vài câu qua loa với thân nhân người quá cố trong khi lòng cảm thấy thơ thới với nhận thức mới nhưng thật bình thường, tự nhiên, về thực thể đã muôn ngàn đời hiện hữu mà không được để ý đến. Cái gì đó nhìn qua mắt, dùng miệng để nói, nghe qua tai, dùng bộ óc giãi bày suy tư là thế nào nơi tôi. Cảm ơn câu Phúc Âm ngang như cua, ngược như chọc vào lỗ tai, nhưng lại thâm trầm thách đố, và đã nên cơ hội thúc đẩy cũng như giúp tôi nhận thức được căn gốc, từ đó mò mẫm tìm hiểu về linh hồn của mình.
Chẳng nói cũng thừa biết, đêm đó tôi cũng không thể ngủ được bởi cứ mãi mê nhận định về một thực thể nơi tôi được gọi là linh hồn. Thực thể này dính chùm với sự thể con mắt nhìn trong giấc mơ, với thực chứng của người đàn bà được kể lại qua lần bị kích nghất, và cũng là thực chứng của một thành viên hội K of C sau khi được bác sĩ và y tá cứu sống, đã nổi đóa và lên tiếng trách móc tại sao lại cứu sống ông; do ông ta không muốn được cứu sống trong khi đang đối diện với sự thể hạnh phúc vô biên.
CON MẮT NHÌN TRONG GIẤC MƠ
Sau ngày ba mươi tháng tư năm 1975, tôi bị kẹt lại nên cùng một người bạn đến chung sống với cỡ bốn mươi gia đình nơi vùng kinh tế mới Tân Hữu, nằm trên con lộ nối từ Dầu Giây lên miền Võ Đắc, Võ Xu. Tôi thường vác rựa theo nhóm người vô rừng chặt những bộ sườn nhà đơn sơ, làm nhà kinh tế mới, để bán cho công ty nào đó. Một hôm, theo đường xe be tới một khúc quanh, tôi giật mình vì chợt cảm thấy mình đã ghé qua đây lần nào đó khi nhìn thấy một khúc gỗ lớn cỡ hơn vòng ôm, mục một phần, đã trở thành màu xám do ảnh hưởng mưa nắng đã lâu ngày. Nơi phần giữa ngửa lên trên, gỗ bị mục nhiều hơn các phần còn lại, một bụi cỏ cỡ hai bàn tay, lá dài buông thõng theo chiều ngang khúc gỗ, giơ vài cọng đã rụng hết cánh bông. Tôi tự hỏi trong ngỡ ngàng, sao tôi có thể đã qua đây lúc nào vì, cho đến ngày ấy, cả đời tôi hoặc tới trường lớp, hoặc làm rẫy với gia đình nơi miền quê xa cách với miền đèo heo gió hú này. Và tôi chợt nhận ra đã thấy cảnh này trong một giấc mơ không hiểu đã năm hoặc ba năm trước.
Sở dĩ tôi nhắc đến khúc quanh đường be, khúc cây mục, và khóm cỏ vì những hình ảnh này đã in vào tâm trí tôi từ một giấc mơ. Mãi sau này, chẳng biết bao nhiêu năm, khi đọc về sự thoát hồn của những vị sư Tây Tạng v.v, tôi mới để ý nhận ra nơi mình có con mắt nhìn trong giấc mơ. Con mắt này có thể nhìn thấy sự việc trong quá khứ, và chẳng những thế, nó cũng có thể nhìn thấy sự việc nào đó có thể sẽ gặp trong tương lai. Con mắt này hiện diện nơi đâu trong tôi; nếu trong tâm trí sao tôi không thể nghiệm chứng; nếu nơi nào đó trong cơ thể thì lại càng phi lý hơn.
Sau này, vô tình xem tivi nơi chương trình Discovery, có mục khoa học và diễn giải viên đưa lên hình bộ óc với hình ảnh những giây thần kinh, những mạch máu li ty hiện rõ. Diễn giải viên giãi thích rằng, khi máu huyết theo các đường kinh mạch li ty chuyền vô bộ óc, nơi hành trình đó kích thích bộ óc phát sinh những sáng kiến. Một ý nghĩ kỳ cục đến nơi tâm trí tôi, bộ óc thuộc về vật chất sao có thể tự phát ra sáng kiến thuộc về tư tưởng. Tôi chợt có ý nghĩ ngộ nghĩnh, thế thì những chuyện ma nơi nhà nào đó là thành quả của sáng kiến phát sinh từ bàn, ghế, tủ, giường chiếu, hay tường nhà. Khoa học chỉ chung về những thực nghiệm, thực chứng, thế mà dám tuyên bố não bộ phát sinh sáng kiến do máu được chuyển tới kích thích.
CHỨNG NHÂN THỰC CHỨNG LINH HỒN
Một hôm vào khoảng 5 giờ chiều, người kéo violin cho ca đoàn hát nơi nhà thờ gọi cho tôi, hỏi đã ăn uống gì chưa, và tôi trả lời chưa; bà mời tôi tới nhà bà dùng cơm tối. Tôi nhận lời, lái xe tới. Sau khi ăn uống độ 20 phút, chồng của bà kiếu từ vì phải đưa hai đứa con trai đi thöïc taäp chôi “soft ball.” Sau đó, nói chuyện qua lại, bà ta lên tiếng rằng bà bị mặc cảm không có được nhận định vị thế (identity) rõ ràng của mình. Tôi hỏi tại sao thì bà trả lời rằng bà theo Methodist, lấy chồng Công Giáo, đi nhà thờ và kéo violin cho ca đoàn hát nên bà không biết mình thuộc phe phái nào và nên được gọi là gì. Tôi trả lời ngang ngang ngửa ngửa, thì bà là Kitô hữu. Bà nói, Kitô hữu thì đúng nhưng qua kinh nghiệm cuộc đời, tại sao bà không thấy các linh mục Công Giáo hoặc mục sư Methodist nhắc nhở gì tới sự thể đã xảy đến nơi cuộc đời của bà. Tôi hỏi sự thể gì; bà kể lại, đã có lần bà bị đứng tim, được đưa vào phòng cấp cứu và lúc đó bà thấy mình lơ lửng nơi trần nhà, nhìn thấy bác sĩ và y tá dùng dụng cụ điện tử để kích thích tim bà đập lại. Đồng thời bà cũng thấy rõ ràng những người nơi gia đình chồng đứng chung quanh phoøng caáp cöùu doïc theo nhöõng haønh lang, kẻ lần hạt, người cầu nguyện cho bà. Trong lúc ấy, bà cũng cảm nhận được những ý nghĩ, tình cảm của từng người quanh phòng cấp cứu; thế sao không thấy ai nói tới sự kiện này. Tôi trả lời rằng bác sĩ Melvin Morse có viết cuốn sách Transformed by the Light từ công trình nghiên cứu với 400 người đã qua trường hợp kích ngất được cứu sống, lại nói về những sự thể xảy đến và những sự thay đổi tâm tính hoặc phát triển khả năng nào đó nơi một số người (Transformed by the Light; Melvin Morse, M.D.; Ballantine Books; New York; 1994; tr. 163). Tôi cũng gặp một người Mỹ rơi vào trường hợp kích ngất và được cứu sống. Ông ta kể lại rằng ông ta đã nhìn thấy nguồn sáng lạ kỳ, tuyệt vời hạnh phúc. Ông gặp được ông nội đã chết cách đó 27 năm, và bố của ông ta đã chết 9 năm. Ông ta cảm thấy rất bực mình khi được cứu sống vì đã phá mất niềm hạnh phúc tuyệt vời của mình. Ngày nay, ông ta sống rất cởi mở, rộng lòng giúp đỡ mọi người, và không đặt vấn đề sống chết do biết rằng sau khi chết, ông sẽ gaëp được niềm hạnh phúc tuyệt vời hơn khi sống.
Qua kinh nghiệm bản thân thực chứng con mắt nhìn trong giấc mơ, trực tiếp nói chuyện với hai người thực chứng sự thể của linh hồn khi đối diện với trạng thái thân thể kích ngất, và suy nghĩ về thực thể linh hồn nơi tôi; một điều rõ ràng và đó là tất cả mọi ý nghĩ, hành động, lời ăn tiếng nói, ước mơ, những phản ứng trong cuộc đời đều phát xuất từ linh hồn, thực thể nơi mỗi người, thực thể có con mắt nhìn trong giấc mơ. Linh hồn một người dùng miệng để nói, dùng tai để nghe, dùng óc để suy nghĩ, và dùng đôi mắt để nhìn. Nói như thế có nghĩa, gọi là tôi nói nhưng sự thực phải là hồn tôi dùng miệng tôi để nói chứ miệng tôi không thể nói tự nó; vì khi linh hồn đã lìa khỏi xác thì mọi sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất đều bị ngưng lại. Linh hồn chẳng khác gì người lái xe và thân xác tôi giống như chiếc xe. Nói cách khác, mọi phần tử của thân xác tôi, ngay cả cuộc đời tôi chỉ là phương tiện cho hồn tôi hoạt động.
SỰ KẾT HỢP LINH HỒN VÀ THÂN XÁC
Nhận thực do chứng thực được linh hồn có con mắt nhìn trong giấc mơ, con mắt này không những có thể nhìn thấy những sự việc đã xảy đến trong quá khứ của giấc mơ mà còn có thể thấy trước sự việc sẽ xảy đến trong tương lai nếu ai đó may mắn có cơ hội như trong trường hợp tôi đã gặp. Tưởng rằng nhận thực được như thế đã đủ hài hòa cho tâm tư an định, nào ngờ khúc mắc mới lại nổi lên thách đố tâm trí. Sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác thì đã rõ ràng, linh hồn điều hành mọi sự, và thân xác cũng như cuộc đời một người chỉ giống như phương tiện; vậy sự kết hợp của linh hồn và thân xác thế nào? Hình thức linh hồn thế nào mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hay mơ thấy?
Lục lọi những sách vở mà tôi có được, chẳng khác gì nhà sư Hương Nham cố tìm câu trả lời cho câu hỏi của tổ Huy Sơn nhà Phật. Tôi không dám đang tay đốt hết những sách vở có được như nhà sư Hương Nham, nhưng lại mang nỗi ưu tư nặng nề áp đặt lên tâm trí. Hơi bực với chính mình vì tâm tư không chịu yên nghỉ suy tư, nhiều lần tôi bày chuyện để dồn tâm trí vào công việc nào đó chẳng hạn viết nhạc và hòa âm bản nhạc nơi computer, lại còn hát thu âm để “burn” CD; bởi tôi không thích giọng hát của mình nên muốn luyện giọng và cách phát âm cho dễ nghe. Nhưng nào tránh thoát được. Tay tôi dùng chuột có hình dáng con tôm, ngón tay trỏ lăn hòn bi nhựa to tướng điều khiển mũi tên nơi comp để chọn dấu nhạc, thế mà khúc mắc sự kết hợp giữa hồn và xác vẫn nhảy vô khuấy rối làm nhiều khi chia trí “click” sai vị trí nốt nhạc.
Cả tuần trước chủ nhật lễ kính Chúa Ba Ngôi, tôi lên VietCatholic.net lướt qua những bài giảng đã được viết sẵn về Chúa Ba Ngôi, nhưng đọc thì cứ đọc không thấy được điều gì tôi có thể chia sẻ về Chúa Ba Ngôi với giáo dân Mỹ. Cả ba bài Phúc Âm của 3 năm, A, B, C cũng như nơi Phúc Âm, không có câu nào nói lên một cách rõ ràng về Chúa Ba Ngôi như thế nào, ngoại trừ nơi kinh Tin Kính, Thiên Chúa Cha là Đấng tạo thành muôn vật vô hình cũng như hữu hình. Đức Giêsu là Con một của Chúa Cha và Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng ban sự sống. Ngày xưa khi còn non trẻ, tôi thường được nghe giảng trong ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi câu truyện huyền thoại. Thánh Agustinô trong khi đi bộ dọc bờ biển suy tưởng về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, ngài thấy một bé gái xinh xắn dùng vỏ hàu múc nước biển đổ vô lỗ còng. Thánh nhân thấy lạ dừng lại hỏi bé gái định làm gì thì bé gái trả lời rằng muốn tát cạn nước biển đổ vào lỗ còng. Thánh nhân nói làm như thế không thể được, thì bé gái lên tiếng nói rằng việc tát cạn nước biển vào lỗ còng cũng giống như việc thánh nhân suy tưởng về Thiên Chúa Ba Ngôi, đoạn biến mất.
Bí rồi, thôi thì đành nói mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một điều phải tin và đã là mầu nhiệm thì chúng ta phải tuyên xưng như thế không lý lẽ, không thể suy tư. Định nói như thế nhưng lòng tôi cảm thấy tự thẹn, xấu hổ với chính mình. Cái đầu quá quen với lý luận và đòi hỏi sự giải thích bất cứ quan điểm, nhận thức nào đều cần phải được hợp lý, hợp tình, và hài hòa với nhận thức. Chân lý cũng cần hợp lý nếu không sao đối đầu với phản biện vì phản biện là đường lối nhanh nhất biện minh cho chân lý, dẫu chân lý được giải thích hay trình bày dưới bất cứ hình thức nào. Thế nên, đành chấp nhận mình không thể giải lý, giải thích được, chỉ chấp nhận tuyên xưng như thế vì đó là mầu nhiệm.
Gần tám giờ sáng, nhạc dạo đang du dương nhẹ nhàng vang lên từ chiếc dương cầm, dân chúng đã đến gần chật nhà thờ, lễ trọng mà. Người giới thiệu chương trình lễ gặp tôi nói ông chuẩn bị lên chào mọi người và rao lịch trong khi tôi ruột rối như tơ vò không biết sẽ bắt đầu chia sẻ sau Phúc Âm như thế nào. Tôi tự nhủ, lời Chúa thì Chúa phải lo, tôi chỉ còn cách nhắm mắt đưa chân, dân Chúa chê thì tôi xin đi nơi khác. Nghĩ thì nghĩ như thế nhưng hình như tự ái vặt cứ như động lực thúc đẩy tôi phải kiếm cho ra giải thích như thế nào cho hợp lý hợp tình cho đỡ mất mặt. Thì có mặt đâu mà mất, tôi tự ngông nghênh trả lời, nhưng lòng cứ hồi hộp lo âu. Thế nên, tôi lại thầm thĩ cầu nguyện, đành lỳ lợm liều mạng thưa trong lòng, “Lạy Ngài, con bí rồi, đây là chuyện của Ngài, nếu Ngài muốn con muối mặt nói bừa thì cũng đành xin vâng.” Tôi cầu nguyện còn ngang hơn cua, đổ lỗi hết cái ngu muội của tôi cho Chúa.
Sau khi công bố bài Phúc Âm, tôi chầm chậm bước xuống tam cấp tiến tới trước bàn thờ lên tiếng,
- Tôi có câu hỏi đơn giản, quý vị nhận thấy sao trả lời như vậy. Câu hỏi đó là, một cộng với một bằng mấy? Cả nhà thờ im lặng, người người trố mắt ngạc nhiên tưởng chừng như tôi mát nặng vì câu hỏi quá thường, thường đến nỗi bất thường.
Chừng 30 giây không thấy ai trả lời, một bé gái nơi lớp giáo lý chuẩn bị rước lễ lần đầu giơ tay lên tiếng,
- Two. (Tôi dâng lễ tại nhà thờ người Mỹ).
- Em có tin chắc không? Tôi hỏi lớn. Mọi người lúc ấy nhẹ mỉm cười, gật gật đầu, nét mặt giãn ra, hết vẻ ngạc nhiên.
- Sure.
- Có lẽ tôi phải ghi danh vào lớp hai để học đếm vì tôi chưa biết một cộng một là mấy. Vậy, tôi chầm chậm nói rõ từng tiếng, một thân xác cộng với một linh hồn là mấy? Em bé gái lớp hai vừa mới trả lời lại giơ tay nói,
- One
- Em vừa nói một cộng một là hai, mà bây giờ lại nói là một. Quả thật, tôi cũng không biết chắc một cộng với một là mấy, hoặc là hai, hoặc là một. Tuy nhiên, nếu chỉ có linh hồn thì không ai biết. Và chỉ có thân xác thì chỉ có nước đem ra ngoài nghĩa trang hạ huyệt. Nhưng khi một linh hồn nhập thể vào một thân xác, lại sinh ra ước muốn, ước mơ, tham vọng, ý định, ý nghĩ, gọi chung là tâm trí. Như vậy, ít nhất một cộng với một phải là ba; ba là một và một là ba không thể phân chia, tách rời. Một trong ba tách rời thì tất cả tiêu tan. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi mỗi người vì mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa. Vấn đề còn lại là chúng ta có dám nhận thực mình là hình ảnh của Thiên Chúa không. Nói cách khác, mình có thực tâm nhận biết và tuyên xưng cũng như thực hiện cuộc sống, minh chứng Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình không. Thánh Thần Thiên Chúa dồn tôi vào góc tối suy tư khiến tâm trí lắm lúc xất bất xang bang.
NỔ RỒI RUN
Tôi không hiểu bản tính mình thích nổ bậy cho vui hay vì bị ảnh hưởng những câu nói ngược ngạo tạo thành thói quen lâu dần phát sinh cá tính để rồi khi đối diện bất cứ chuyện gì hay vấn đề nào đó, nơi tâm tư tôi nổi lên một đôi khía cạnh khác biệt, hay thử đặt câu hỏi ngược lại hầu có được nhận định minh xác. Tết dương lịch năm ấy, tôi không biết đi đâu nên bị chia giảng vào đúng ngày tết, ngày lễ kính Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao bài đọc thứ nhất lại được ủy ban phụng vụ của trường chọn bài nơi sách sáng thế ký đại ý có con rắn dụ dỗ bà Evà ăn trái cấm. Ai mà không biết bí tích Thanh Tẩy để phá trừ tội tổ tông; trong khi tôi thấy quả là phi lý, biện luận rằng cho dù bố tôi phạm luật đi tù thì cũng đâu dính dáng gì đến tôi. Bố tôi phạm luật làm sao đè đầu tôi, bắt gánh chịu. Thử đặt vấn đề ngược lại, nói rằng vì tổ tông phạm tội và truyền lại cho mọi người nên đức Giêsu phải đến, chịu chết để đền tội cho mọi người thì coi chừng lý luận biện chứng này trở thành động lực khuyến khích con người hoang đàng tiêu pha cuộc sống vì đã được bảo hiểm là cái chết của đức Giêsu. Biện chứng duy lý kiểu này coi chừng gây hậu quả phản tác dụng; nên tôi kiếm cách dùng suy luận tâm lý minh chứng tội tổ tông chính là trạng thái không dám chấp nhận sự thể chính mình theo nghĩa từ chương của bài đọc nơi sách Sáng Thế.
Đại khái, tôi trình bày mình không biết rõ ý định của bà Evà thế nào, hoặc là muốn quyền uy cả thể như Thiên Chúa, hoặc muốn nổi dậy đòi nam nữ bình quyền vì bị tạo dựng từ xương sườn ông Adong (đụng chạm bà sơ dạy về môn Con Người và Dục Tính hay đặt vấn đề bình quyền nam nữ), hoặc bà ấy muốn hiểu biết hết mọi sự, không hài lòng với giới hạn của mình nên ăn trái cấm hầu đạt được muôn ngàn ước mơ chồng chất đã từ bao năm qua. Nhưng sau khi ăn trái cấm, lúc bà tưởng đã đạt được mơ ước thì bà đã vội đổ lỗi cho con rắn. Con rắn lại chính là tham vọng nơi mỗi người. Sách Sáng Thế dùng bà Evà làm hình ảnh của mỗi người chúng ta. Chúng ta không biết mình là ai, có và thực hiện tham vọng nhưng không muốn nhận giá phải trả. Hết lễ, mấy chủng sinh giúp lễ cầm thánh giá, nến cao đi trước, tôi theo sau, tiếp đến cha giám thị, vừa ra khỏi nhà nguyện, ngài lẩm bẩm, “Bài đọc như thế mà dám suy luận như vậy.” Tôi nghe thấy mà lạnh người, nhưng không sao, cho đến nay, mọi sự vẫn êm xuôi.
CHIẾN TRẬN
Suy nghĩ tào lao thiên tướng, đủ mọi khía cạnh, và dùng lý luận ráp nối sao cho hợp lý, hợp tình có thể chấp nhận được, nhiều lúc cũng đạt tới kết quả chẳng ngờ. Sự suy nghĩ lệ thuộc nặng nề nơi nhận định căn bản, gốc điểm, làm nền tảng để đặt vấn đề. Mình có thực sự biết rõ ràng, chắc chắn, có thể rờ được căn điểm này không, để tiếp nối dùng nhận định liên kết với lý luận tiến dần tới kết quả là nhận thức sao cho hợp lý, hợp tình, và hài hòa với thực trạng tâm tưởng.
Diễn trình suy tư là thế và cần phải như vậy, nhưng nơi địa hạt tâm linh, nền tảng lại là nhận thức và cảm nghiệm dẫu cho đạt tới thực chứng thì lại phải đối diện với sự thể mà Lão học đã ngàn năm đề cập, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Biết nhưng không thể nói ra thì lấy gì chứng điều mình thực sự biết và điều nhận biết là chân lý. Đồng ý rằng, người đã ngộ, người đã thực chứng được chân lý, sự thật, cho dù muốn giải thích cũng chẳng thể nào trình bày, mà dẫu cố gắng giãi bày, chia sẻ, lại trở thành chẳng khác chi, “Kẻ nói không biết;” và thường sẽ bị rơi vào hoàn cảnh Phúc Âm đã căn dặn, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.”
Hành trình tìm kiếm Nước Thiên Chúa phải qua cửa ngõ kiếm tìm Thiên Chúa; mà “Thiên Chúa là thần khí” (Gioan 4:24), được đức Giêsu gọi là Cha, và đồng thời Ngài cũng minh xác, “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Gioan 6:65). Chẳng những thế Ngài còn đoan chắc, “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Gioan 14:7). Như vậy, muốn biết Thiên Chúa thế nào, muốn nhận thức được Thiên Chúa ra sao cần phải biết đức Giêsu, cần nhận thức đức Giêsu đã dạy bảo, đã khuyên dạy những gì, nghĩa là cần phải nhận thức được Phúc Âm nói gì nơi nhận thức tâm linh.
Đến khổ, tìm kiếm Nước Thiên Chúa thì phải tìm Thiên Chúa; tìm Thiên Chúa lại phải qua Phúc Âm; mà muốn tìm hiểu Phúc Âm lại phải đối diện với những phát biểu ngang như cua, còn ngang hơn cua là đàng khác. Lẽ đương nhiên, là người thì luôn lỗi lầm mà Phúc Âm lại dạy, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:29-30). Hỏa ngục thế nào thì tôi chưa biết và không muốn biết, nhưng nói đến móc mắt và chặt tay thì chẳng những tôi mà không ai áp dụng lời dạy quá tốt lành thánh thiện này. Nhưng chẳng lẽ không ai thực hành lời Phúc Âm theo nghĩa từ chương, thì Phúc Âm được viết cho vui, chẳng khác gì dọa ngáo ộp trẻ em? Lời Phúc Âm muốn nói chi, mấy năm thần học của tôi đối với Phúc Âm chẳng khác gì sư Hương Nham đọc kinh Phật.
Đâu phải chỉ móc mắt, chặt tay mà thôi là đủ để trở nên thánh thiện, còn chặt luôn cả mối dây thân bằng quyến thuộc, “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt. 10:37), trong khi lại trách móc các vị kinh sư và Pharisiêu, “Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” rồi, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” (Mc. 7:10-11), nghĩa là thế nào! Cũng là cha mẹ, lúc thì lời dạy thế này, khi lại nói thế khác. Tôi cảm thấy mình như con rối. Cha mẹ công ơn dưỡng dục, không ai thân cận bằng; Chúa thì xa vời. Một đàng là thần khí, một bên thân thuộc hữu vi; các vị kinh sư và Pharisiêu đặt nặng ưu tiên cho Chúa đến nỗi quên cả cha mẹ thì bị kết án; người yêu kính cha mẹ thì lại bị ghen tương. Phúc Âm muốn nói gì đây, hay muốn biến tôi thành con rối, con rối rao giảng Phúc Âm. Mà rao giảng thế nào cho đẹp lòng Chúa lại thuận tình người. Phỏng điều mơ ước ngày xưa nay lại trở thành gánh nặng chẳng ngờ. Hừ! Bài học nào không phải trả giá, niềm ước nào lãnh nhận nhưng không? Tôi phải giải quyết ra sao, phương cách nào giải tỏa những điều đối nghịch. Tìm ở đâu, kiếm chốn nào?
Có ở trong chăn mới biết chăn có rận, người xưa nói thế. Được lãnh nhận chức linh mục nhưng linh thì chẳng thấy đâu mà mục có lẽ cũng sắp rồi. Mới mò ra được cái linh hồn chẳng ai biết đấy là đâu tưởng rằng ngon lành lắm, nhưng chỉ mới chập chững kiếm tìm Thiên Chúa thì lại phải đối đầu với những câu Phúc Âm ngang ngược khiến tâm tư cứ rối lên như bố vợ bị đấm. Dĩ nhiên là phải tìm nhưng, cái tiếng nhưng quái quỷ này khiến đầu óc tôi quay quay. Trường thần học chỉ dạy tôi những bí tích, nghi thức nọ, phép tắc kia chứ đâu có dạy một chút nào về phương cách moi móc, suy nghĩ lung tung để giải quyết hoặc tạo an định tâm trí, biến lời ngang ngược nơi Phúc Âm thành niềm an vui tâm hồn. Chẳng những thế còn đe dọa, “Ta sai các con như chiên vào giữa đàn sói; hãy khôn ngoan như con rắn và chân thực như chim cu.” Khôn ngoan như con rắn là khôn thế nào; chân thực như chim cu thì cùng lắm bị mắc bẫy mụ nào đó; thế là khỏi phải đối đầu với những câu nói nghịch thường nơi Phúc Âm! Giời, tôi thầm nghĩ, đành chấp nhận kiếm sách đọc; sách nào cũng được miễn giải thích những câu ngang ngược, nghịch thường xem thần khí có núp bóng nơi đó chăng.
Nơi tuần phòng của các linh mục miền Đông Nam Hoa Kỳ năm ấy, thấy có bán bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do 14 vị học giả Thánh Kinh được in tại Sài Gòn, V. N. vào năm 1994, tôi mua một cuốn với ý định thử xem văn từ nơi bản dịch mới này khi so sánh với các bản dịch Kinh Thánh khác, may ra có thêm được nhận thức mới nào chăng. Văn từ nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước có lẽ do bị ảnh hưởng bởi thời thế nên xuống cấp, nếu so với bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn, dòng Chúa Cứu Thế. Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn trang trọng hơn nơi cách dùng văn từ. Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước coi bộ nâng cao vị thế người đối diện với bậc thày là Chúa Giêsu, nhưng văn từ thuộc dạng thường dùng của giới bình dân. Tuy nhiên, khi đọc tới Phúc Âm Marcô, trang 184, gặp câu, “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thìên Chúa. Người nói: “Thời buổi đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Nơi phần ghi chú được viết, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.”
Không biết thần thánh nào viết ghi chú này, nó giúp tâm trí tôi có được lối nhìn rộng mở hơn. Xưa nay, tôi chỉ có thể nghĩ tới những gì được viết nơi Phúc Âm thường được gọi là Lời Chúa, Tin Mừng, Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Sự Thật, Chân Lý, Lời Khôn Ngoan. Đôi lần viết bài, tôi gặp nơi sách vở tiếng Mỹ dùng ngôn từ “Message,” chỉ nghĩ, tùy theo văn hóa mà tác giả dùng như thế, đại khái trùng nghĩa với ngôn từ “Tin Mừng;” chẳng khác chi khi mình nhắc tới tên Giêsu, mình cần phải thêm ngôn từ “Chúa” hay “Đức,” trong khi người Mỹ chỉ dùng tên Giêsu, không thêm bớt gì, nên khi gặp chữ “Message” chưa bao giờ tôi dám nghĩ tới có thể dùng ngôn từ “Thông điệp.” Dẫu không thích lối dịch văn chương bản dịch Kinh Thánh Tân Ước. Tôi cảm thấy rất hài lòng, ít nhất rộng thêm nhận thức, và lòng tràn ngập tâm tình cảm ơn học giả đã dùng ngôn từ này, “Thông điệp.”
Tôi vô cùng sửng sốt, thực tâm, tôi coi thường văn chương bản dịch của cuốn này; có lẽ tại tôi đã quá quen với những giòng văn chương miền Nam Việt Nam do bởi thích đọc, thích suy nghĩ lung tung. Ngạc nhiên bởi tôi có sáu cuốn bản dịch tiếng Mỹ, có cuốn được in đã lâu, bìa bằng da thuộc, thêm bản dịch Kinh Thánh của Lm Nguyễn Thế Thuấn, một cuốn bài đọc các ngày thường và chủ nhật. Thường khi soạn giảng, tôi so sánh ngôn từ các bản dịch của đoạn Phúc Âm hầu có được nhận định ý nghĩa chính xác hơn, tránh bị lệ thuộc ý nghĩa từ chương của chỉ một bản dịch. Không một bản dịch nào có ghi chú về nguyên ngữ và những ý nghĩa gốc của ngôn từ “Ăn năn hối cải.”
Hơn nữa, đã từ lâu, nhất là những năm tháng, những ngày mới gia nhập chủng viện, chúng tôi phải giữ luật xưng tội hàng tuần. Nơi chủng viện, vì là tu muộn, chúng tôi phải học ba sinh ngữ, Latin, Anh, và Pháp, rồi tu đức; cuối tuần tham gia sinh hoạt Hướng Đạo thì còn thời giờ đâu để phá phách, nghịch ngội. Thực ra, phải xưng tội một tuần một lần lại trở thành tội lớn lao nhất vì phải bày lắm chuyện cố ý phạm để có tội mà xưng. Thế nên, vấn đề ăn năn hối cải đối với tôi là cả một sự ruồi bu nếu hiểu theo ý nghĩa từ chương. Tối ngày lo gồng mình học sinh ngữ, văn phạm Latin đụng chạm văn phạm Pháp ngữ và Anh ngữ, nhất là đối với đầu óc suy luận, suy lý như tôi lại không giỏi nhớ thì lấy gì để ăn năn, lấy gì để hối cải. Chẳng lẽ hối cải vì phải học ba sinh ngữ cùng lúc nên bỏ không học; bỏ không học sẽ bị đuổi.
Tôi chợt có ý nghĩ, sao không thử lấy một nghĩa gốc của chữ “Metanoia,” chẳng hạn, “Suy nghĩ khác trước” ráp vào câu rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu xem sao. Ý nghĩ này khiến tôi lại càng sửng sốt hơn, “Thời buổi đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy suy nghĩ khác trước và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Tôi lại cũng chợt nhận ra, ngôn từ Tin Mừng chỉ được dùng về sau này khi Phúc Âm được viết. Do đó, có lẽ câu này đã được Chúa Giêsu phát biểu, “Thời buổi đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy suy nghĩ khác trước, hãy thay đổi chiều hướng suy tư, và tin vào lời Ta nói.” Tôi chợt cảm thấy nếu chấp nhận với nghĩa gốc của động từ ăn năn hối cải là suy nghĩ khác trước thì tất cả những gì tôi đã được học về Kinh Thánh đều cần được đặt lại vấn đề.
Quen thói suy nghĩ lung tung tất nhiên phải đối diện với lắm điều khác thường. Suy nghĩ khác trước là suy nghĩ thế nào; khác ra sao. Thay đổi chiều hướng suy tư thì thay đổi theo kiểu cách nào, về phương diện chi. Tân Ước có nơi nào đặt vấn đề hoặc khuyên nhủ thuận với ý nghĩa gốc của động từ Hy Lạp “Metanoia” không? Thánh Phao lô rao giảng về đức Giêsu trước khi Phúc Âm được viết; ngài đã giảng dạy gì. Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, đã tám năm nơi chức vụ linh mục, lúc này tôi mới để ý câu thánh Phao lô nhắc nhở dân Chúa nơi thư Côlôsê, “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8), nghĩa là thế nào; tôi cảm thấy khó hiểu. “Mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch” liên hệ thế nào tới việc rao giảng của đức Giêsu, trong khi phải suy nghĩ khác trước. Thêm vào đó, nơi thư thứ nhất gửi Thessalonikê lại khuyến khích, “Đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy nghiệm xét mọi sự. Điều gì lành thì giữ lấy; hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào” (1Thes. 5:19-21). “Đừng dập tắt Thần Khí” mang nghĩa chi, sao có thể biết là thần khí hay quỷ khí, ma khí hoặc nhân khí.””Chớ khinh thường ơn nói tiên tri” là thế nào. Ơn tiên tri là nhiệm vụ rao giảng lời Chúa thì những ai mới có thể coi thường? “Hãy nghiệm xét mọi sự,” nghiệm xét, nghiệm chứng có gì khác nhau, cần những điều kiện gì để nghiệm xét. Suy nghĩ lung tung có liên hệ gì với nghiệm xét không. Phải nghiệm xét cách nào, theo chiều hướng nào; có phương pháp nào rõ ràng để nghiệm xét không.
“Hãy coi chừng đừng để ai gài bẫy anh em,” làm sao có thể biết, thế nào hoặc điều gì là bẫy để coi chừng. Đọc vài cuốn sách viết về Phật học, tôi nhớ có tác giả nào nhắc đến nơi Lâm Tế Lục có câu, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Phỏng lời dạy, “Nghiệm xét mọi sự” ám chỉ về trạng thái tâm tưởng này khi suy tư, hoặc đặt vấn đề nhận thức về một chuyện gì. Thánh Phao lô bị đức Giêsu bắt cóc đang khi trên đường đi Damascus tìm kiến những ai tin theo đức Giêsu. Sự kiện ngã ngựa và gặp gỡ đức Giêsu có thể nói theo ngôn từ đạo học Đông Phương là “Thực chứng.” Phỏng lời khuyên của ngài, “Hãy nghiệm xét mọi sự” có nghĩa hãy tự cảm nghiệm, nghiệm chứng, thực chứng? Tuy nhiên, suy luận là thế, nhưng làm sao để khởi đầu cho nghiệm xét lại là điểm then chốt, tôi phải kiếm cho ra. “Gặp Phật, giết Phật, gặp tổ, giết tổ,” mang nghĩa, trong khi định tâm thực hành thiền, Yoga, quán tưởng, không lệ thuộc bất cứ hình ảnh, viễn ảnh, viễn tượng nào. “Gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ;” đa số tác giả nơi đạo học Đông Phương nhấn mạnh về sự thể không để tâm trí lúc suy tư, thiền, hay quán tưởng, lệ thuộc, hoặc chiều theo, tuân theo bất cứ phương pháp nào. Dẫu Yoga, Thiền, có rất nhiều phương cách thực dụng cho hành giả, nhưng đó chỉ là cho những kẻ sơ căn, mới chập chững ngồi thiền theo thế nọ, kiểu kia hầu giúp tâm trí hành giả dễ tiến tới định tâm. Có lẽ đây là nguyên nhân và cũng là lý do lục tổ Huệ Năng phát minh “Hành thiền.” Thêm vào đó, dù Thiền hay Zen, quán tưởng hoặc Yoga, cho tới hành thiền, đều cần một điều kiện ắt có và đủ; đó là định tâm. Ngồi quán tưởng, hoặc thiền mà tâm trí mông lung, bất định như con ngựa hoang thì cũng vô ích. Thực ra, định tâm, để tâm ý chuyên nhất, dễ khiến hành giả chìm dần vào giấc ngủ; cho nên phương cách hành giả đội đèn chống ngủ gật cũng là một sáng kiến của tổ thiền nào đó.
Đọc tới, đọc lui, mò ngang, mò dọc, tôi vẫn không thể hiểu và phương cách nào có thể thực hành định tâm; vì tâm trí của tôi còn quá con ngựa hoang, lại thêm cá tính thích suy nghĩ lung tung. Nói rằng thích suy nghĩ lung tung chỉ là một lối diễn tả; tâm trí con người, ai cũng thế, luôn luôn dao động, biến chuyển, không ngưng nghỉ, có thể nói giao động còn nhanh hơn chớp mắt. Định tâm là để tâm trí định nơi một điểm, một vấn đề nào đó. Những sách vở tôi đọc, tác giả nào cũng nói về điều kiện tối ưu để nghiệm chứng, thực chứng, nơi hành thiền, tỏi thiền là định tâm, nhưng không tác giả nào giãi nghĩa hoặc nói ra phương cách, pháp cách nào có thể rờ đến định tâm. Và tôi đã phải tập nhìn chăm chú vào ngọn đèn hay một điểm nào đó để thực tập án định tâm trí. Rồi tập đếm mỗi khi thở ra trước khi chìm vào giấc ngủ. Ôi, cố gắng thử, ép mình theo những phương cách thực nghiệm thể xác hầu an định con ngựa chứng tâm trí còn khó hơn bất cứ suy tư nhận thức nào. Nếu muốn thử, trước khi ngủ, mỗi khi thở ra, trong tâm trí đếm một, hai, ba, để ý theo nhịp thở bình thường, và bạn sẽ thấy, chưa đếm tới 100 thì tâm trí bạn đã đang nghĩ tới điều quái quỷ nào đó. Hoặc nhìn vào bất cứ điểm bất động nào hay ngọn đèn nhỏ và coi chừng xem tâm trí mình có luôn luôn chú ý đến điểm đó hay ngọn đèn không. Ha ha, tưởng thì dễ, thực tập mới thấy chẳng dễ.
Muốn nghiệm xét, nghiệm chứng, cần phải định tâm. Cái danh hiệu đơn sơ này đem ra nghiệm xét coi bộ khó hơn nghiệm xét Phúc Âm (nói vậy chứ không phải vậy) cũng chỉ vì tâm trí con người luôn biến chuyển, dao động. Nguyên tắc tối thượng của hành thiền do lục tổ Huệ Năng của nhà Phật chỉ là “Kiến Tính thành Phật.” Kiến tính có nghĩa nhận ra thực thể chính mình. Muốn kiến tính thì phải hành thiền; muốn hành thiền phải biết định tâm; định tâm trong hành thiền. Quái đản, đã định lại còn hành mà định trong hành, hành trong khi định là thế nào? Phúc Âm không có dù một nét của chữ định. Thánh Phao lô chỉ hô lên “Nghiệm xét mọi sự” chứ không giải thích, giãi nghĩa nghiệm xét là thế nào, tâm trí phải ra sao nơi hành trình nghiệm xét. Thánh nhân chỉ phán, chỉ hô hào; mà tôi đã phải vượt rào bên Chúa nhảy qua bên nhà Phật, nhà Aán, nhà Lão, để mò mẫm thì lại kẹt chẳng biết làm sao để định tâm hầu thực hành nghiệm xét. Điểm tới tối thượng nơi nghiệm chứng của nhà Phật chỉ là “Kiến tính thành Phật” Chỉ mới kiến tính đã khiến rơi rụng muôn ngàn phật tử qua bao đời; người kiến tính có thể đếm chưa hết mười ngón tay. Tôi dám bạo phổi nói thế vì nơi sách vở nhà Phật mới chỉ nhắc tới ngũ tổ Hoàng Nhẫn, rồi lục tổ Huệ Năng; không thấy tác giả nào nói đến thất, bát, cửu, thập, hoặc tiếp theo tổ nào. Đàng này, thánh Phao lô hô lên nghiệm xét mọi sự thì phỏng hy vọng có bất cứ cửa ngõ nào cho bất cứ ai, phương chi tôi. Nản, có nên đầu hàng để vui sống qua ngày làm bạn cùng cây cỏ chăng. Nhưng như thế, sao hoàn thành nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm, rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Ôi, gắng theo cái nghiệp dĩ với tâm mù mờ, bất an thì rao giảng được gì; chẳng lẽ cuộc đời tôi được sinh ra và bị rơi vào trường hợp người xưa đã dè bỉu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, ngườì la con rùa.”Nhiệm vụ, trách nhiệm của tôi là rao giảng Tin Mừng mà muốn biết Tin Mừng là gì thì phải nghiệm xét Phúc Âm, trong khi không biết thế nào thực hành định tâm để rồi nghiệm xét thì biết gì mà rao giảng. Rao bậy, giảng bạ lại rơi và trường hợp tiên tri giả mà Phúc Âm đã lên án, thánh Phao lô gán cho danh hiệu “Đánh bã.” Nhiều khi tâm trí cứ quay cuồng kiếm cách thực nghiệm định tâm, tôi cảm thấy đức Giêsu có lẽ không cần tôi. Nếu Ngài cần tôi rao giảng Tin Mừng của Ngài sao lại không giúp tôi thức ngộ như Ngài đã giúp thánh Phao lô. Tại tôi muốn theo Ngài rao giảng Tin Mừng hay tại Ngài không cần tôi rao giảng. Ước mơ cao vời, thánh thiện ngày xưa, nay trở thành gánh nặng do ngu muội cũng chỉ vì không biết định tâm là gì. Tưởng rằng mình cũng thông minh chút chút, ai ngờ vẫn cứ mịt mù dốt nát, vẫn mang cái tội độc nhất Đạt Ma sư tổ nhà Phật gán cho danh hiệu “Vô minh.”
Chẳng những thánh Phao lô khuyên bảo, “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8 ), mà ngay cả Phúc Âm cũng nhắc nhở, “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em,” (Mt. 24:4). Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. (Mt. 24:11). Nơi Phúc Âm Marcô thì được viết, “Thật vậy, sẽ có những ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, Phần anh em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em!” (Mc.13:22-23) .
Ngôn sứ là người rao giảng lời Chúa, rao giảng Phúc Âm. Ngôn sứ giả là những ai rao giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, nghĩa đen của ngôn ngữ được viết. Không hiểu ẩn ý của những câu nơi Phúc Âm, dù ngang ngược. thực sự muốn nói gì, cách nào và thế nào có thể áp dụng nơi cuộc đời mỗi người, tất nhiên thuộc loại tiên tri giả, ngôn sứ giả. Tôi được huấn luyện và được lãnh nhận nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm mà chưa thể nghiệm xét, nghiệm chứng để áp dụng Phúc Âm nơi cuộc đời chính mình thì nói gì đến rao giảng cho ai.
Hồi tâm nhớ lại cách thức suy nghiệm câu “Ai có tai thì nghe” để nhận thức được thực thể linh hồn nơi mình và sự liên hệ giữa linh hồn, tâm trí, và thân xác, tôi thấy sự nhận thức này còn lệ thuộc thời điểm vô tình đối diện thân xác một người đã chết, liên hệ với sự thể khi đối diện sự kiện đã xảy ra trong một giấc mơ. Sự hồi tâm này nhắc tôi nhớ đến lời tác giả nào đó đã nói, “Nhận thức không thể cầu, chỉ có thể ngộ.” Tôi muốn thức ngộ Phúc Âm, mà sự thức ngộ Phúc Âm không thể cầu, không phải cứ cố gắng mà được. Tôi tự hỏi, mình có nên tiếp tục nhiệm vụ rao giảng được trao phó dưới mái che tôn giáo hay không? Nếu tự quyết định, mọi hậu quả sau này đều đổ lên đầu tôi, và tâm trí tôi còn có thể an bình khi phải đối diện với những sự việc thế tục không ai muốn gặp phải. Chúa muốn gì với tôi? Những tưởng rằng, được dạy dỗ, cố gắng học hành, tìm hiểu hầu chu toàn nhiệm vụ được chấp nhận, trao ban là hoàn thành trách nhiệm của một môn đồ. Ai ngờ, nhận thức thực thể gốc gác để thực thi nhiệm vụ thì đã không ai có thể giúp, không ai có thể dạy, chỉ có thể ngộ, chẳng thể nào cầu.
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho.” (Mt. 7:7-8; Mc. 11:8-9). Lời Phúc Âm như nhạo báng tôi. Chẳng những cầu nguyện, cầu xin, mà tôi còn vượt rào tìm hiểu, moi móc, thế mà vẫn bù trớt. Ôi, thánh Phao lô, nghiệm xét theo kiểu của ngài thế nào? Nghiệm ở đâu? Ngài buông ra cái bánh vẽ; ai có thể biến nó thành thật. Nghiệm xét thiếu định tâm thì sao mà nghiệm.
Tôi thường ghé qua tiệm phở của một đôi vợ chồng trẻ, chừng ba mươi mấy, bốn chục, uống cà phê. Hôm đó, cỡ ba giờ chiều, vừa mở cửa tiệm bước vô, đã nghe thấy hai vợ chồng hơi lớn tiếng cải vã; bàn ghế trống trơn không một người khách. Hai vợ chồng đang nói về cách ăn mặc của đứa con gái 14 tuổi. Vì đã quá quen, tôi đương nhiên trở thành quan tòa bất đắc dĩ, kẹt giữa hai quan điểm đối nghịch như nước với lửa. Chị vợ lên tiếng,
- Cha xem, con bé nó đầu tóc thì chỗ đỏ chỗ xanh như con mẹ lên bóng; quần thì chít ống hẹp khiến chân cẳng không khác hai chiếc đũa; áo lại rộng thùng thình chẳng khác gì con ma dại; mà nhà con còn cứ bênh nó.
- Thưa cha, nó đã 14 tuổi, lớn rồi, đi học thì cần phải hòa hợp với bạn bè, nếu không sẽ bị cô lập, mọi người tránh xa. Con hỏi cha, nếu bị cô lập, mọi người nhìn nó như kẻ lập dị, khác người, phỏng còn học hành gì được không? Tôi không biết nói sao, vì đưa ra nhận định ai đúng, ai sai lúc này, về sau cũng sẽ trở thành đối thủ của cả hai. Kinh nghiệm tôi học được từ người khác; đối với những gia đình có chuyện cơm không lành, canh không ngọt, không nên đứng vô bất cứ bên nào để đề nghị hay cho giải đáp, nếu không để ý, sau này không những mất bạn mà còn sẽ trở thành kẻ thù của họ. Thế nên, tôi đành chuyển hướng câu chuyện,
- Thế anh chị có yêu thương nhau không? Trong khi anh chồng pha cho tôi ly cà phê sữa đá.
- Cha nói sao, chị vợ lên tiếng, không yêu thương nhau mà sống với nhau đến ngày nay. Chị ta trả lời; radio đã trúng đài, tôi tiếp tục,
- Thế chị thương anh ấy như thế nào?
- Cha hỏi gì kỳ, thương thì biết là mình thương chứ sao mà nói.
Câu trả lời của người vợ trẻ rúng động tâm tư tôi; vì câu nói nơi Lão học đã bao lâu nay ngạo nghễ thách đố đã được giãi mã, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Nói chuyện qua loa với cặp vợ chồng chủ quán và sau khi uống hết ly cà phê đá, tôi từ giã, lên xe ra về. Trong lúc lái xe, lòng tôi phơi phới vì vô tình nhận thức được câu nói nơi Lão học, câu nói đã bao ngày tháng thách đố, diễu cợt tâm trí tôi. Dẫu thế, lòng ruột tôi âm thầm phân tích nguyên tắc nào, và điều kiện nào khiến tôi tự nhận thức được câu nói đã những ngàn năm ngự trị nơi Lão học; khiến không biết bao nhiêu người cả đời tiêu hoang tâm trí nghiệm chứng đ? rồi đã qua đi như chưa bao giờ biết đến. Tôi nhận thấy, những câu nói nghịch thường nói về chính tâm tư tôi, không nói về bất cứ người nào khác. Sự thể này chẳng khác gì mình ăn nhưng người khác không thể được no lòng; cũng như không thể cảm nhận được vị giác đối với đồ ăn nơi miệng mình vì họ không có vị giác giống mình. Lan man phân tích, nhận định, câu nói “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” cũng không còn có thể thách đố tâm trí tôi.
Về tới nhà xứ, tôi vội tắm rửa để chuẩn bị bữa ăn chiều, đi ngủ sớm vì ngày mai lễ lúc 7giờ sáng. Tôi đã định sau khi uống cà phê, ghé qua một nhà người quen lấy chiếc quần đã nhờ sửa. Nhưng khi chuẩn bị nấu ăn bữa tối, tôi mới chợt nhớ mình đã quên. Tại sao quên, tôi tự hỏi và lại từ từ phân tích. Tôi đã quên; vì lúc đó tâm trí tôi đang phân tích nguyên tắc và điều kiện giúp tôi nhận thức được câu nói nơi Lão học. Chính ngay lúc này, tôi cũng đã nghiệm được định tâm trong hành thiền. Làm gì thì làm, tâm trí luôn luôn suy tưởng về vấn đề nào đó. Với đầu óc suy nghĩ lung tung, tôi thường thực hiện định tâm mà đã chẳng bao giờ để ý. Hơn nữa, tôi cũng nhận ra điểm chẳng ngờ đó là những câu nói ngang ngược, đôi khi có vẻ ngớ ngẩn đang nói về những sự kiện, sự việc nơi chính tôi, nơi tâm hồn, tâm trạng của tôi chứ không nói về bất cứ gì ngoài tôi, dẫu dùng những sự kiện và sự việc mọi người có thể bình thường nhận thấy.
NHẬN ĐỊNH PHƯƠNG THỨC NGHIỆM XÉT
Một điều rõ ràng nếu ai thực tâm và thực sự muốn thực hành nghiệm xét, đó là cần phải nhận ra và để ý thực nghiệm định tâm. Sự thể được gọi là ngộ chỉ xảy đến với một người nếu người đó thực sự muốn, đồng thời để ý nhận định về việc định tâm của mình. Sự thức ngộ không lệ thuộc cầu mong hoặc ước muốn hoặc thực hành theo bất cứ phương pháp nào. Sự thức ngộ là kết quả thuộc về tâm trí, tâm thức; nó còn lệ thuộc một vài điều kiện hay sự việc vô tình, hay bất chợt cộng hưởng với tâm trí trong lúc đang khắc khoải hoặc thao thức muốn nhận thức một sự việc hay sự thể nào. Tâm trí cứ chuyên nhất suy tưởng về một vấn đề, một câu nói nghịch thường là điều cần thiết được gọi là định tâm nơi hành thiền. Trạng thái này của tâm hồn hay được gọi là hành trình thức ngộ; nếu nói theo quan điểm tôn giáo thì được gọi là hành trình đức tin; hành trình để thực sự nhận ra Tin Mừng là gì, và đức tin là gì nơi cuộc đời mình.
Ngộ thì không thể cầu nhưng nơi thực tế, sự việc được gọi là thực chứng cũng chính là ngộ. Chẳng hạn, hai người cắn hai trái ớt cùng loại. Phản ứng cũng như vị giác của hai người rất khác nhau và không thể diễn giải cho bất cứ ai để họ có thể cảm thấy cay đắng hay ngon ngọt nơi miệng của họ như chính cảm giác của người cắn ớt. Tương tự thế, sự thức ngộ về một câu nói sẽ không ai có cảm nhận giống ai và cho dù cố gắng giãi nghĩa, giải thích, chứng minh bằng bất cứ phương cách nào, người nghe cũng không thể ngộ được, mà có chăng chỉ được gọi là hiểu, chứ cảm nhận thì không; vì nếu họ có thể cảm nhận một phần nào thì cảm nhận của người nghe đều bị lệ thuộc bởi cá tính, kinh nghiệm, hoàn cảnh ảnh hưởng.
Tôi nhắc lại, nghiệm xét cần định tâm. Định tâm tức là chuyên tâm để ý suy nghĩ về vấn đề hay câu nói nào đó. Định tâm không cần phải ngồi yên một chỗ; làm gì thì cứ làm, coi xi nê, nghe hát, thì cứ việc thụ hưởng điều mình thích nhưng, tâm trí mình luôn để ý tới vấn đề hay câu nói nào đó mình đã chọn hoặc đánh động tâm tư. Đạo học Đông Phương, đặc biệt lục tổ Huệ Năng, gọi trạng thái này của tâm trí là “Hành thiền.” Đọc nơi sách vở hiện đang có, tôi không kiếm được bất cứ định nghĩa nào hoặc phương thức nào về thực hành định tâm, ngoại trừ nơi cuốn A Way to God của linh mục Anthony De Mello, ngài viết về phương cách để ý đến cảm giác từng phần của cơ thể. Tôi nghĩ, đa số tác giả các sách đạo học có lẽ không thực tập định tâm, hoặc vô tình thực hành định tâm mà không để ý. Các nhà thức ngộ thì không muốn nói gì, phương chi là viết. Sở dĩ tôi viết chỉ vì lợi ích của Phúc Âm, ước vọng những ai tin vào đức Giêsu nhận thức được Phúc Âm. Đồng thời tôi cũng biết rõ, sự nhận thức, sự thức ngộ, của bất cứ ai sẽ không giống với sự nhận biết của tôi nên không dám có bất cứ ý định giải thích hay liên hệ hoặc giao tiếp nào nơi phương diện này. Chuyện của Chúa hãy để Chúa lo; riêng tôi, bởi đã cảm thấy nhục nhã vì chưa nhận biết Tin Mừng do đó kiếm mọi cách, đến độ nhảy rào, để nhận biết Tin Mừng mà thôi. Thế nên, những gì tôi viết chỉ có thể bày tỏ những gì tôi đã phải trãi qua nơi tâm trí; có chăng giải thích về sự thể cũng như áp dụng định tâm nơi hành trình nghiệm xét.
PHÂN TÍCH PHÚC ÂM
Rao giảng Phúc Âm quả thật đâu phải chuyện chơi, nhưng phương pháp nghiệm xét đâu được giảng dạy nơi trường thần học vì sự nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu, không thể phân tích, giải thích, hoặc truyền bá. Xét về nguồn gốc, cơ cấu và phát triển của Phúc Âm, tôi thấy cả một sự rắc rối thường được gọi là huyền nhiệm vì những ảnh hưởng thời cuộc nhân sinh, văn hóa, nhận thức, sinh hoạt, của những cộng đồng nơi thời điểm Phúc Âm được viết. Vì muốn hiểu rõ hơn, tôi đặt mua bộ Anchor Bible, vào thời điểm bộ này chỉ mới in được hết phần Tân Ước và một số sách của Cựu Ước; trong khi một số sách khác của Cựu Ước vẫn còn đang được viết.
Theo sử sách thì Phúc Âm được viết vào khoảng từ năm 70 đến năm 100 Dương lịch do những cộng đồng dân Chúa khác nhau. Ba Phúc Âm Matthêu, Marcô, và Luca được ba cộng đồng viết và hình thức viết tương tự giống nhau, dùng đức Giêsu làm nhân vật chính để diễn tả ám định điều kiện tâm trí, hành trình nhận thức Tin Mừng, và nhận ra kết quả của Tin Mừng nơi cuộc đời mỗi người; bởi đó ba Phúc Âm này được gọi chung là Phúc Âm Nhất Lãm. Nói cách khác, cơ cấu của Phúc Âm Nhất Lãm trình bày những sự khôn ngoan một người cần nghiệm xét và được sắp xếp dưới hình thức câu truyện về cuộc đời của đức Giêsu. Nếu đem tách rời những câu khôn ngoan và xếp loại chúng theo ẩn ý của từng câu, chúng ta sẽ thấy có nhiều câu nói tương tự giống nhau nơi ba Phúc Âm này, nhưng đôi khi được xếp đặt tùy thuộc tình tiết để nối kết thành câu truyện nghe cho xuôi tai. Riêng Phúc Âm Gioan thuộc loại chiêm nghiệm được viết khoảng từ năm 90 đến năm 110 Dương lịch. Thực ra, tên của những Phúc Âm được tạm gọi như thế để dễ phân biệt hoặc trích dẫn.
VẤN ĐỀ SOẠN GIẢNG
Nếu ai để ý khi đọc Phúc Âm, một điều rõ ràng đã được viết, đó là mục đích cuộc đời và nhiệm vụ của đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, rao giảng Nước Thiên Chúa như đã được ghi lại nơi Phúc Âm Luca đoạn 4, câu 42- 44, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ,'Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.' Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê” (Lc. 4:42-44). Sự thể này cũng được nhắc đến nơi Matthêu và Marcô.
Nơi Matthêu được ghi 4:23 “Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.” 9:35 “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.”
Nơi Marco cũng thấy những câu, 1:14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 1:15 Người nói: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. 1:35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 1:36 Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. 1:37 Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang tìm Thầy đấy! 1:38 Người bảo các ông: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. 1:39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. 13:10 Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc.
Đức Giêsu sai các môn đồ đi rao giảng cùng một mục đích Lc. 8:1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai. Lc. 9:2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Lc. 9:6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi. Mt. 10:7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.
Soạn giảng vừa kích thích vừa thách đố tâm trí, nhưng tôi lại cảm thấy xấu hổ do không thực sự hiểu rõ Phúc Âm muốn nói gì nên tối kỵ giải thích Phúc Âm theo nghĩa từ chương; bởi ít nhất, nếu giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, chính lối giải thích thiếu nhận thức này biến mình thành con người ăn nói lật lọng, phản thùng, phản luân lý, tự đối nghịch với chính mình, có lẽ vì thế được gọi là tiên tri giả như Phúc Âm đã lên án, Mt, 7:15 “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Mc. 13:5 Đức Giêsu bắt đầu nói với các ông: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Mc. 13:6 Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Lc. 21:8 Đức Giê-su đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây,” và: “Thời kỳ đã đến gần;” anh em chớ có theo họ. Có lẽ chính vì thế Phao lô khuyên, “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Rao giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, đối với tôi, đang chứng minh Phúc Âm nói những lời không tưởng, hoặc thay vì rao giảng Tin Mừng lại rao giảng tin buồn. Không hiểu đức Giêsu nghĩ gì?
Một hôm, đang nói điện thoại với một ông cụ cỡ 65, hơn kém. Con cái đã lớn và đã thành lập gia thất riêng, nhưng hai ông bà vẫn miệt mài với con tầu đánh tôm nhỏ. Dĩ nhiên, làm nghề biển rả thì vất vả, thức đêm thức hôm, phải dãi nắng dầm mưa đôi khi thuyền bè trục trặc quả thật trần thân mệt nhọc. Sở dĩ ông bà vẫn còn đeo đẳng với nghành nghề đánh bắt tôm cá vì thích ghé qua đền thánh casino để có được những giây phút đem lại cảm giác hồi hộp do hy vọng vận may, vác cột nhà của đền thánh về làm cột nhà của mình. Tất nhiên, những ai đã từng ghé qua casino đều kinh nghiệm thua chín mươi lăm phần trăm. Và kết quả của những đam mê hy vọng đối với cặp vợ chồng già này là dâng cúng hết tất cả công sức ngày đêm chịu trận mưa gió cho đền thánh khiến tâm hồn không lúc nào được an bình chỉ vì thấp thỏm vận may. Tôi không nhớ nói đến chuyện gì, chỉ biết thường thì tôi và ông ta đang nói về Phúc Âm; bởi lòng tôi ngày đó còn đang khúc mắc về làm cách nào để nghiệm xét. Vô tình tôi nhắc đến câu, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ đã không có thì dù có ít cũng bị lấy đi.” Ông lặp lại ra vẻ đắc ý vì nghiệm được điều chi không biết; và bởi vì ông nói hơi lớn nên bà nghe được đang lúc nấu ăn, và thế là bà, với giọng bực bội, la lên; tôi cũng có thể nghe được qua điện thoại,
- Chúa gì mà kỳ; kẻ đã có lại còn được cho thêm; giời ơi, Phúc Âm nói nghe ngang không chịu được.
Ông đành cắt ngang điện thoại; không hiểu hai ông bà đôi co với nhau thế nào vì lời Phúc Âm không hợp tình, chẳng hợp lý nơi thế giới hữu vi này. Khi ghé qua ăn tối, tôi tảng lờ như chẳng để ý gì vì thực ra, ngày ấy nhắc đến câu này tôi vẫn bị ngọng miệng. Lờ đi có lẽ còn được tôn trọng một chút chăng, còn hơn giải nghĩa bậy bạ theo kiểu từ chương, tôi nghĩ, làm sao trả lời với đức Giêsu khi gặp Ngài. Dẫu cho rằng Ngài không chấp sự ngu muội của tôi, nhưng tôi chấp. Tôi chấp mới phiền.
Đôi khi tôi cũng ghé qua thăm một gia đình khác; cặp vợ chồng này khá cởi mở, bà thường gọi tôi mỗi khi nhà nấu bún bò huế. Ông quay phim ngày tôi chịu chức linh mục và đôi lần giảng phòng mùa chay hay mùa giáng sinh. Một lần được mời ăn bún bò huế, tôi và ông nói chuyện liên hệ đến câu Phúc Âm, “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt. 7:12; Lc. 6:31). Tôi còn đang ậm ừ, rất dè dặt khi bàn luận về câu Phúc Âm này vì đã mấy năm suy nghĩ, tìm biện chứng nọ, lý lẽ kia để sao có thể áp dụng lời Chúa nơi cuộc đời mà chưa thể kiếm được nhận thức sao cho hợp lý hợp tình cho câu này. Tôi đọc đâu đó có câu, “Đừng làm cho kẻ khác những gì anh muốn kẻ khác làm cho anh, cái thích của họ có thể khác anh” (G.B. Shaw) hay “Những gì không thích người khác làm cho mình thì cũng đừng làm điều ấy cho họ,” hình như câu này nơi Khổng học. Ông đã lên tiếng, giả sử mời cha ăn bún bò huế mà con thích ăn cay, bỏ ớt theo ý mình thì sao cha ăn? Tôi chỉ biết nói đò đưa, “Có lẽ lời Phúc Âm nói theo khía cạnh nào đó. Phúc Âm đã đứng vững hơn kém hai ngàn năm; nếu những gì người ta không chấp nhận được, tự nhiên sẽ bị đào thải theo thời gian.” Thực ra, tám năm kể từ ngày chịu chức, ít nhất ba lần tôi phải đối diện với câu này mà vẫn cứ mù mờ.
Đâu phải chỉ mấy câu này khiến tôi ngọng miệng, đa số những câu Phúc Âm đều chặn họng tôi, bởi không thể nào giải nghĩa cho hợp tình hợp lý. Nói vậy cũng không đúng, không hiểu động lực nào đã giúp tôi giải mã được câu, Đức Giê-su nhìn ông ta và nói: 'Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa' (Lc. 18:24-25; Mt. 19:23-24; Mc. 10:26). Suốt một tuần lễ ngay sau khi soạn giảng cho những ngày cuối tuần, tôi đọc bài Phúc Âm tuần tiếp theo có câu này để suy nghĩ. Cả một tuần cố tìm ý nọ, lý kia để giải nghiệm câu này, cho tới sáng thứ bẩy, đầu óc vẫn mù tối, tôi lý luận, nếu theo nghĩa từ chương của câu này thì những người có thể đóng góp cho nhà thờ không còn hy vọng được cứu rỗi, và rồi kết quả sẽ ra sao; nhà thờ sẽ đóng cửa, và tôi sẽ bị mất việc. Hình như câu này nơi bài Phúc Âm chủ nhật thường niên 28B. Bình thường, sáng thứ bẩy tôi ngủ tới 10 giờ vì không có chương trình phụng vụ. Thế nhưng, chẳng hiểu sao, tôi thức giấc lúc 8 giờ sáng và không thể ngủ lại. Sau khi cà phê cà pháo, với tâm tư nặng nề do chưa biết phải nói gì về bài Phúc Âm, tôi thầm quyết định copy bài giảng đã được viết sẵn nào đó rồi đọc cho giáo dân nghe thay vì soạn giảng, dầu thế vẫn bước qua nhà thờ định bụng suy gẫm thêm lần chót.
30 phút nặng nề trôi qua, lòng tôi trầm xuống, cảm thấy rất nhục nhã vì đã không kiếm được ngõ ngách nào cho hợp lý, hợp tình, để giảng lời Chúa qua bài Phúc Âm nghịch thường này. Đứng lên, chầm chậm lê đôi chân ra khỏi nhà thờ, vừa khi tới ngưỡng cửa, câu Phúc Âm, “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” ( Mt. 6:21) hiện về nơi tâm trí. Tôi thầm hỏi, kho tàng của tôi ở đâu, và nhận ra lòng trí tôi đang buồn nản vì không biết ăn nói thế nào với câu Phúc Âm phải giảng lúc lễ năm giờ chiều; đồng thời với đầu óc quen suy tư, lý luận, tôi nhận ra, ước muốn, ý định ở đâu thì lòng dạ ở đó; có thể ngôn từ ngày xưa theo thời gian thay đổi trong khi bản dịch lại cố giữ theo bản chính. Tôi chợt có ý nghĩ lấy câu này ráp thêm vào câu Phúc Âm chủ nhật, và nó trở thành, “Những người ước muốn giầu có, danh vọng trần gian này thì khó vào Nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó.” Lòng tôi phấn khởi, bước vội về văn phòng soạn bài giảng.
Ngoại trừ trường hợp chó ngáp phải ruồi, nhờ thích suy nghĩ lung tung trong khi khó chấp nhận giảng lời Phúc Âm theo nghĩa từ chương, như tôi vừa nêu trên; mỗi khi soạn giảng, tuần một lần, đến với tôi là cả một thách đố lớn lao. Đồng ý rằng tôi cũng được coi là hơi thông minh, hơi thông minh nên suy nghĩ lung tung, lại bởi nhảy rào đọc tào lao thiên tướng nên tự nhiên bị ảnh hưởng bởi những câu nói ngổ ngáo của các bậc thức ngộ, thấy hay hay, ngang ngang cò bứa, đã tự động in vào óc. Bởi vậy, hay đâu không biết nhưng khi nói chuyện với những người quen, họ đều cho rằng tôi có lắm điều mới lạ. Nào tôi dám huênh hoang lên mặt; vì tự thâm tâm biết rằng mình chỉ giống như chiếc máy thâu băng đã cũ rích, lõm bõm đây sót lại vài âm thanh, kia gặp dịp cho máy nổ; do đó chẳng những đã không dám hó hé dù chỉ đôi lời lên mặt mà còn lòng tự dặn lòng ráng nhớ tên tác giả hoặc tựa sách nào đã có câu nói đó, nói ra trước cho đỡ xấu hổ.
Tất nhiên, nguồn cung cấp lý lẽ, giai thoại, để soạn giảng là pho Cựu Ước, nhưng mò mẫm tìm kiếm nơi pho khổng lồ ấy để giải nghĩa Phúc Âm, trong khi những dòng chữ in chỉ to hơn con kiến lửa, thì hạnh phúc đâu, năng lực đâu có thể thúc đẩy tôi cặm cụi tiêu phí ngày này qua tháng khác lục lọi chỉ cho đôi phút tạm gọi là rao giảng lời Chúa. Cho nên, để giải quyết nỗi khốn cùng bất đắc dĩ này, tôi đã không tiếc tiền mua hình như cỡ mười mấy cuốn bài giảng đã được viết sẵn bao gồm những bài giảng chủ nhật, các bài giảng ngày thường tùy mùa phụng vụ và những ngày lễ tết đặc biệt. Tôi cũng chuốc thêm tám hay chín cuốn những mẫu truyện diễu có thể nói vào đề trước khi giảng; môn học giảng nơi nhà trường dạy thế. Tiền bạc không thành vấn đề nhưng sao các bài giảng giá cả bằng tiền bạc, không tốn công sức suy tư, chẳng chút nào thuận lý, phù hợp với hoàn cảnh tôi đang phải đối diện. Lời Chúa thổi một đàng, hết bài này đến bài khác, kiểu này hoặc kiểu kia, chẳng khác gì những chiếc lá bay theo hướng những cơn gió loạn, tản mác vô phương nắm bắt, nhiều khi càng làm tôi rối trí. Ừ thì đọc cho biết, may ra thánh thần soi sáng thêm chút nào chăng. Tuy nhiên, sáng đâu không thấy, cứ những bài giảng hợp ý, hợp tình, cảm thấy đắc ý, tôi lại nhận được những lời nhận định gay gắt, dở ơi là dở. Cũng được yên ủi đôi chút, đôi bài giảng tự phát ngày thường, tự tin nói cho qua, tôi lại được khen hay, ý tứ thâm trầm. Ôi lời Chúa, trận chiến dằng dặc, miên man thách đố tôi.
Đọc Kinh Thánh sẽ thấy, tất cả kinh sách nơi Cựu Ước chỉ chứng minh một điểm độc nhất, và đó là có một quyền lực tối thượng hiện diện và hoạt động nơi tạo vật; quyền lực tối thượng đó được Phúc Âm đặt nơi miệng đức Giêsu gọi là Cha. Và nơi Phúc Âm cũng chỉ có một định nghĩa, “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phương trong thần khí và sự thật” (Gioan 4:24). Riêng các đặc tính của Thiên Chúa đều được bày tỏ qua cảm nhận; thế nên nỗi thao thức nhận biết về Thiên Chúa nơi tâm trí tôi quả là quá mông lung, mờ ảo. Khổ nỗi, thật là khó chấp nhận tự nhiên bày ra những chuyện tự trời rơi xuống rồi ép mình ép xác khuyên dụ kẻ khác lấy đó làm tiêu chuẩn áp dụng nơi cuộc đời. Lạm dụng niềm tin của kẻ khác mà áp đặt, nếu giải thích những mẫu sự kiện nơi Cựu Ước một cách từ chương. Đụng tới Phúc Âm thì cứ phải đối diện với những câu trời mây trăng nước, nghịch với suy tư, chống đối luân lý. Suy luận thế tục, hoặc cho dù áp đặt cách mấy cũng không thể nào đụng chạm đến được Phúc Âm, phương chi rao giảng. Lời Chúa gì mà ngang ngược, thắt họng kẻ phải rao giảng như tôi. “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:29-30). Điếc luôn! Đâu ai thực hiện câu này theo nghĩa từ chương. Giải thích làm sao, rao giảng thế nào; tuyên xưng là lời Chúa, lời khôn ngoan mà không thể áp dụng vào cuộc sống thì chỉ là phương tiện minh chứng lời Chúa vô bổ, đọc lên cho vui, chọc cười thiên hạ cho bớt cơn sầu. Lại có những câu ngớ ngẩn khác khiến cho ai ai cũng ngạc nhiên tự hỏi sao lại được gọi là lời Chúa; chẳng hạn, Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ. Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: “Rượu cũ ngon hơn” (Lc. 5:36-39). Oái giời, ai không hiểu chuyện đương nhiên này; thế sao lại được gọi là lời Chúa! Và làm sao áp dụng nơi cuộc sống tâm linh, hành trình đức tin của dân Chúa? Câu Phúc Âm nào cũng lạ kỳ, nói là lạ kỳ để tỏ lòng tôn trọng chứ thực lòng, mới chỉ nghĩ đến những câu Phúc Âm, cổ họng tôi đã cảm thấy nghẹn ngào, ngắc ngứ như gà nuốt dây thung. Cứ đành lờ đi cho qua, lỡ phải giảng giải thì nói đường xuôi, luận đường ngược, lấp liếm, nói cũng như không, sao được gọi là giảng, thâm tâm tôi nghĩ thế.
Có những bài giảng được viết sẵn, theo nghĩa từ chương, ý tứ coi người nghe là thứ phường tội lỗi nên phải răn dạy. Lạy Chúa tôi, tôi nuốt không trôi, không thể chấp nhận được. Người ta đi nhà thờ là quý rồi, nói tào lao đì họ, họ không thèm đi nhà thờ nữa, cha thất nghiệp. Những kẻ tội lỗi họ đâu cần đi nhà thờ, giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, phán Chúa thế này, đức Giêsu, đức Mẹ, thế kia, răn đe thiên hạ, người ta sẽ để chỉ mình cha lên thiên đàng không tưởng, phần họ sẽ tránh xa hết. Cái thiên đàng thế tục được rao giảng làm sao tuyệt vời bằng miếng rượu, sao có thể mua vui con người bằng những chương trình diễu diễu cho qua ngày tháng nơi TV, YouTube. Lại còn nơi đám ma, đám cưới, những lời sáo ngữ ca tụng công đức, cá tính, đò đưa lấy lòng đâu phải lời Chúa. Phỏng đó là rao giảng lời Chúa hay lạm dụng lời Chúa cho mục đích nào khác; làm sao trả lời với đức Giêsu khi phải đối diện với Ngài. Giêsu ma lạy Chúa tôi, nhiều khi tôi nghĩ, lời Chúa như ngọn roi quất tôi hằng ngày, chẳng lúc nào ngưng.
Nhiều lúc tự hỏi, tại sao tôi khó tính thế, và thực sự tôi muốn gì? Điều gì cứ khiến tôi ấm ức như gà mắc dây thung. Đọc bài giảng viết sẵn nào cũng không vừa lòng, không hợp ý, xem lại bất cứ bài giảng nào tự mình soạn cũng chẳng thấy Tin Mừng đâu. Tại sao không vừa ý, lý do gì không hài lòng, thế điều gì mới có thể hợp ý của tôi? Mà ý muốn của tôi là gì? Sao tôi có thể thoả mãn nỗi thao thức nơi mình, và nỗi thao thức nơi mình là gì?
Một hôm, linh mục tạm quyền nơi một giáo xứ Việt gọi tôi dâng lễ cho người Việt hai cuối tuần. Nhận lời, tôi viết bài giảng và nhờ người quen đọc trước, nhờ ông ta cho nhận định.
- Nếu cha giảng như thế này thì ai mà có thể hiểu; bởi vì đâu ai có giờ để suy nghĩ những gì cha nói. Hơn nữa, họ có đọc Kinh Thánh đâu; thử hỏi, giờ nào cho họ đọc, nào công việc làm ăn, dọn dẹp, giặt giũ, lo cho con cái đi học, đón con về, nấu nướng thì còn thời giờ nào cho họ nghĩ đến lời Chúa.
Nghe những lời thẳng thừng nhận định được tôi yêu cầu qua phone vào tối ngày thứ bẩy, tôi soạn bài giảng khác đầy mùi vị thế tục. Thực ra, dẫu rất ưng ý với bài giảng đã soạn trước, nhưng bởi đã được nhận định không nên giảng như thế đối với giáo dân người Việt thời buổi này, nơi đây, tôi đành phải soạn lại bài giảng khác; trong khi lòng tự dặn lòng đành muối mặt, ép tâm trí cho thuận với hoàn cảnh hiện tại. Dĩ nhiên, tôi khinh chính tôi, tôi khinh những gì tôi phải viết, biến lời Chúa thành những ngu xuẩn thế tục một chiều cho hợp với lòng thế nhân, pha thêm vài câu tục ngữ, ca dao cho có vẻ dư giả văn chương. Câu nói nào đó hiện về khi soạn giảng, Niềm vui của kẻ trí khiến người ngu bực mình; niềm vui của người ngu làm kẻ trí xót thương; hèn chi đức Giêsu bị người thời đó cho rằng mất trí. Tất nhiên, vài hôm sau, tiếng đồn đâu đó giáo dân khen tôi giảng hay đến nỗi không ngờ. Tôi nghe thấy mà điếng lòng, chỉ vì muốn làm hài lòng họ mà vô tình hại họ.
Và thế là chủ nhật tiếp theo, tôi đã không thể nào soạn bài giảng hầu làm hài lòng những dân chúng “không có tai nghe” mà viết bài giảng theo những gì tôi phải nói, trong đó tôi nhấn mạnh yêu cầu, học theo kiểu ngài Thích Ca, xin đừng tin vào những gì tôi nói mà làm ơn đọc Phúc Âm, suy nghĩ, và hãy tin vào lời Chúa. Để rồi cũng chỉ vài ngày sau tiếng đồn rằng tôi giảng ngang ngược, không nên tin những gì tôi nói thì làm linh mục làm gì. Giảng lời Chúa là nói lên lời chân thật mà lời thật thì mất lòng là thế. Chịu thôi, người ta muốn nghe tiên tri giả, nhưng tôi không chấp nhận làm tiên tri giả, chỉ Chúa biết.
Dĩ nhiên, nỗi thao thức bẩm sinh nơi tôi cũng như nơi mọi người là nhận biết thực thể, tự thể mình thế nào; “Tôi là ai.” Để trả lời câu hỏi này, tôi đã phải trãi qua nghiệm chứng, nghiệm xét, nói cho đúng, may mắn nhận thức được mình có con mắt nhìn trong giấc mơ. Đối diện hai người, qua sự việc kích ngất, thực chứng linh hồn. Rồi thực nghiệm nhận định con người tâm sinh lý của mình xấu tốt, tệ hại, cũng như thánh thiện ra sao để rồi tổng hợp lại dẫn đến nhận thức thực thể của tôi không phải chỉ là thân xác có cuộc sống nơi thế giới hữu vi này; tôi có một linh hồn; nói cách khác đời sống tâm linh của tôi chính là hành trình nhận thức đến tận cùng sự hiện hữu của linh hồn tôi. Gì nữa, tôi tự hỏi. Ah! Sự liên hệ của thực thể linh hồn tôi với Thiên Chúa, với thực thể hiện hữu vô cùng, với nguồn sáng mà những người trong công cuộc nghiên cứu của bác sĩ Melvin Morse nhắc tới; nói rằng họ đã gặp khi trãi qua những trường hợp kích ngất; nguồn sáng mà thành viên K of C diễn tả mang lại tuyệt vời hạnh phúc đến nỗi cáu mù khi bác sĩ và y tá giật điện giúp ông ta sống tại. Nguồn sáng, nguồn hạnh phúc thế nào mà quý báu hơn ngay cả mạng sống. Phúc Âm nói gì? Hỏi rằng Phúc Âm nói gì thì cần đặt vấn đề đức Giêsu rao giảng gì.
Câu trả lời hiển nhiên là Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì mà lại được cho là mục đích cuộc đời của đức Giêsu. Ai nói gì thì nói, tuyên xưng, tuyên dương gì thì cứ việc múa may quay cuồng. Tôi phải giải quyết cái nỗi ấm ức nơi lòng, phải tìm cho ra Tin Mừng Nước Trời là gì; tôi phải nắm bắt cho được Tin Mừng với bất cứ giá nào. Rao giảng Phúc Âm mà nói những chuyện không dính dáng gì tới Tin Mừng thì rao giảng gì. Tôi là linh mục mà không biết Tin Mừng Nước Trời là gì vậy đã bao năm nay, từ ngày lãnh nhận chức linh mục, hằng ngày dâng lễ, hằng ngày chia sẻ Phúc Âm; tôi đã chia sẻ, rao giảng những gì. Sự bực bội nội tâm, nỗi thao thức, khát khao bẩm sinh nơi tôi đã hiện rõ, và đó là chính sự nghiệm xét, nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời. Biết được mục đích tâm hồn mình muốn đạt tới khiến lòng ruột tôi thoải mái hơn chút. Đoạn đường, hành trình rồi sẽ ra sao, chờ đó, vì tôi còn có xác thân, có công việc nhân sinh phải làm, có cuộc sống liên hệ rắc rối phải giải quyết, nhưng cảm thấy vui hơn, thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn vì đã nhận ra mục đích cần đạt tới. Và thế là tôi phải sắp xếp thứ tự trước sau cho diễn trình nghiệm chứng, nghiệm xét Tin Mừng Nước Trời.
Điểm khởi đầu để nhận thức, nghiệm chứng, nghiệm xét Tin Mừng phải được bắt nguồn từ đâu, tôi thầm hỏi. Từ kinh sách đạo học! Câu trả lời khiến tôi cảm thấy như rơi vô vực thẳm tăm tối. Chỉ nói một cuốn Kinh Thánh thôi, tôi chưa bao giờ có thể đọc qua hết một lượt thì sao dám nói gì tới những kinh sách đạo học khác. Thực ra, tất cả các kinh sách đều chỉ là sản phẩm cũa những tâm hồn thức ngộ, chứ không phải sự thức ngộ, chỉ loanh quanh luẩn quẩn ngoài lề, vòng vo tam quốc chứ không thể giúp người ta rờ được tới nhận thức, không thể tạm gọi là làm người ta ngộ. Nhận thức hay ngộ là ở tâm hồn, nơi tâm trí một người, ngay nơi tâm trí tôi. Kinh sách chỉ là phương tiện, là cây cỏ, hoa lá diễn tiến nơi hành trình tâm linh. Ủa, tôi đang suy nghĩ gì, mà cứ lan man lung tung bỏ rơi cả chủ đích; tôi tự đặt vấn đề. Vâng, tôi đang tìm điểm khởi đầu cho hành trình, diễn trình nghiệm xét Tin Mừng Nước Trời. Thì Phúc Âm nói đến Tin Mừng sao không nắm lấy những gì về Tin Mừng được nói đến nơi Phúc Âm. Ối giời, có lẽ tôi quá thông minh nên coi chừng trật đường rầy; đường nên đi không đi, lại cứ loanh quanh luẩn quẩn tìm tòi trong bóng tối.
Nói đến Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa thì cần phải biết Nước Thiên Chúa là gì; lại cũng cần nhận thức Thiên Chúa là gì. Tất nhiên, trốn trời không khỏi nắng, muốn biết Thiên Chúa là gì chỉ còn cách phải trở về với hình ảnh của Thiên Chúa là gì, trở về với chính mình vì “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Cái điểm khởi đầu là chính tôi mà tôi không để ý, hèn chi cứ loanh quanh luẩn quẩn.
PHÚC ÂM NÓI GÌ VỀ NƯỚC TRỜI
Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, còn được gọi là Tin Mừng Nước Trời, hay còn được gọi tắt là Tin Mừng, “Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc. 4:42-43). “Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa” (Lc. 9:11). Phúc Âm khuyên, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho (Mt. 6:33). “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt. 3:2). “Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc. 17:20-21). Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Rồi Người lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc.4:26-32; Lc. 13:19). “Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” (Lc. 13:21).
NHỮNG AI THUỘC VỀ NƯỚC TRỜI
Theo những bản Phúc Âm tiếng Anh, “Nghèo khó” hay “Tinh thần nghèo khó” đuợc dịch là “Simple minded,” có nghĩa đơn sơ, chất phác, chuyên tâm, chăm chăm chú chú, chỉ một mực, một chiều hướng. Phúc Âm nói về diễn biến của thực thể tâm trí, “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc. 6:20). “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc. 10:15; Lc. 18:6)). Tuy nhiên, “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi (Mt. 7:21). Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” 10:24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”(Mc. 10:23-25; Lc. 18:24-25).
Thế là bù trớt, tìm kiếm Tin Mừng Nước Trời nơi Phúc Âm chẳng khác chi kiếm con se sẻ giữa đàn cú. Biết được mục đích cuộc đời của đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng, đến khi lục lọi Phúc Âm để kiếm xem Tin Mừng là gì thì chỉ thấy những gì không phải là Tin Mừng. Vâng, điều tiên quyết là “Tìm kiếm Nước Thiên Chúa,” vì ”Nước Trời đã đến gần” (Mt. 3:2). Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc. 17:20-21). Vậy thì đâu cần phải tìm, phải kiếm, mà lại xúi dại tìm kiếm và càng tìm kiếm thì cái đầu càng quay quay. Coi chừng Tin Mừng chỉ là một danh hiệu. Bao công lao lục lọi cũng như không, còn tệ hơn như không. Nếu đã như không thì sao đầu có thể quay quay. Mới có được chút chút niềm vui vì đã biết đích tiến tới, để rồi hăng hái lục lọi thì lại bù trớt. Theo tình, tình chạy. Càng tìm, càng bối rối, nỗi thao thức càng đè nặng. Nản, tôi cảm thấy xấu hổ. Cứ huênh hoang rằng được gọi, được chọn để rao giảng Tin Mừng, trong khi không biết Tin Mừng là gì thì rao bán cái gì. Càng nghĩ càng hổ thẹn với lòng, càng nhận ra thực trạng trống rỗng nhận thức về Tin Mừng, tôi càng cảm thấy bực bội; hình như có ngọn lửa nào thiêu đốt trong lòng, mà bên ngoài phải giả đò đạo mạo; tôi đang tự lừa dối. Tôi đang lừa dối dân Chúa vì tôi rao giảng điều tôi không biết; tôi nói tào lao thiên tướng cũng chỉ bởi không biết Tin Mừng là gì. Thời gian cứ chậm rãi trôi như diễu cợt; nói chuyện, có ai vô tình nhắc đến Tin Mừng thì tôi cố lãng tránh hoặc kiếm cách đổi đề tài. Tôi cảm thấy xấu hổ, cực kỳ tự thẹn.
TIN MỪNG NƯỚC TRỜI
Tôi còn nhớ, lúc ấy đúng 12 giờ khuya, sau khi tắt máy tính để tìm những câu Phúc Âm liên quan đến Tin Mừng Nước Trời, tôi xuống lầu và ghé qua nhà thờ chỉ cách cửa sau nhà xứ cỡ năm mét (mười lăm feet). Với tâm trạng cực kỳ chán nản và thất vọng giữa đêm đen tĩnh lặng, âm thầm leo lét ngọn đèn chầu nhỏ nhoi màu đỏ, tôi cầu nguyện thành tiếng,
- Lạy Ngài, con là linh mục của Ngài. nhưng con không biết Tin Mừng Nước Trời Ngài đã rao giảng hai ngàn năm trước để rao truyền lại cho dân Ngài. Một linh mục mà không biết Tin Mừng Nước Trời thì thật là nhục nhã. Ngài biết, dân Chúa trả tiền lương cho con, trả tiền ăn, tiền xe, tiền xăng, bảo hiểm, trả tiền nhà cho con ở, bao gồm cả điện, nước, lại trả luôn tiền người nấu ăn, dọn phòng, mà con không biết Tin Mừng để rao giảng cho họ. Một linh mục mà không biết Tin Mừng Nước Trời để rao giảng thì chỉ là một tên lừa đảo dân Chúa hầu sống qua ngày. Con cảm thấy nhục, thà rằng con đi làm thuê kiếm miếng cơm ăn chứ thật không gì khốn nạn cho bằng nói hươu, nói vượn theo luân lý và thị hiếu thế tục, giảng Lời Chúa mà không biết Tin Mừng là gì. Nói đến đây, tôi thực sự cảm thấy mình không thể chấp nhận cho rằng Chúa Giêsu xuống thế chết vì và chết cho tội lỗi loài người. Cứ theo Phúc Âm, đức Giêsu bị người Do Thái, dân tộc của Ngài, kết án là phạm thượng. Sở dĩ tôi không chấp nhận câu tuyên truyền rằng Chúa chết vì tội của tôi bởi lục lọi nơi Phúc Âm, Ngài rõ ràng tuyên bố chính vì mục đích rao giảng Tin Mừng Nước Trời mà Ngài được sai đến (Lc. 4:43). Phúc Âm không có câu nào ghi Thiên Chúa Cha sai đức Giêsu đến thế gian để chịu chết mà chỉ được viết, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16). Tôi không hiểu cái quan điểm Chúa chết vì tội lỗi loài người ở đâu ra, nhưng chắc chắn là ngoài Phúc Âm. Lòng trí tôi cùng cực lo sợ, lo sợ vì mình suy nghĩ không giống người khác, đồng thời cũng không dám nói ra. Tôi thực sự thấy mình hèn hạ; hèn chỉ vì không chấp nhận điều vô lý người ta tuyên truyền, và cũng bởi vì không biết Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng. Tôi cũng cảm thấy không thể cai quản, điều khiển được tâm trí tôi; nó cứ dùng lý lẽ và suy luận phải sao cho hợp lý, hợp tình. Tôi tự tranh luận, nếu Chúa đã chết vì và cho tội lỗi của tôi thì mắc mớ gì phải ăn ngay ở thật, cớ chi phải sống tốt lành. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì, là gì mà tôi không thể chấp nhận Chúa Giêsu chịu chết để chuộc tội cho loài người như người ta hùng hồn rao giảng. Ngồi một mình trong nhà thờ thanh vắng giữa đêm khuya nhưng tôi cảm thấy nhục nhã, một linh mục mà không biết Tin Mừng thì còn gì khốn nạn cho bằng. Còn gì vô liêm sỉ hơn kẻ dùng những lời nói lăng quăng lừa đảo niềm tin dân Chúa để kiếm sống qua ngày; tôi cảm thấy như thế. Một nỗi nhục nhã ê chề bao phủ tràn lấp con người tôi. Cỡ 30 phút trôi qua với nỗi cảm nhận con người mình quá khốn nạn vì không nhận biết Tin Mừng mà làm linh mục, tôi nói thành lời, quyết định nội trong một tuần mà tôi không kiếm cho ra Tin Mừng Nước Trời là gì, tôi sẽ cởi áo nhà tu, đi làm thuê sống qua ngày chứ không thể chịu đựng nổi lương tâm dằn vặt với nỗi nhục vì không biết Tin Mừng.
Bước ra khỏi nhà thờ về tới phòng TV, tôi buồn bã, e sợ, đưa tay mở chiếc TV Philips cổ xưa; hy vọng xem được gì có thể khuất lấp, hoặc làm giảm nỗi ê chề nơi tâm trí. Ai cũng biết, TV ngày xưa xài bằng hệ thống đèn nên hình ảnh nổi lên rất chậm. Tôi nặng nề gieo thân xác nơi băng nệm đợi, và nơi màn ảnh TV từ từ hiện lên buổi họp báo của tổng thống Clinton. Một trong những ký giả nơi màn ảnh, viết bằng tay trái, giơ tay phải lên nói, “Mr. President;” ông ta muốn hỏi câu gì đó, nhưng tôi chợt cảm thấy kỳ cục, thầm nghĩ, tên của tổng thống là Bill Clinton, sao không gọi là Mr. Clinton mà lại nói Mr. President. Vừa mới đặt vấn đề, nhận thức gợi về nơi tâm trí, người Việt mình thường gọi hay chào hỏi người khác bằng danh hiệu để tỏ sự tôn trọng, chẳng hạn ông chánh, ông trương, ông phó, hoặc chị thơ, tùy thuộc chức vụ hoặc nhiệm vụ của họ. Cũng đồng thời lúc ấy, tôi chợt nhớ và cảm thấy ngỡ ngàng; có gì liên hệ luẩn quẩn nơi tâm trí chăng, rằng có câu Phúc Âm nào đó được viết, “Và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel.” Người tôi như chạm phải điện, vội đứng dậy, tắt TV, trở lên phòng, bật máy vi tính lên và mở phương trình Kinh Thánh tiếng Anh tìm chữ Emmanuel. Tôi đã đánh vần sai vì chữ Emmanuel có hai chữ m, tôi gõ thiếu một chữ, và cũng kiếm ra được nơi Phúc Âm Matthêu đoạn 1, câu 23, “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Tôi ngồi chết trân, người run lên. Tôi sợ quá, muốn khóc; nước mắt ứa ra chảy dài xuống hai bên má, lòng hồi hộp, thầm thĩ, lạy Chúa tôi; tôi biết nói sao đây, tôi biết nghĩ gì đây.
Một lúc sau, không biết bao lâu, tỉnh lại, tôi chỉ biết nhìn chằm chằm vô màn ảnh màu xanh, chữ trắng của phương trình nơi máy vi tính, cố gắng lấy lại bình tĩnh bằng cách chầm chậm thở trong khi đầu óc lý luận. Tên của Ngài là Giêsu sao lại được ghi, “Người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel.” Một yù nghĩ đến với tôi, hình như bản dịch ghi thừa chữ “Tên,” phải được viết là, người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel mới hợp lý. Như vậy, danh hiệu của đức Giêsu là Emmanuel. Danh hiệu này nói lên nhiệm vụ của Ngài, nhiệm vụ rao giảng, công bố “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mây Bay Về Ngàn; Tr. 560-561).
CỦA THÁNH ĐỪNG CHO CHÓ
Niềm vui tuyệt vời, âm thầm bất tận triển nở trong lòng, tôi muốn la lớn lên để xả bớt áp lực đang tiếp tục bùng lớn trong tôi. Tin Mừng Nước Trời, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi người. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài; mỗi người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. “Hãy làm cho người khác những gì các ngươi muốn người khác làm cho các ngươi,” đã mấy năm trời câu nói này khiến tôi thao thức. Vì Thiên Chúa ngự trị nơi tôi, ý định, ý muốn nơi tôi mang quyền lực, năng lực kiến tạo. Ý định, ước muốn tự nó mang năng lực của Thiên Chúa nơi tôi, nên nếu tôi thực sự muốn gì, chuyện đó sẽ xảy đến với tôi. Bất cứ điều gì tôi có ý định với người khác cũng sẽ xảy đến với tôi; vì tôi kiến tạo ý định đó. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được câu Phúc Âm, Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (Gìoan 14:27). Suy tới, nghĩ lui, tôi nhận thấy, vì mình phải đối diện với những người chung quanh, hãy coi chừng. “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Câu Phúc Âm hiện về nơi tâm trí nhắc nhở tôi chỉ nên an hưởng niềm vui trong lòng. Nước Trời tự triển nở; nhận thức về Tin Mừng sẽ phát triển tùy thuộc sự thăng tiến nhận thức của con người. Hãy lo chu toàn nhiệm vụ của mình, tôi âm thầm tự nhủ.
ĐỘNG LỰC TIÊN QUYẾT
Hồi tưởng lại diễn trình nhận thức Tin Mừng Nước Trời, tôi nhận thấy, động lực tiên quyết của bất cứ diễn trình nhận thức nào, phải là lòng chân thành thực sự ước muốn. Chính lòng thực sự ước muốn này tạo thêm năng lực cho một người suy tư, tìm hiểu qua mọi phương diện tri thức cũng như nơi những sinh hoạt cuộc sống. Mọi sự nơi sinh hoạt nhân sinh, từ tâm, sinh, lý, đến tinh thần, sách vở, những sự việc bất ngờ diễn tiến hàng ngày, đều là phương tiện, hay cơ hội cho tâm hồn thao thức nơi diễn trình nhận thức. Hơn nữa, dấu chỉ của lòng thực sự ước muốn chính là tâm tư luôn luôn, dù trong bất cứ công việc hay hoàn cảnh nào, để ý suy tư về điều mình muốn. Sự thể luôn luôn để tâm suy tư này được gọi là định tâm, hành thiền. Và bởi vì luôn luôn suy tư về mọi phương diện của vấn đề nên được gọi là nghiệm xét, nghiệm chứng. Thiển nghĩ, trạng thái này được Phúc Âm gọi là cầu nguyện liên lỉ, luôn luôn.
Một sự thể ắt có và đủ nơi diễn trình nhận thức đó là chân thực đối diện và chấp nhận chính mình. Vì sự đối diện chính mình này chỉ xảy ra nơi tâm tưởng, đúng, sai, phải, trái, đâu ai biết, nếu mình không nói ra; những ai đối diện với chính mình, càng cảm thấy mình hèn hạ đốn mạt bao nhiêu, nhưng mở rộng lòng chấp nhận mình, có thể cảm nhận được sự thay đổi tuyệt vời nào đó nơi tâm thức. Sự thể ai cũng rõ ràng nhận biết, nơi tâm thức, người càng khó khăn, nặng nề chân thành lên án hay xét xử những sai sót của mình bao nhiêu, tâm hồn người đó thẳng thắng, chân thành, và cao vời bấy nhiêu. Có lẽ đây là ý nghĩa “Con đường hẹp” hay “Cửa hẹp” nơi Phúc Âm. Nói thì dễ, thì hay lắm, nhưng thử thực nghiệm sẽ biết. Ông bà quan tòa nơi mình tuyệt vời thiên vị.
DIỄN TRÌNH NGHIỆM XÉT THEO PHÚC ÂM
Trong khi đọc Phúc Âm Marcô để kiếm tìm những câu liên hệ về Tin Mừng Nước Trời, tôi nhận thấy những câu, nếu được tách rời riêng biệt đoạn sắp loại theo ý nghĩa độc lập của từng câu, có thể nói, Phúc Âm được biên soạn bao gồm những câu nói khôn ngoan trình bày về diễn trình thức ngộ tâm thức dẫn đến sự thức ngộ Tin Mừng Nước Trời. Những câu khôn ngoan nơi Phúc Âm có thể tạm được phân chia theo những đề mục,
1- Điều kiện tâm trí để nghiệm xét
2- Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu
3- Thiên Chúa theo Phúc Âm
4- Liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người
5- Nước Thiên Chúa, Nước Trời
6- Tin Mừng Nước Thiên Chúa
7- Đức Tin 8- Lời nhắn nhủ, căn dặn, những ai nghiệm xét
Có thể nói đây là hành trình nghiệm xét Tin Mừng Nước Thiên Chúa và thành quả của Tin Mừng là đức tin. Một điều chẳng ngờ khiến tôi cảm thấy an lòng sau cả tuần lễ đặt vấn đề suy nghĩ về chiều hướng và phương diện nào những câu nói ngang ngang cò bứa được ráp vào Phúc Âm không theo khuôn phép thứ tự nào mà chỉ sao cho hơi hợp lý, hoặc gán ép tạm thuận tai ngườì nghe. Phúc Âm dùng những sự việc hữu vi để ám định về hành trình tâm thức, hành trình suy tưởng, suy nghiệm, nhận thức được thánh Phao lô đề nghị gọi là “Nghiệm xét;” trong khi Phúc Âm qua động từ Hy Lạp “Metanoia,” mà các nhà học giả Kinh Thánh cũng như những thày dạy Thánh Kinh đã không dám suy nghĩ lung tung như tôi, ép nhận thức vào khuôn phép truyền thống, đành cúi đầu kính nhi viễn chi bởi chẳng dám đặt vấn đề thay đổi não trạng, chiều hướng, suy nghĩ khác trước, nên đành nhắm mắt viện cớ, “Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước về dấn bước vào một cuộc sống mới” (KTTƯ; Tr. 184; Sài Gòn; 1994).
Cũng đáng tội cho dân Chúa, người ta chỉ nghĩ rằng “Thay đổi hướng đi” theo nghĩa thế tục, luân lý, thay vì thay đổi lối suy tư. Bởi bất cứ gì xảy đến trong suy tư, nghiệm xét, đều thuộc về tinh thần, nhận thức, nên chẳng thể gọi là đúng, cũng không chi được xét xử là sai, ngoại trừ khi phát biểu thành lời hay quan niệm tạo mối liên hệ với những tư tưởng, chiều hướng khác, tùy thời, tùy nơi, do đó mới được đặt thành vấn đề. Nhận ra được điểm này, tôi cũng nhận thêm được kiểu phát biểu ám định nơi Phúc Âm. Phúc Âm không nói về luân lý mà nói về tâm tưởng, nói về nỗi thao thức, khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người, khao khát muốn nhận thức thực trạng thực thể mình là gì đối với thực thể hiện hữu vô cùng đang triền miên biến chuyển được mệnh danh ngắn gọn “Trời đất.” Đúng lúc này tôi mới hơi nhận ra mình cũng hơi thông minh một chút. Vâng, hơi thông minh vì tôi là hình ảnh của Thiên Chúa, nào có ngoa nguề chi đâu!
MỘT ĐIỂM GHI CHÚ
Đối diện với những câu Phúc Âm được tách riêng độc lập, điều cần được chú ý đó là những câu này hoặc dụ ngôn nói về sự thể tâm tư, nhận thức, nơi hành trình nghiệm xét, dẫu được dùng những sự việc hữu vi để ám định. Tự đặt mình nơi những vai trò của câu nói để nghiệm xét và để ý đến những phản ứng cảm nhận xảy đến nơi tâm tư trong diễn trình diễn biến tư duy, chúng ta sẽ nhận thức được trạng thái nơi tâm tư mình mà câu nói ám chỉ. Có câu nói thât bình thường đôi khi mới thoạt nghe hay đọc thấy có vẻ ngớ ngẩn vì ai không biết nhưng để ý một chút, câu nói càng đơn sơ coi chừng càng thâm trầm. Thí dụ, “Ai có tai thì nghe.”
1- Điều Kiện Tâm Trí
a/ Trong khi suy nghĩ, suy luận, không bám víu nơi bất cứ tư tưởng, ý nghĩ nào, Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai” (Mt. 9:16-17; Mc. 2:21-22; Lc. 5:36-38). Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc. 9:23-25; 14:33; Mc. 8:34-37). b/ Không lệ thuộc kinh nghiệm, học thức, kiến thức cũ. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). c/ Người chết về tâm linh chôn xác chết. “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”(Mt. 8:22; Lc. 9:60). d/ Không bám víu, lệ thuộc vào tình cảm, ước muốn, ý nghĩ. “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được (Mt. 10:37-39; Gioan 12:25). e/ Cần biết nhận định, tính toán, suy tư. Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán pí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 'Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.' Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối hương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà (Lc. 14:28-32). - Dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ, năm nàng khờ dại không suy nghĩ, chỉ làm theo thói quen hay điều người khác nói (Mt. 25:1-13). - Dụ ngôn Những Nén Bạc, sợ sai lầm nên không dám suy tư, nghiệm xét; lời Chúa để Chúa nghe (Mt. 25:1-28). Nơi hành trình nghiệm xét Phúc Âm cũng nhắc nhở cần thực hành nghiệm xét; thuở ban đầu rất khó nhưng lâu dần sẽ thăng tiến chẳng khác gì làm việc. “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt. 13:12; Mc. 4:25; Lc. 8:18). “Kẻ trước hết trở nên sau hết;” thực hành sẽ biết. Thoạt đầu, tâm trí sẽ bị rối như tơ vò, không biết đâu vào đâu, kể như không thâu lược được chút kết quả suy tư nào, nhưng cứ kiên trì, sau một khoảng thời gian, diễn tiến suy tư sẽ dần dần hiển lộ. f/ Trong hành trình nghiệm xét, bất cứ gì xảy đến nơi tâm tư cần được dứt khoát loại bỏ bởi nó cản trở nhận thức, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 3:29-30).
Ai có tai thì nghe (Mt. 11:15; 13:9; 13:43; Mc. 4:9; 4:23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). - Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc. 1:3) - Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). - “Người gieo giống đây là người gieo lời. Những kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền đến cất lời đã gieo nơi họ. Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì lời, họ vấp ngã ngay. Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì. Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một răm” (Mc. 4:14-20). - “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc. 9:42-48). - “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc. 10:15). - “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa (Mc. 10: 24-25). - “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (13:33). - “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc. 14:33).
2- Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu
Mc. 1:38 Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Mc. 2:2 Người ta tụ tập lại, đông đến nỗi không còn chỗ nữa, cả ngoài cửa cũng không còn. Người giảng lời cho họ.Mc. 3:14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. Mt. 4:23 “Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.” Mt. 9:35 “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” Mt. 10:7 “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.” Mt. 24:14 “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho tất cả các dân ngoại được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng”. Mc. 1:15 Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Lc. 4:18 “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.”
3- Thiên Chúa theo Phúc Âm
Mc. 13:11 “Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói. Mt. 5:43-48 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Mt. 6:4 “Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” Mt. 6:8 “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” Mt. 6:14-15 “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” Mt. 6:17-18 “Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, 6:18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” Mt. 6:25-32 “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng hông gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Mt. 7:7-12 “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người. Khuôn vàng thước ngọc. Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.Mt. 10:20 10:19 “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em. Mt. 10:27-32 “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.Mt. 11:25 Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Mt. 12:28 12:28 Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. Mt. 24:36 24:36 Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mc. 13:32) Lk. 6:36-38 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Lk. 10:21-22 “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Lk. 11:13 “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần u cho những kẻ xin Người?” Lk. 15:31-32 “Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã mất, mà nay lại tìm thấy”. Jn. 3:16-17 “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” Jn. 4:23 “Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Mt. 9:26 “Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (Mk. 10:27; Lk. 1:37;18:27). Mt. 22:32 22:32 Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống” (Mk. 12:26-27; Lk. 20:38). Mc. 10:18 “Đức Giê-su đáp: 'Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lk. 18:9).
4- Liên Hệ Đức Giêsu và Thiên Chúa
Mt. 11:27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho.” 3:17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.Jn. 5:19-27 Đức Giê-su lên tiếng nói với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. 5:21 Chúa Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý. Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.Jn. 5:36-38 “Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến.” Jn. 6:45-47 “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy do. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời.” Jn. 8:28-29 Người bảo họ: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.” Jn. 10:29-30 “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.” Jn. 10:38 “Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.” Jn. 14:6-7 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” Jn. 14:8-11 “Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: `Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy.” Jn. 17:21 để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.Jn. 17:25 Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con.
5- Liên Hệ của Thiên Chúa và Loài Người
Cor. 3:16 “Anh em không biết sao; anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em? Cor. 6:19 Anh em không biết sao; thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần (ngự) trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không còn thuộc về mình nữa. Anh em đã được mua chuộc, giá cả hẳn hoi! Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân mình anh em.” Mc. 11:25 “Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em.” Mt. 10:19 “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” Jn. 14:15-17 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.Jn. 14:20-21 “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”
6- Đức Tin
- “Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc. 5:34) - Đức Giê-su nói với ông ta: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc. 9:23) - Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi(Mc. 10:52). - Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: 'Dời chỗ đi, nhào xuống biển!', mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì điều ấy sẽ được ban cho. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý (Mc. 11:23-24).
7- Lời nhắn nhủ những ai nghiệm xét
- Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc. 6:4) - “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn (Mc.9:42) - Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (12:38-40) - Anh em sẽ nộp nhau cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mc. 13:12-13). - Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: “Này, Đức Ki-tô ở đây! Kìa, Đức Ki-tô ở đó!”, anh em đừng có tin. Thật vậy, sẽ có những ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể (Mc. 13:21-22) - Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau (Mc.9:50)
8- Vị thế người nghiệm xét
- Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy! Nhưng Người đáp lại: Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc. 3:32-35).
9- Quyền lực của ý muốn, ý định
Mc. 4:24 Người nói với các ông: “Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy, và còn cho anh em hơn nữa.” Mt. 7:12 Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó(Lc. 6:31).
Câu Hỏi 1; Có nhiều những thắc mắc mà đa số các bổn đạo không ai dám nêu ra, sợ bị mang tiếng là không hiểu đạo, rối đạo, hay lạc đạo v.v… bởi vì từ trước tới nay, hễ Phúc Âm viết như thế nào thì cứ việc hiểu theo nghĩa đen mà cắt nghĩa ra như vậy. Giáo dân không cần chi mà phải thắc mắc cả. Vấn đề thực hành được hay không thì tùy người, tùy trường hợp. Trường hợp nào thấy lợi cho mình thì áp dụng. Trường hợp nào thấy hại thì bỏ qua. Chẳng hạn câu Phúc Âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta” (Mt. 10:37), nếu đem áp dụng vào cuộc sống làm sao ai dám thực hành ngoại trừ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, nếu nói như thế, chẳng lẽ Chúa Giêsu, nói cách khác, chẳng lẽ Phúc Âm khuyên mọi người nên bất hiếu để theo Chúa? (Xin miễn đăng tên).
Trả lời câu 1. (Phúc Âm viết sao, hiểu vậy). Trước hết, Thy Loan muốn nhân cơ hội chia sẻ với nỗi e sợ của độc giả giấu tên. Đối với Thy Loan, đã bao nhiêu năm, từ ngày còn bé tí teo chưa biết gì, bố mẹ đem đến nhà thờ đè ngửa ra để bị dội nước rửa tội cho đến cách đây độ chừng vài năm, Thy Loan đã mang nỗi e sợ không thua gì. Thêm nữa, Thy Loan lại thuộc hàng nữ phái, lỡ bạo mồm bạo miệng thì ế chỏng ế chơ dầu có “chổng mông mà gào” như các cụ thường nói thì cũng chẳng ma nào dám rờ mó đến bởi ai không khiếp sợ thứ lắm mồm, lắm miệng, nhất là lại dám ăn nói đụng chạm đến đức tin, tín ngưỡng, là những điều tối kỵ nơi cuộc sống tâm linh con người. Đi nhà thờ, nghe giảng giải, dẫu cứ bị ấm ức vì thấy các đấng làm thầy giảng thuận câu Phúc Âm này thì nơi tâm trí Thy Loan lại cứ lòi ra câu Phúc Âm khác chống nghịch lại hoặc những lời giảng không thuận với lòng mình chút nào. Chẳng hạn trường hợp đang nghe cố đạo giải thích câu Phúc Âm, “Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng; còn ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:60) rằng Chúa muốn chúng ta yêu Chúa hơn cha mẹ; Chúa muốn chúng ta rao giảng Nước Trời rồi mọi sự khác sẽ được ban cho. Chúa muốn chúng ta tìm kiếm Nước Trời trước hết vì ai yêu cha mẹ, vợ chồng, con cái hơn Chúa thì không đáng vào Nước Trời. Ngày ấy Thy Loan đang ở tuổi lầng nhầng, thích một chàng thanh niên lớn hơn Thy Loan hai tuổi nhưng bố mẹ biết được do đó canh chừng kỹ lưỡng, ngăn cấm hẹn hò, vì e Thy Loan lỡ “Khôn ba năm dại một giờ,” chẳng may bợ trái bom nổ chậm thì ông bà vác mặt mo với bà con làng nước. Các bạn đã từng trải biết rõ, khi thích ai mà càng bị ngăn cấm gặp mặt thì cái tình yêu nó đến càng mạnh mẽ nhiều khi khiến lòng mình quay quắt. Thế nên Thy Loan cảm thấy cố đạo giảng trật lấc. Làm sao Thy Loan có thể yêu Chúa hơn anh chàng bồ? Nói rằng yêu Chúa, Thy Loan thường cầu nguyện như thế. Thy Loan tin Chúa nhưng nhận xét nơi lòng mình, lòng yêu Chúa chẳng có gì để so sánh với tình yêu trai gái, hoặc tình cảm thân thuộc như bố mẹ, anh em họ hàng. Nói ra sợ bạn bè hoặc bất cứ ai chê cười vì Thy Loan nghĩ, họ tin vào Chúa hơn Thy Loan hoặc yêu Chúa hơn mình. Nhiều khi đọc hạnh các thánh, Thy Loan có ý nghĩ mình sẽ không thể nào trở nên thánh được vì không có cách nào để thực hiện những điều tốt lành hay lời khuyên nhủ được viết nơi các sách đạo đức. Càng đọc, Thy Loan càng mang nặng mặc cảm tội lỗi vì mình đã không thể nào bắt chước được những gương tốt lành thánh thiện nơi sách vở để áp dụng trong cuộc đời mà có chăng chỉ ngược lại. Không hiểu quý vị cảm thấy thế nào, riêng Thy Loan, dù cầu nguyện, đặt hết tâm trí nơi lời khẩn cầu để yêu Chúa, lòng dạ Thy Loan vẫn cảm thấy quá ư lạnh lùng. Nhưng mỗi khi nghĩ đến anh bồ, Thy Loan cảm nhận được niềm hạnh phúc khó tả nhất là khi nào có dịp gặp gỡ thì trời đất, tất cả vạn vật như bừng lên sức sống tràn trề. Cũng có khi Thy Loan so sánh tình yêu Chúa và tình cảm thân thuộc nơi mình. Không hiểu những người đi tu thì sao, cứ mỗi khi ba mẹ đau hoặc anh em có chuyện gì chẳng lành xảy đến, lòng dạ Thy Loan cứ rối lên như bố vợ bị đấm; mà tình yêu đối với Chúa thì ngược lại, vẫn cứng như chân lim móng đá, chẳng gì xoay chuyển. Nhiều lần Thy Loan nghe thấy câu nói về mấy bà sơ cưới Chúa Giêsu hoặc linh mục cưới Đức Mẹ, Thy Loan thấy ngứa tai chịu không nổi muốn bật nơi cửa miệng nhưng nếu lỡ nói ra chắc chắn sẽ bị trù ẻo cho là hỗn láo, dám đụng chạm đến các đấng làm thầy hoặc các bậc tu trì, nên rán đè nén nơi cổ họng mà nhiều khi vẫn tự lẩm bẩm một mình như đứa khùng. Mà có lẽ Thy Loan mang giòng máu khùng về những chuyện không đâu nên phát sinh tâm tưởng lãng mạng không giống những người chung quanh thảnh thơi thờ ơ với những chuyện chướng tai gai mắt. Cũng có thể vì thế nên khi có người khuyến khích, Thy Loan nhận lời ngay, hy vọng có cơ hội nói lên những gì mình đã lỡ suy tư, thử xem và thách đố may ra có ai suy nghĩ giống mình chăng. Nói đúng hơn, Thy Loan muốn có được nhận định rõ ràng hơn về những suy tư của mình, bởi dẫu sao, khi tư tưởng còn trong ý nghĩ chưa chắc mang lại lợi ích thực nghiệm. Do đó, muốn có được nỗi an bình tâm tưởng, ý nghĩ, suy tư cần phải được đấu giá, xét xử. Mèo nào cắn mèo nào thì chưa biết nhưng chắc chắn rằng dẫu ý nghĩ của mình không hợp tình hợp lý thì cũng sẽ nhận ra được những thiếu sót để bổ túc cho toàn vẹn hơn.
Xin cảm ơn quý độc giả đã kiên nhẫn theo dõi Thy Loan lải nhải giãi bày. Thực tâm, Thy Loan không nghĩ Phúc Âm viết những điều chúng ta không thể áp dụng được, mà có chăng, nếu không nói quá, chúng ta đã không hiểu hoặc không dành thời giờ hay không để ý vì không muốn tìm hiểu thực sự Phúc Âm muốn nói với chúng ta điều gì. Một thí dụ điển hình, Phúc Âm có câu, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12; Lc. 6:31). Thy Loan nghĩ, chẳng lẽ Thy Loan thích ăn ớt (dân Huế mà), nhưng khi mời thực khách lại cứ nấu món ăn theo ý thích và ước muốn của mình thì lời Phúc Âm biến thành tai họa, cả vài tháng gân cổ ra mà kéo cũng vẫn phạm tội phí của trời! Thêm vào đó, nơi Khổng học có câu, “Đừng làm cho người khác những gì ta không muốn họ làm cho mình.” Câu này hợp lý hợp tình trong mọi trường hợp. Nhận xét như vậy, tự ái Thy Loan nổi lên đùng đùng. Thy Loan tin vào Chúa Giêsu (con chiên nằm ngửa mà) chẳng lẽ lời Chúa thua kém sự khôn ngoan nơi Khổng học sao? Phải có lý nào đó ẩn tàng phía sau câu nói chỉ đúng được một nửa này, Thy Loan tự nghĩ, nhưng nghĩ mãi mà chưa biết phải suy nghĩ thế nào. Nếu có ai ngứa miệng chỉ dùm sao cho hợp lý hợp tình, Thy Loan hứa đãi một bữa bún bò Huế không nêm ớt! Cũng xin trình bày rõ ràng, Thy Loan không hiếu khách hay tử tế gì nhưng đây là vấn đề hy sinh vì ước muốn hiểu biết về Phúc Âm bởi kẻ bỏ công sức thì đáng hưởng nhuận thù lao cho phải lẽ công bằng; chứ trường hợp này không phải lòng bác ái hay bác ố chi cả.
Riêng câu Phúc Âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta” được viết kèm với câu, “Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Ta” (Mt. 10:37). Hai câu này đã làm cho Thy Loan luống cuống nhiều phen tương tự như đã nói phần trên. Vô tình, có lần Thy Loan tới thăm gia đình một người bạn đúng lúc hai vợ chồng đang cãi nhau. Vì đã quá quen, Thy Loan không ngần ngại hỏi họ có chuyện gì đã xảy ra theo thói quen tốt lành nhưng nhiều khi phải làm quan tòa bất đắc dĩ vì sự ngứa miệng tốt lành này. Cũng may, hôm đó sự thể không có gì đáng quan trọng mà ngược lại Thy Loan học thêm được vài điều cũ rích vì đã bao lâu nay không để ý nên trở thành quá mới lạ. Số là vợ chồng người bạn có đứa con gái tới tuổi lầng nhầng, lại ương bướng chẳng kém gì Thy Loan ngày xưa. Ngoài giờ học, con bé tối ngày đàn đúm hoặc ôm phone nói chuyện với bạn bè. Chị vợ la mắng, dùng đủ cách, đủ kiểu dạy bảo con nhưng chứng nào vẫn tật nấy, con bé lại cứ đẹp ra, cử chỉ, tính nết dưới mắt mẹ càng ngày càng hoang đàng hơn khiến chị ta lo lắng ngày nào đó sẽ mất con hoặc ôm hận vì đã không dạy dỗ được con. Còn anh chồng thì cởi mở hơn, chấp nhận cuộc đời nổi trôi muốn đến đâu thì đến. Anh quan niệm rằng, con cái do mình sinh thành dưỡng dục nhưng chúng không thuộc về mình, cũng như mình có thuộc về cha mẹ mình đâu. Mỗi người được sinh ra có lý do riêng, có cuộc đời riêng, và tất cả những biến chuyển trong cuộc đời đều là những cơ hội cho một người thăng tiến để trải qua hành trình nào đó hầu đạt tới mức độ mà người đó được sinh ra để đạt tới nên chị vợ nói thế nào, cùng lắm anh chỉ răn đe con mình cách cầm chừng, đôi khi lại còn thủ thỉ hỏi ý kiến, lý do, với đứa con gái có kiểu cách sớm khôn hơn tuổi đời. Sau khi nghe vợ chồng người bạn phân trần, Thy Loan bỗng nổi hứng tinh nghịch, giả bộ ngớ ngẩn hỏi,
-Vậy anh chị có thực sự thương nhau không?
-Cái bà này hỏi ngớ ngẩn; vợ chồng thì sao không thương nhau. Có như bà ấy, đám nào cũng chê ỏng chê eo, bộ bà định đợi ngày làm gái già hay sao?
-Ơ cái bà này, tôi đã mất công banh tai làm quan tòa không lương nghe hai ông bà trút bầu tâm sự cả tiếng đồng hồ vẫn chưa được miếng nước chào khách; mà mới lên tiếng thẩm vấn lấy cung xét xử bà đã đem tôi ra làm đề tài khinh miệt, không sợ bị phạt vì tội mạ lỵ quan tòa sao?
-Thưa quan tòa làm ỏng làm eo, vợ chồng chúng em không thương nhau mấy, chỉ tại em quen dạ đẻ cách năm đôi!
Chị bạn miệng ỏn ẻn lên giọng lặp lại thơ Trần Tế Xương trong khi tiến tới tủ lạnh lấy nước mời khách. Có lẽ vì đối với bạn bè Thy Loan ăn nói hoang đàng bất cần nên chị ta bị ảnh hưởng lây chăng. Không tha, Thy Loan vẫn giả vờ ngây thơ hỏi tiếp, coi như không có chồng chị ta hiện diện,
-Thế chị lấy chồng được bao nhiêu năm rồi?
-Con khỉ. Con lớn tao mười bốn thì tao lấy chồng mười lăm năm rồi mà còn hỏi ngớ ngẩn!
-Thế trong mười lăm năm qua, hai người đã cãi nhau bao nhiêu lần, đánh nhau bao nhiêu trận?
-Dạ thưa “con mẹ tự dưng lẩn thẩn,” đã là vợ chồng thì chuyện cãi nhau phải xảy ra như cơm bữa. Những lời yêu thương mấy ngày đầu nói hết rồi thì phải bới chuyện ra mà cãi nhau chứ chẳng lẽ không có chuyện gì để nói miệng cứ câm như hến rồi dưng trố mắt ra mà ngó nhau cho hợp với câu “Chồng đẹp vợ đẹp chỉ nhìn mà no” sao?
-Vậy lý do gì khiến hai người thường bới chuyện cãi nhau; phải nói cho đúng mới xét xử được! Thy Loan cố giả bộ ngây thơ nhưng đến lúc này cái ngây thơ của Thy Loan ngớ ngẩn quá đến độ chính mình cũng phải cười phì ra. Thế nhưng chị bạn đưa mắt liếc chồng thật tình tứ và với giọng âu yếm nhẹ nhàng,
-Thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ vì người ý kiến này, kẻ ý kiến khác, chẳng ý nào hợp ý nào nên khuấy động bầu không khí thay vì xem ti vi ồn ào mà thôi...
Thy Loan chợt hỏi một câu thật bâng quơ đến nỗi chính mình cũng cảm thấy bất ngờ,
-Vậy nếu thương chồng hơn ý kiến của mình, phỏng còn có thể bới chuyện cãi nhau không?
-Bà nói giống tiểu thuyết; nếu đã như vậy cuộc đời này làm gì có cảnh chén bát đụng nhau và nhiều khi đĩa bay chén, đũa cũng bay.
Bỗng đâu ngay lúc ấy câu Phúc Âm gợi về, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, ắt không xứng với Ta.” Thy Loan như người bừng tỉnh giữa cơn mơ ngày, vì vô tình, chuyện cãi cọ của đôi vợ chồng người bạn đã phần nào nên như tia chớp soi sáng tâm trí Thy Loan cảm nhận được ý nghĩa câu Phúc Âm mà đã bao lâu không thể nào chấp nhận được. Phúc Âm viết kiểu này chỉ khiến người ta điên đảo và làm cho những đầu óc quen tính toán chuyện thế tục rơi vào cảnh “ông nói gà bà nói thóc” rối tung lên thôi. Dẫu người Việt đã quá quen thuộc nếu không muốn nói ngụp lặn trong kho tàng Tục Ngữ, Ca dao. nêu lên chuyện thường tình ai cũng biết nhưng ý nghĩa ám định về vấn đề nào đó khó mà nhận ra nếu không để ý suy tư, nghiệm chứng, phương chi nói đến chuyện áp dụng nơi cuộc sống thế nhân, đặc biệt Phúc Âm lại chỉ ấn định nơi hành trình suy tư tâm linh. Ai không biết Phúc Âm nói về phương diện tâm linh, tâm hồn, nhưng đã hơn kém hai ngàn năm sao những dụ ngôn, những câu khôn ngoan nơi Phúc Âm vẫn còn như bí mật chưa được bật mí. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao, những câu thơ lục bát với vần điệu hoàn chỉnh, dùng những sự kiện thường tình nơi cuộc sống dân quê để ám chỉ ý tứ khôn ngoan thâm trầm cho dẫu biết nằm lòng nhưng nếu không để ý suy tư thì cũng như nước đổ đầu vịt. Dân quê nào lạ gì, “Ăn cơm mắm, ngắm về sau, ăn cơm rau, nhớ sau, nhớ trước,” thế sao những lời chân thành, mộc mạc dân quê nhiều khi khiến người nghe nhức nhối.
Dù thương nhau như vợ với chồng, hoặc cha mẹ đối với con cái, nhưng thử hỏi, trong cuộc đời đã bao nhiêu lần cha mẹ, con cái xảy ra những chuyện xích mích. Vợ chồng kẻ như giỏ, người như hom để kiến tạo gia đình, tình nghĩa không gì sánh bằng, “Mẹ cha bú mớm nâng niu; tội trời đành chịu không yêu bằng chồng;” thế sao những chuyện bất bình nhiều khi tới độ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay xảy đến. Hai vợ chồng người bạn của ThyLoan cãi nhau cũng chỉ vì vợ quan niệm con gái nên ăn mặc hoặc kiểu cách đoan trang theo ý mình trong khi người chồng chấp nhận cho con theo thời, hợp với phong cách đa số bọn trẻ lúc ấy. Như vậy, dẫu cho tình nghĩa như vợ chồng cũng không thân thiết bằng tư tưôûng, quan niệm của mình đối với chính mình. Phúc Âm dùng cha mẹ, con cái để ám chỉ quan niệm, sự hiểu biết nơi mình khi đối diện với câu nói khôn ngoan. Kẻ nào còn bo bo, cố chấp với quan niệm, sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình, không thể nào hiểu được hoặc chấp nhận lời khôn ngoan nơi Phúc Âm. Nếu thực tâm cố suy tư Phúc Âm thì đành chấp nhận phải buông rơi những quan niệm bình thường theo thói quen của mình và cố tìm hiểu cho ra lẽ đúng của câu Phúc Âm nơi mọi trường hợp. Có thể đây là ý nghĩa thực nghiệm của câu: “Không ai làm tôi hai chủ” (Mt. 6:24; Lc. 16:13).
Xin thưa vị nào hỏi dấu tên, Phúc Âm không khuyên người đời bất hiếu đâu. Thy Loan nghĩ, sở dĩ chúng ta hiểu lầm những câu nói nơi Phúc Âm vì chúng ta đã hiểu không đúng ý Phúc Âm muốn nói. Có lẽ chúng ta quá quen với lề lối suy luận bình thường nên không muốn để tâm đặt vấn đề tại sao Phúc Âm lại nói như thế, hoặc, nói cho đúng, chúng ta quá để ý những chuyện sống thường ngày nên quên suy tư những câu nói quá ư thâm trầm nơi Phúc Âm. Thế rồi lâu dần thành quen, chúng ta dành việc suy nghĩ cho những bậc tu trì trong khi những bậc tu trì lại quá bận rộn với sự phát triển tổ chức tôn giáo thì cũng chẳng khác gì mọi người mà nhiều khi còn không có thời giờ lo cho đường tu đức của họ. Bạn thử nghĩ coi, câu “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, ắt không xứng với Ta” đã khiến bạn nhức nhối biết bao lâu để đến nỗi phải viết lên câu hỏi mà vẫn không dám cho người khác biết tên thật của mình. Thế còn những câu Phúc Âm khác mang đầy vẻ ngang ngược tiếp tục thách đố bạn thì bạn tính sao. Khổ nỗi, Thy Loan nhắc lại lời bạn đã viết, “Có nhiều những thắc mắc mà đa số các bổn đạo không ai dám nêu ra, sợ bị mang tiếng là không hiểu đạo, rối đạo, hay lạc đạo, v.v...” Thực tâm mà nói, như bạn và mọi người nhận thấy, điều đáng sợ nhất lại là tâm tình “Sợ bị mang tiếng.” Thy Loan dám khẳng định, nếu bạn đã e sợ bị rối thì chắc chắn không thể nào rối được mà chỉ những ai kết án bạn rối mới chính là người rối bởi họ đã không dám suy tư, không dám đặt vấn đề về những điều họ tin tưởng. Như thế, cho dẫu họ có tin tưởng đến mấy, tâm hồn họ cũng chỉ như một thùng rác chất chứa những cặn bã của muôn người thải ra được nhồi nhét vào đó mà thôi. Nói thực, xin bạn miễn chấp, kẻ ôm ấp những cặn bã này chính là người “Hễ Phúc Âm viết như thế nào thì cứ việc hiểu theo nghĩa đen mà cắt nghĩa ra như vậy” theo như lời bạn đã viết.
Câu hỏi 2: Phúc Âm dạy rằng, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16b) mà Chúa Giêsu lại không thực hành lời Ngài dạy để đến nỗi chết treo trên cây thập tự. Chúa Giêsu đã không áp dụng những lời Ngài dạy thì theo gương Ngài, chúng ta đâu cần biết đến Phúc Âm? Làm sao con rắn và chim câu có thể ở chung với nhau? Một người mà tính tình độc hại như con rắn làm sao có thể sống chân thực như chim câu hoặc ngược lại? Chẳng lẽ Phúc Âm dạy người ta phải ma giáo hay thủ đoạn?
Trả lời câu hỏi 2, Ma giáo hay thủ đoạn? Dân gian có câu: “Bò khôn tránh nắng, rắn khôn giấu đầu.” Nếu chỉ dựa vào những lời khôn ngoan thế tục (suy nghĩ theo nghĩa thường tình con người vẫn quen thực hành), câu Phúc Âm, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16b) chắc chắn mang nghĩa khuyên con người trở nên giả hình, ma giáo, ma đạo, đểu cáng, v.v... nếu không muốn nói là bất trắc. Thực ra, kẻ mà không ai thấy phạm bất cứ lỗi lầm nào có thể là người khéo che giấu đến nỗi dù những người thân cận nhất cố bới lông tìm vết cũng không thể kiếm thấy bất cứ điều gì sơ sót. Đã là người, ai cũng lầm lỗi không ít thì nhiều; tất nhiên, kẻ không ai có thể nhận ra lầm lỗi phải là tay siêu phàm che giấu mặt trái của họ nơi bất cứ phương diện gì. Hơn nữa, nếu người nào đó không bao giờ thấy mình lầm lỗi chắc chắn họ phải đặt lại vấn đề lương tâm. Điều rõ ràng ai cũng có thể nhận thấy đó là càng những vị đức độ cao siêu càng để lộ những lầm lỗi ngang tàng nếu xét theo nhận thức thế tục, hữu vi; càng những vị tôn quí càng tuyên xưng mình nhiều lầm lẫn và những điều được gọi là lầm lẫn này lại được họ coi là những cơ hội giúp họ thăng tiến bản thân đạt dần tới sự toàn hảo.
Điều khó giải quyết nơi câu Phúc Âm chỉ là sự đối nghịch giữa tính chất độc hại của con rắn lại được xếp đặt gắn liền với chim câu chân thực. Như vậy, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để một người vừa độc hại, vừa chân thực? Đồng ý rằng, cũng có những con rắn không có nọc độc và hiền lành. Tuy nhiên, thử hỏi khi nói đến rắn, ai không vội nghĩ con rắn tất nhiên phải thuộc loại độc hại chết người; chả thế mà Kinh Thánh đã mượn con rắn để nói lên sự lừa đảo, gian dối, độc hại của nguyên tổ hạng dối gian (Thy Loan nói theo kiểu nhà đạo để phần nào chứng tỏ mình con nhà đạo gốc, đạo nằm).
Những ý nghĩ trên đã nhiều lần đến với Thy Loan cứ mỗi khi được diễm phúc nghe cố đạo giảng giải về câu Phúc Âm này. Cố nào chịu đọc sách thì nhắc lại được câu “Rắn khôn giấu đầu” và từ đó diễn dịch thành sự khôn ngoan nhà đạo. Thy Loan nghĩ, cần gì phải giấu đầu giấu đuôi, nếu chuyện gì đó không muốn cho ai biết thì đừng làm có phải dễ dàng và thanh thản hơn không! Những chuyện phải làm, đáng làm, và nên làm thì có gì mà phải giấu đầu che đuôi. Thiên Chúa ban cho con người sự sống và cuối cùng bắt ai cũng phải chết; nói cách khác, Ngài phải giết chết hết mọi người dầu sự chết đến với mỗi người cách khác nhau thì ai dám làm gì đây? Ngài không cần che đầu, giấu đuôi mà chẳng ai tránh thoát và dẫu loài người muốn chống đối cũng chẳng được; bởi đó là việc Ngài phải làm, bị làm, đáng làm, và nên làm. Chỉ những chuyện ma giáo vặt hoặc mưu đồ những việc chẳng nên mới e sợ người khác biết nên phải giấu đầu, tránh mặt kẻo lòi ra cái đuôi độc hại của mình. Ah! tưởng quan trọng thế nào chứ, muốn giấu đầu, tránh mặt, thì cứ “Xít chó bụi rậm,” làm thày dùi tất nhiên an toàn đâu cần phải lo lắng giấu, che! Nghĩ thì nghĩ thế nhưng Thy Loan lại không chịu chấp nhận đồng hóa “Khôn ngoan như con rắn” với “Xít chó bụi rậm” vì nghe nó kỳ kỳ làm sao ấy vả lại chẳng hợp lý, hợp tình chút nào; dẫu sự áp dụng nơi con cái loài người quá ư tuyệt vời về điểm này. Nghề của quý vị quân sư, thày dùi mà! Vì khổ nỗi, nếu nói như thế sao có thể phù hợp với câu Phúc Âm, “và chân thực như chim câu?”
Suy nghĩ lăng quăng mới thấy câu Phúc Âm nói vậy nhưng không phải vậy. Xin quí bạn cho ý kiến, có phải tại Thy Loan bới bèo ra bọ hay tại cố tìm sự khó đến cho mình. Có điều, nói có sách, mách phải có chứng, và thêm vào đó, sách và chứng phải hợp lý, hợp tình. Chỉ hợp lý mà không hợp tình đó là lý gàn không mang lại lợi ích thực tiễn, thì cho dù mang Chúa ra mà hù cũng chẳng ơn ích gì mà trái lại chỉ chứng tỏ sự lạm dụng. Hợp tình mà không hợp lý đâu cần phải nói đến vì nơi cuộc sống này thiếu gì chuyện vô lý đã xảy ra và được mọi người chấp nhận như giáo điều, với niềm hy vọng không tưởng. Thy Loan cảm thấy rất khó chịu và khinh thường những người đem Chúa, đem Đức Giêsu, đức tin, như những lá bùa hộ mạng và áp đặt trên lý thuyết nào đó cố ý gieo vào lòng con người mặc cảm tội lỗi, và rồi đã có những trường hợp xảy ra. Cố bảo con chiên đóng tiền xây nhà xứ, con chiên không chịu, cố lên tòa giảng phán rằng, “Ai không nghe con là không nghe Cha.” Dùng Phúc Âm kiểu này chỉ có thể giảng cho những người không có tai bởi Phúc Âm nhiều lần nhắc đi nhắc lại, “Ai có tai thì nghe.” Vì thế cho nên, đã nhiều lần bởi cứ bị nghe người ta nói Chúa dạy thế này, bảo thế kia, Thy Loan thử hỏi lại, “Chúa có cái miệng không mà sao Thy Loan chưa bao giờ nghe thấy Chúa nói; chẳng lẽ Chúa thiên vị, chỉ nói với người này mà không nói với người kia,” thì lại bị người bảo Chúa nói cho rằng bướng, nói ngang.
Một lần không có sách vở gì hấp dẫn, Thy Loan vớ đại cuốn Chu Dịch được viết do cụ Phan Bội Châu. Thy Loan đọc mấy chương đầu mà chẳng hiểu cụ viết gì, nên lật bậy lật bạ vài quẻ. Nơi quẻ “Thiên Địa Bỉ” có phần cụ giải thích đại khái ở thời nhiễu nhương tiểu nhân hoành hành và nắm chủ quyền; thế nên, đạo trình của quân tử gặp hồi này chỉ nên tiềm tàng thối ẩn (CD; I; Tr. 290), chẳng nên làm gì cũng chẳng nên nói gì vì dẫu làm bất cứ gì hay nói bất cứ gì cũng trở thành cớ cho kẻ tiểu nhân làm hại mình. Chỉ có hai điều người quân tử có thể thực hiện đó là tự học hỏi thăng tiến bản thân và nếu có thể, viết sách. Thy Loan nghĩ, tiểu nhân nắm quyền, giữ chức thì mặc họ, mình chỉ là thứ phó thường dân nào ai thèm đếm xỉa tới, đâu mắc mớ gì.
Vào một buổi tối, Thy Loan nổi hứng mở tivi coi phim western, gặp ngay phim “The Good, the Bad, and the Ugly.” Dẫu coi chùa nhưng cứ bực mình với những mục quảng cáo không đâu, và không hiểu vô tình hay hữu ý, qua phim truyện Thy Loan nhận ra rằng, khi một sự việc gì xảy đến, chúng ta có thể dự đoán phản ứng của người với tâm địa tốt lành hoặc xấu xa, nhưng không ai có thể dự đoán được phản ứng của kẻ bất trắc (ugly). Ý nghĩ này giúp Thy Loan hiểu rõ hơn về ý nghĩa ngôn từ “Tiểu Nhân” cụ Phan Bội Châu dùng trong cuốn Chu Dịch. Như vậy có thể nói theo Dịch học, nơi thời đại nhiễu nhương, người tốt lành dù nói gì hay làm gì theo tâm lượng ngay chính cũng trở thành sự cản trở cho những ý đồ ma mãnh của kẻ tiểu nhân nên chúng phải dẹp mình.
Và rồi cũng một hôm, Thy Loan ngứa tay mua bậy cuốn Trang Tử và Nam Hoa Kinh do Nguyễn Hiến Lê dịch vì đã mấy lần đọc sách diễn giải về Nam Hoa Kinh hay cuốn Trang Tử Tinh Hoa do cụ Nguyễn Duy Cần biên soạn, Thy Loan chẳng hiểu mù gì. Nào là “Thiên địa bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm,” nào “Bậc chí nhân vô tâm,” nào “Bậc chí nhân không thân ai cả,” cứ rối mù lên chẳng khác gì rợ vào rừng. Khi đọc sách dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê, Thy Loan mới nhận ra rằng nhiều điều đã đọc nhưng vì cụ Ng. D. Cần bàn thêm thành ra vì để ý đến lời bàn không thể chú ý tới những điểm mình nên biết. Một trong những điểm này, Trang học khuyên, vì chúng ta có thân xác như mọi người nên sống và hành động như mọi người, nhưng trong lòng khác hẳn. Bắt được điểm này, con rắn nơi Phúc Âm trồi ra... khôn ngoan như con rắn hoàn toàn mang nghĩa khác vì đó chính là sự tính toán, cân nhắc, nghiệm chứng, chứng ngộ; nó mang ý nghĩa tâm linh chứ không phải tranh đua, thủ đoạn kiếm mối lợi thế tục như Thy Loan thường nghĩ.
Như vậy có thể nói, câu Phúc Âm, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16b) mang nghĩa hoàn toàn khác hẳn lối suy luận bình thường thế nhân đồng thời lại là lời khôn ngoan nói về mẫu mực sống không những tâm linh, luân lý, mà ngay cả chính trị, chính em thế tục. Một người, sống sao cho hòa hợp với mọi người chung quanh nhưng lòng dạ không đua đòi, chiều theo ai mà cần có nhận thức riêng của mình nơi mọi phương diện. Đại khái sống ý thức chứ không hùa theo bất cứ nhận định, quan điểm nào. Bởi vậy Thy Loan có thể trả lời thẳng thừng, câu Phúc Âm Mt. 10:16b thể hiện tâm trí của người tìm hiểu nó. Nếu người đó có khuynh hướng phát triển về tâm linh, nó thật tuyệt vời. Nếu người đọc tâm hồn bất chính, nó sẽ có nghĩa bất chính. Có lẽ nó là tấm gương phản ánh lòng người chiêm nghiệm. Mình ra sao, sẽ hiểu nó như vậy.
Nhưng câu này có giá trị gì và liên hệ thế nào đối với Phúc Âm? Tại sao và điều kiện nào Phúc Âm dạy chúng ta cần phải khôn ngoan như con rắn? Đàng khác, nơi câu hỏi bạn đặt vấn đề “Đức Giêsu không thực hành câu này,” tức là bạn đã suy luận khá nhiều mới dám nêu lên điểm ít ai dám nghĩ tới. Bình thường, tất cả các giaùo phái thuộc Thiên Chúa Giáo, giáo sỹ, giáo dân chỉ nói đến, hoặc ca tụng một Đức Giêsu quyền phép, luôn luôn đúng dẫu đôi khi gặp những câu nói họ không thể áp dụng được thì, như bạn thấy, họ vẫn cố viện những lý lẽ quá ư lệ thuộc luân lý thế tục, gán ép bằng mọi cách hình như cố gắng đẩy Ngài càng ngày càng cách xa loài người cho tiện bề quảng cáo, không cần biết Phúc Âm nói gì.
Bạn đã bao giờ đọc lời giải thích của câu, “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” nơi cuốn Tân Ước mới in năm 1994 tại thành phố HCM chưa? Nơi trang 93, phần giải thích được viết, “Ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất cũng phải được xét lại: người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Kitô lên trên mọi tương quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa. Quả là một đòi hỏi quyết liệt và tuyệt đối, chưa hề có ông thầy nào dám đưa ra cho môn đệ của mình. Nguyên điều này cũng mặc nhiên cho thấy Chúa Kitô chính là Thiên Chúa.” Thử hỏi ai có thể thực hành được lối giải thích này. Thy Loan không nghĩ rằng nhóm phiên dịch 14 người tên tuổi in rõ ràng nơi đầu sách hiểu họ đã viết điều gì! Thực lòng mà nói, Thy Loan có thể mạo muội cho rằng họ đang vô tình giải thích để minh chứng lời Phúc Âm trở thành không tưởng. Và lại dùng điều không tưởng này chứng minh Ngài là Thiên Chúa! Quái lạ! Lời Phúc Âm được họ tuyên xưng là lời của Chúa mà không thể thực hành, áp dụng, nơi cuộc sống con người được thì tốn tiền in ấn để làm gì? Vinh danh nào phát xuất từ những điều vô bổ như vậy? Suy luận và nhận định như thế nhưng Thy Loan vẫn ngoan cố đọc lời giải thích về sự khôn ngoan của con rắn nơi bản dịch Tân Ước của 14 dịch giả. Lạy Chúa tôi! Họ giải thích lời Chúa rất hợp câu, “Người ta canh kiệu thì ngon, Tôi canh hương án thì đòn vào lưng.” Lẽ đương nhiên, ai đọc sẽ biết.
Trở lại câu Phúc Âm nghịch thường, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16b), phần trước của câu này còn nghịch thường hơn, “Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói.” Các bạn thấy Đức Giêsu ngang ngược chưa? Đã biết môn đồ, những kẻ theo Ngài, tin tưởng nơi Ngài như chúng ta, dốt nát, ngu đần, nhưng hiền hòa như con chiên (những kẻ theo, tin tưởng nơi Ngài được gọi là con chiên), thế mà Ngài dám cả gan “Xít chó bụi rậm” thì còn kiểu cách nào ngang tàng hơn; nào đâu khác gì người quân tử lâm vào thời nhiễu nhương của kẻ tiểu nhân, bất trắc nắm chính quyền. Tất nhiên, nơi trường hợp khó khăn này, nói cũng chết, hành động càng chết. Tuy nhiên, nếu lấy sự khôn ngoan nơi Dịch học, Trang học để áp dụng, vẫn không thể nào giải thích cho thuận lý, phê phê được. Thêm vào đó, Thy Loan vẫn e ngại quý vị tín đồ quá khích cho rằng rối đạo hoặc tà đạo. Dẫu nghĩ như vậy, Thy Loan vẫn không chấp nhận được kiểu theo đóm ăn tàn bói dựa. Lời Chúa mà phải dựa trên mẫu mực luân lý thay đổi theo địa phương và thời điểm thì sự diễn giải quả quá ư nghèo nàn nếu không muốn nói là đã hạ cấp, biến lời Chúa thành phương tiện tìm kiếm vinh danh thế tục.
Đọc nơi sách Cách Ngôn, thường được cho rằng sách khôn ngoan của vua Salomon, chúng ta thấy ba câu, câu thứ nhất nơi đoạn 23, câu 9, “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói.” Câu thứ hai nơi đoạn 26, câu 4, “Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó.” Câu số ba, nơi câu 11 của đoạn 26, “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó.” Nếu đem cả ba câu này gom lại cũng không thể nào so sánh với câu Phúc Âm Matthêu, đoạn 7, câu 6, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Nói chung, tất cả bốn câu này đều khuyên người khôn ngoan, phương thức đối đầu với những kẻ thiếu suy tư, thiếu ý thức, hoặc không chịu nhận biết, không muốn thăng tiến tâm linh. Tuy nhiên, bốn câu này chỉ có thể áp dụng nơi những trường hợp bình thường. Bởi thế, nếu rơi vào vị thế “Chiên vào giữa sói,” thái độ “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” thực sự tuyệt vời. Nhận định như vậy, ai dám nói nghe sao biết vậy về lời Phúc Âm? Đã lỡ được nghe, bị nghe mà không suy tư, nghiệm chứng, những câu nói nghịch thường này sẽ trở thành án phạt!
Nói rằng Đức Giêsu “không thực hành lời Ngài dạy,” theo sự nhận định đơn thuần, Thy Loan đồng ý. Tuy nhiên, phỏng còn cách nào cho Ngài chết hợp lý hợp tình hơn? Phúc Âm viết Ngài chữa những bệnh bất trị nơi thời đó thì bệnh tật nào có thể giúp Ngài chết hợp tình hợp lý. Những nguyên nhân rủi ro, chẳng may, lại càng phi lý hơn. Như vậy, Ngài phải chết treo trên thập tự như tác phẩm của những đầu óc u mê, không chịu suy tư, nghiệm chứng về lời Ngài giảng dạy mới thực sự hợp lý hợp tình và thuận sự khôn ngoan. Ấy, cái khôn ngoan bị chúng ta coi thường. Phỏng ai có thể nghĩ cách chết nào cho Đức Giêsu tuyệt vời hơn?
Có lần vô tình đọc được đâu câu nói, “Hãy khôn ngoan như chim câu và chân thực như con rắn...” ThyLoan đã vội thầm trách tác giả trích sai. Nhưng không, đọc tiếp đôi hàng, ThyLoan nhận ra tác giả cố ý đổi ngược lại câu Phúc Âm chẳng khác gì nơi cuốn Cái Cười của Thánh Nhân, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch, “Hạnh phúc thay những kẻ ngu đần” trong khi Kinh Thánh được dịch là “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo” (Mt. 5:3). ThyLoan thầm nghĩ, quả thật hạnh phúc biết bao đối với những kẻ khó mà nghèo bởi họ giầu có quá sức tưởng tượng. Kể cũng có lý, dân gian có câu, “Ngu si hưởng thái bình” thì những kẻ ngu đần được hưởng hạnh phúc do không phải ưu tư lo lắng, tính toán, hoặc bon chen giống như những người giầu có tới độ nứt đố đổ vách là điều rõ ràng. Kinh nghiệm sống chứng minh, những người nghèo khó, chân lấm tay bùn, chạy ăn từng bữa một chẳng phải lo lắng gì, đêm ngủ yên giấc từ tối tới sáng, không e sợ trộm cắp; vì kẻ trộm đâu ngu dại gì viếng người khố rách áo ôm. Những người làm thuê, hết giờ, hết việc ra về thanh thản trong khi chủ hãng vẫn còn lo cắm cúi tính toán tới lui. Bởi thế, ThyLoan thử suy nghĩ xem ý định của tác giả đảo lộn câu Phúc Âm muốn nói gì. Thì ra tác giả đưa lên quan điểm theo lối nhìn chính trị. Người mà mình phải kết bạn thân thiết nhất chính là kẻ mình thù hận nhất. Ai không sợ rắn; cho nên, tự con rắn đã chân thực khiến bất cứ ai trông thấy nó phải đề phòng. Nhưng nơi trường hợp một người mang ý đồ hại mình, lân la kết bạn, bề ngoài mang vẻ dễ thương, hay giúp đỡ, chiều chuộng, trong khi mình vô tình, lòng ruột, tim gan phèo phổi có sao phun ra hết để rồi đến lúc nào đó, con bồ câu dễ thương, thân thiết dở ngón hạ thủ thì mọi sự đã được an bài. Hèn chi những người trong ngành gián điệp bị cấm ngủ chung phòng với bất cứ ai khi mang một sứ vụ quan trọng nào đó. Nơi cuốn Quân Vương cũng có lời khuyên vị vua nên coi chừng những người anh em họ hàng về đàng vợ, hoặc khi toan tính những chuyện lớn lao có liên hệ tới sự thăng trầm của đất nước các vị vua không nên ngủ chung phòng với bất cứ ai lỡ trong lúc ngủ mơ nói lộ điều bí mật cần giữ kín. Lời khôn ngoan hiểu kiểu nào cũng được... và chính nhận định của mình về câu khôn ngoan lại phản ảnh trung thực tâm tính con người của mình.
Xét như vậy, bạn nhận định rất chính xác; Đức Giêsu không thực hiện điều khôn ngoan ngài dạy vì ngài không làm chính chị, chính em, cũng như không làm gián điệp, và cũng không cần cơ binh trên trời đấu lại với cơ binh La Mã đến bắt ngài. ThyLoan muốn tán thêm vài câu nhưng e đụng chạm con dân nhà đạo lỡ không được thông cảm thì phiền lắm lắm; đành cố nuốt nỗi ấm ức, mặc ai hiểu sao thì người đó mang tính cách như thế.
Câu hỏi 3: Nếu nói rằng Chúa Giêsu chết vì tội lỗi loài người thì cứ việc tha hồ phạm tội. Đàng nào Ngài cũng đã chết!
Trả lời câu hỏi 3: Chúa đã chết vì tội lỗi loài người nên tha hồ phạm tội. Sao bạn bới ra được câu hỏi hóc búa như thế? Thy Loan nghĩ, bạn nên dành câu hỏi này cho cố đạo mới đúng. Tuy nhiên, có lẽ cũng như Thy Loan, chắc bạn ớn gặp cố đạo để nêu lên câu hỏi đầy cạm bẫy này bởi nó chẳng ăn nhập gì tới Phúc Âm mà đánh thẳng vào niềm tin cũng như lòng e sợ của những con chiên tốt lành, bảo sao nghe vậy, may ra có cơ hội lạm dụng kẽ hở giả đò vô tình nhưng cố ý làm bừa hầu dựa vào lòng nhân từ của Chúa; trong khi lòng thích thú hứa, lần này con dốc lòng chừa và lần sau con xin cứ vậy. Không biết tâm tình của bạn cũng như độc giả thế nào, bởi vậy Thy Loan chỉ có thể nói lên điều mình cảm nhận mà thôi. Xin quý vị miễn chấp cho lòng thành cố tình vấp phạm này.
Xét về bản chất câu hỏi, thoạt mới nghe qua quả là quá ư đơn thuần và ngây ngô nếu không muốn nói là ngờ nghệch. Tuy nhiên, mới định dợm trả lời hoặc đọc lại câu hỏi lần thứ hai, tính chất đơn sơ của câu hỏi đã vội trở thành ngoắc ngoéo, quặt quẹo, công, thủ lẫn lộn chẳng khác gì con nhím khi gặp nguy hiểm xù những gai nhọn, chưa đụng tới đã thấy ớn da gà! Thôi thì phóng lao đành phải theo lao vì dẫu ăn năn thì cũng đã muộn. Thy Loan rán gồng mình thử khua môi múa mỏ may ra xóa bỏ được nỗi hối hận đã lỡ lì lợm chui vào hang cọp, Lời Chúa. Hy vọng rằng có cố đạo nào đó chịu đựng không nổi, liều mạng nhảy vô đỡ dùm cho Thy Loan vài ngón đòn vì lỡ ngây ngô dám nuốt thuốc liều tưởng rằng cuộc đời chỉ là đám vườn hoang nên cả gan huênh hoang múa gậy. Cầu mong sao đừng “Gậy ông đập lưng tui” đã là may mắn lắm rồi.
Hơn nữa, Thy Loan cần phải minh xác trước khi múa gậy, đó là dù triết học, thần học, hay bất cứ thứ học nào chăng nữa cũng bắt nguồn từ suy tư của con người. Như vậy, để tránh những lối lý luận dùng ý kiến này, tư tưởng kia của những vị nào đó hòng “cả vú lấp miệng em” để kết án những ý kiến không thuận với quan điểm của mình; Thy Loan chỉ trả lời theo sự cảm nghiệm cá nhân. Sự khôn ngoan trên thế gian dẫy đầy nhưng cả ngàn kho khôn ngoan cũng không thể giúp cho một người thoát khỏi cơn đói đang hoành hành. Do đó, ai thích nhào dzô cuộc chơi thì đem đôi “tay vo” của mình ra mà thử. Những ngón đòn “Bàn tay người đập đá” hoặc “Bò khôn tránh nắng, rắn khôn giấu đầu” theo thế tục bằng cách nhai lại những lý thuyết không thể thực hiện nơi cuộc sống con người đã quá lỗi thời rồi; và lúc này là thời điểm cảm nghiệm vì ngai vàng kinh viện đã đi vào quá khứ theo thế kỷ 20 với tốc độ ánh sáng xa lắc xa lơ.
1/ Theo lý luận câu hỏi đưa ra, sự khổ nạn và chết của Đức Giêsu như một bảo hiểm cho con người tha hồ phạm tội vì dẫu phạm tội hay không, đàng nào Ngài cũng đã chết hai ngàn năm qua. Quả thực bạn quá thông minh, liệng một viên đá đụng nhằm cả mớ chim; chỉ một câu hỏi, bạn tấn công tất cả các giaùo phái Kytô giáo đang thực hành theo đường hướng sùng tín, tôn thờ. Điều này chứng tỏ phần nào bạn hiểu về các đường hướng tôn giáo nên muốn gài bẫy Thy Loan chăng. Xét tự nguồn gốc, mọi tôn giáo đều phát xuất từ nỗi thao thức tâm linh, khao khát nhận biết thực thể con người trong hành trình biến chuyển vô cùng của vạn vật. Sự thể hiện nỗi thao thức tâm linh này được tạm chia thành ba phương thức hay đường hướng tu trì chính. Con đường thứ nhất được áp dụng nơi tôn giáo gọi là thờ phượng bao gồm niệm chú, cầu nguyện, tuân giữ nghi thức, giới luật, v.v...
Con đường thứ hai chính là minh triết được áp dụng bằng cách sử dụng khả năng lý trí nâng cao nhận thức và ý thức để tiến đến trạng thái tâm thức, tự thể, hòa nhập thực thể tuyệt đối. Con đường thứ ba gọi là thiền bao gồm quán tưởng và hành định thường được áp dụng nơi các phái mật tông và huyền môn để đạt tới những cảnh giới đại định hay điểm đạo. Trong ba lối tu, phương pháp minh triết là con đường nhanh nhất dẫn tới giác ngộ. Câu hỏi của bạn được liệt vào phương pháp minh triết nhưng, nếu Thy Loan không lầm, mang ẩn ý thức tỉnh những tâm hồn thiếu ý thức, ỷ lại, vì lười biếng nên ù lỳ, nghe sao biết vậy cho qua may ra có được nỗi an bình tâm tưởng giả tạo. Thy Loan nghĩ, nếu có câu hỏi tương tự bạn đem E-mail tới nhà Phật, chắc chắn bạn sẽ được hoan nghênh hết mình vì sẽ được liệt vào hàng “Công án.” Ngược lại, chẳng may cố đạo nào lỡ vô tình chợt liếc sơ qua nơi nào đó mà chạm phải câu hỏi ngắn gọn này của bạn, có lẽ bạn sẽ bị gia tài kiến thức kinh viện của cố đội cho chiếc nón “rối.” Có thể chính vì điểm đặc biệt này của câu hỏi mà Thy Loan đam mê đâm đầu thử lửa.
Khi nêu câu hỏi, bạn đã tự trả lời. Sự trả lời này thách đố không những Thy Loan mà thách đố luôn những độc giả táo bạo dám ghé mắt đọc. Tất nhiên, bạn đã tự trả lời, Thy Loan thấy không cần phải nhấn mạnh thêm. Có điều, câu hỏi mang tính chất tự trả lời này chỉ được coi là đúng theo luận lý phiếm diện mà thôi. Tại sao Thy Loan đề cập đến luận lý phiếm diện? Xin thưa, câu hỏi này ép độc giả phải có câu trả lời thuộc về một trong hai diện đúng hoặc sai; trong khi câu hỏi lại không thuộc về lưỡng cực nhị nguyên. Có thể một số vị theo Kytô giáo, thường được nghe giảng giải Đức Giêsu chết cho và chết vì tội lỗi của mọi người, sẽ cảm thấy chẳng khác gì đạp nhằm ổ kiến lửa, có thể vì tiếc công sức bao nhiêu ngày tháng hy sinh, hãm mình, hãm nhiều thứ mà không biết mình đã sẵn có bảo hiểm nước trời từ hai ngàn năm về trước, thật uổng phí biết bao sự sung sướng “insured,” thế có dốt không chứ? Không tin, bạn cứ bật tivi vào ngày chủ nhật mà nghe giảng giải. Riêng Thy Loan, có lần được nghe một cố từ VN qua nói nơi tòa giảng, “Chúng tôi là nhà băng nước trời” mà thấy vẫn chưa phê bằng câu “Chúa chết cho tội lỗi chúng ta” dẫu đã bỏ vào nhà băng không thể mục nát được ấy tờ ba con số. Ah! Thy Loan vừa chợt hiểu, tiêu bố nó rồi còn đâu mà mục! Đúng là “Tỉnh ra mới biết mình lầm, bừng con mắt dậy thấy mình trống trơn” thì chuyện đã rồi! Thành phần tín đồ Kytô giáo còn lại, cũng có thể bởi tiếc công lao “Lỡ phóng lao thì phải theo lao” cố tình biện luận, “Nếu nói như thế, công lao của tôi bao nhiêu năm cố gắng cũng không hơn gì những kẻ ăn chơi đàng điếm thì Chúa bất công hay sao?” Lẽ đương nhiên, Chúa công bằng hay bất công chỉ Chúa biết, Thy Loan chỉ nhớ lời Thánh Kinh, “Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác”õ (Mt. 5;45) thì có gì đáng phải nói bất hay hữu công!
Điểm đáng thương chính là những bậc khổ tu ngày xưa; có lẽ bây giờ họ rất bất mãn nhìn thấy những bộ mặt đã bị coi là tội lỗi, coi chừng lại sáng chói hơn chính mình. Sở dĩ Thy Loan dám cả gan nói như thế bởi họ đã tốn bao công sức gồng mình quất những đoạn giây thắt nút trên thân thể họ đến độ bắn máu mình ra hầu chiếm được ơn cứu độ. Mỗi lần nghĩ đến hoặc thử tưởng tượng về hình ảnh đánh tội này, Thy Loan cảm thấy quá thương tâm cho những thân thể ngọc ngà, liễu yếu đào tơ như Thy Loan (220 pounds); cũng chỉ vì cho rằng phải độc ác với chính mình như thế mới đạt được ơn cứu độ nên đã chối từ món bảo hiểm nước thiên đàng do giá máu của Đức Giêsu.
2/ Bởi Chúa đã chết để chuộc tội cho con người, đâu ai phải lo lắng bị phạt sa hỏa ngục làm chi. Câu hỏi đơn thuần của bạn dẫn tâm trí Thy Loan đạt tới suy tư nghịch lại với lời giảng cả thể nào đó, “Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ.” Điều này Thy Loan tạm gọi là sự khôn ngoan “kinh viện,” thứ khôn ngoan của những kẻ nếu ai không nói hoặc không viện dẫn, hay suy tư giống họ thì đã vội ngoa mồm mà liệt cho người ta là tà đạo hay ngoại giáo. Có bận Thy Loan hỏi mấy đứa cháu con bà chị rằng một cộng với một là mấy; chúng thưa là hai. Thy Loan lại hỏi, vậy một linh hồn cộng với một thân xác là mấy, chúng trả lời là một, và rồi chúng ngớ ra, chẳng hiểu một cộng với một là mấy. Chúng nó dốt nát vậy mà mới 10 năm qua, đã có đứa lấy Ph.D rồi đấy; trong khi những kẻ giỏi dang chê trách Thy Loan hỏi ngớ ngẩn thì giờ này vẫn không thấy Ph.D mà chỉ quen thói đì người khác, nếu có cơ hội. Đã bao lâu nay, Thy Loan thường cảm thấy nỗi khủng hoảng tâm trí như kết quả của hai quan niệm đối nghịch không phương hòa giải. Một đàng Thy Loan đã được dạy dỗ từ hồi còn bé thơ rằng Thiên Chúa yêu thương con người vô bờ bến đến độ chấp nhận hy sinh chính con một của Ngài là Đức Giêsu để chuộc tội cho thiên hạ. Đàng khác, Đức Giêsu đã chuộc tội, đã trả sự công bằng ân oán bằng chính giá máu của Ngài mà con người vẫn chưa được thoát ách của tội lỗi nên vẫn còn cái hỏa ngục chình ình luôn luôn ám ảnh và đe dọa tâm trí những kẻ theo Ngài.
Chẳng lẽ cái hỏa ngục thổ hồn này lại quý báu đối với Thiên Chúa hơn chính Con Một của Ngài ư? Suy luận ngược giòng thời gian, hình như Thy Loan đã bị tiêm nhiễm quá nặng nề bởi những lời dạy kinh viện từ ngàn xưa, cổ hơn mặt trăng đến độ khó lòng phân tích nên không dám đặt câu hỏi. Đọc nơi Kinh Thánh, tự thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa tạo dựng nên ông Adong và bà Evà, và đặc biệt thêm cây trái cấm (xực vào là biết lành biết dữ). Khi bà Evà, có lẽ đang lúc chớm có bầu nên thèm trái chua, các cụ ngày xưa gọi là ăn rở, tém cái trái ôn dịch ấy, và đưa cả cho ông chồng cùng ăn, (có lẽ chính vì thế mà ngày nay vợ đẻ, chồng đau; nếu chồng không đau thì ông hàng xóm đau). Và thế rồi Thiên Chúa nổi trận lôi đình mà đày ải hai ông bà nguyên tổ xuống trần gian vì tội bất tuân. Tuy nhiên, khi những đứa con cháu của hai ông bà này, còn ngỗ nghịch gấp trăm ngàn lần ông bà tổ tiên của chúng, chơi trò độc ác, dám đem Con Một của Ngài mà giết, thì Ngài lại vui mừng mà tha hết tội chẳng những cho chúng nó mà tha luôn tất cả những tội lỗi loài người đã vô tình hay hữu ý vấp phạm từ xưa tới nay để biến chúng thành con cái Ngài. Hai cái lý thuyết phạm tội và chuộc tội dẫu sao cũng giúp con người thêm phần an ủi và nắm phần chắc đã được cứu độ. Thế nhưng, cái lý thuyết hỏa ngục quyền năng cao cả hơn sự cứu độ của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, nắm giữ mọi quyền hành trên trời dưới đất thì quả ghê gớm quá sức chịu đựng của Thy Loan. Tự hỏi chính mình, Thy Loan nhận ra rằng mình sợ hỏa ngục hơn sợ Chúa. Thế nên, suy đi nghĩ lại, Thy Loan cứ thắc mắc, Chúa uy quyền hơn hay cái hỏa ngục uy quyền hơn? Bạn nào có thể suy luận, chứng minh được Chúa uy quyền hơn hỏa ngục và đã có thể dẹp tan được cái hỏa ngục kinh viện phải gió đó, làm ơn lên tiếng giúp Thy Loan bình tâm an hưởng cuộc đời hy vọng rảnh rang tâm trí khua môi múa mép, phét lác cho vui cửa vui nhà. Tuy nhiên, xin đừng giới thiệu cố đạo trả lời; vì nếu không có cái hỏa ngục cho những con chiên hiền lành sợ, ha ha! Cố mất job!
3/ Như thế, những sự ăn năn, hối cải phát sinh bởi tâm tình e sợ bị phạt. Vậy sự e sợ này bắt nguồn từ đâu? Hình như câu hỏi ngắn gọn của bạn mang động lực nào đó dẫn suy tư dây dưa tới nhiều vấn đề ít ai dám cả gan nghĩ tới. Nếu Thy Loan không lầm, ngày xưa trước cả thời công nguyên, nơi hành trình thực chứng tâm linh, tạm gọi là Điểm Đạo Ai Cập, đã có những sinh hoạt âm thầm, bí mật nhưng rất sôi động và mang ảnh hưởng lớn lao toàn bộ vùng Trung Đông mà những thành viên của Điểm Đạo chính là những nhà hiền triết thời cổ Ai Cập. Vào thời ấy, người ta đã có niềm tin tưởng sự bất diệt là có một đời sống của linh hồn sau khi xác thân chết. Họ cũng tin rằng khi con người bắt đầu bước vào cuộc sống mới đó, những đấng thần minh phân xử linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y đã làm trong lúc ở dương gian. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích đáng, người hiền sẽ được vào cảnh thiên đàng hưởng hạnh phúc và hợp nhứt với Osiris (ACHB; Tr.108), thủy tổ của Huyền môn Ai Cập. Những điều này khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng đồng thời cũng phần nào giúp cho họ có được đời sống luân lý tập thể khá hơn. Điều dễ hiểu, ngày xưa cũng như bây giờ, với trình độ dân chúng đơn sơ, người ta không giảng dạy những lý thuyết hoặc tâm lý hay triết lý thâm sâu vì có thể chỉ làm cho những đầu óc đơn sơ thêm bối rối. Bởi thế, có lẽ quan niệm nơi chốn giam phạt những người thiếu ngay chính phát sinh những câu chuyện huyền thoại vừa gợi ý cho những tâm hồn hiểu biết lại vừa ngăn chặn những kẻ chưa đủ tâm đức lạm dụng khoa huyền môn thỏa mãn ý đồ thấp kém. Đã nhiều lần Thy Loan tự hỏi có phải lý thuyết hỏa ngục được tạo dựng từ niềm tin nơi người cổ xưa ở Ai Cập chăng, nhưng cứ lần lữa vẫn chưa chịu lục lọi.
4/ Đức Giêsu rao giảng gì nơi Phúc Âm? Có lẽ chính vì e sợ “mối e sợ không đâu” biến thành sự thật, Thy Loan đành phải chấp nhận hy sinh làm điều không muốn đó là lục lọi nơi Phúc Âm xem Đức Giêsu đã rao giảng gì về hỏa ngục. Quái, không hiểu Thy Loan mắt kém hay tại Phúc Âm viết thiếu mà chẳng thấy Đức Giêsu rao giảng điều gì về hỏa ngục. Thy Loan còn nhớ ngày còn nhỏ, khi dạy về hỏa ngục “ma soeur” giảng rằng, ngay nơi cửa hỏa ngục có chiếc đồng hồ quả lắc nó cứ kêu “tích tắc đời đời... đời đời tích tắc” khiến Thy Loan sợ quá không dám phạm tội dẫu nhiều lần chỉ mới nghĩ đến phạm tội là đã cảm thấy thèm, thèm đến nỗi nước miếng ứ lên đầy miệng. Yêu mến Chúa mà lòng khao khát chan hòa như thế này thì một cái hỏa ngục chứ cả trăm ngàn cái như các ma sơ rao giảng, Thy Loan cũng không coi ra gì. Có điều lạ, Đức Giêsu nói gì những câu nghịch thường, cố gắng hiểu thế nào cũng cứ bị rối lung tung; vừa thích chí vì thấy được câu này có ý nghĩa hợp cho mình thì lại phải đối đầu với câu khác phá toang cái khôn ngoan mình mới nghiệm được. Thy Loan thử ghi số câu của Phúc Âm Marcô để quý vị dò thử xem có cảm thấy giống như Thy Loan đã nghĩ không. Mc. 1:15; 2:21, 22, 27; 3:35; 4:9,14-20, 23, 24, 25, 30-32; 5:34; 7:16; 8:33, 34-38; 10:23-25: 11:23-26. Khổ nỗi, hai lần Phúc Âm Marcô nhắc nhở câu, “Ai có tai để nghe, thì hãy nghe” (4:9,23) khiến lòng dạ Thy Loan rối bời không hiểu được; bởi gì thì không có, chứ Thy Loan đoan chắc mình có tai, chẳng phải một mà lại những hai cái. Cũng may, Thy Loan đọc chứ không nghe! Điều lạ cả thể khác chính là Đức Giêsu cũng không giảng gì về sự chết của Ngài mà nếu đừng cho rằng lắm miệng (phụ nữ thường bị coi “lắm miệng” hơn nam giới), Thy Loan dám nói thẳng, Đức Giêsu sợ chết. Ngài bị chết, phải chết chứ không phải là sẵn lòng chết (Mt. 26:39; Mc. 14:36); lật Phúc Âm quý vị sẽ thấy. Tuy nhiên, dự lễ (Thy Loan đạo gốc mà), nơi lời nguyện thánh thể II, cố đạo đọc, “Khi bị nộp và tự hiến chịu khổ hình.” Đức Giêsu phải chịu chết theo ý Đức Chúa Cha nếu nói theo Phúc Âm! Thy Loan đã nhiều lần suy nghĩ, cuối cùng đạt tới kết luận đó là quan điểm của Công Giáo. Dĩ nhiên, mọi người có quyền tự do tin tưởng dẫu điều mình tin không tưởng, thuận theo hay ngược lại Phúc Âm nào có sao đâu; bởi biết bao tôn giáo khác có những niềm tin không ăn nhập gì tới Phúc Âm thì ai có thẩm quyền cấm. Có lẽ tại Thy Loan thích bới bèo ra bọ (giống bạn hỏi) nên đặt vấn đề tại sao không cứ như Phúc Âm mà ghi ra (rằng thì là): “Ngài nói: 'Abba, lạy Cha, Cha có thể làm mọi sự, xin cất chén này đi khỏi con; nhưng không phải con muốn gì, mà là Cha muốn gì” (Mc. 14:36). Như vậy, sự cứu độ, chuộc tội là ý của Thiên Chúa Cha chứ không phải ý của Đức Giêsu! Chúa Giêsu muốn tránh, nhưng tránh không được nên đành chấp nhận không theo ý mình, chẳng khác gì “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Nhận được thực thể sự việc như thế, bất cứ ai trong chúng ta cũng đáng được ca tụng vì chúng ta sợ chết nhưng Chúa vẫn bắt chúng ta phải chết, dẫu chết cách nào! Xét thế theo Phúc Âm, Thiên Chúa đã vạch sẵn một chương trình và Đức Giêsu có nhiệm vụ phải thi hành chương trình đó. Nhận định như vậy, câu hỏi được đặt ra, Thiên Chúa sai Đức Giêsu đến gian trần với mục đích gì?
5/ Mục đích nhập thể của Đức Giêsu. Dẫu câu hỏi của bạn cắc cớ như vậy nhưng thực quả là phiền, bạn đã thấy chưa? Phúc Âm thánh Luca, đoạn 4, câu 43 được viết, “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê.” Lm. Nguyễn Thế Thuấn cố ý dịch sai hay không Thy Loan chẳng biết, nhưng lời Phúc Âm rõ ràng như một cộng với một là hai, nói theo kiểu quý cụ. Nếu để ý tới lời Phúc Âm thì lập luận của bạn (người hỏi) trật vuột khỏi Phúc Âm trăm phần trăm. Có phải bạn hỏi vì “nghe hơi ngồi chõ” hay bị tuyên truyền sai lạc để rồi nhai lại kiến thức của kẻ khác và cảm thấy ray rứt với nó, không nói ra được thì chẳng khác gì đeo bầu suốt đời, lỡ nói ra lại sợ thiên hạ sẽ bảo mình lộng ngôn và vì nín nhịn không nổi nên dụ Thy Loan vào tròng? Tiền nhân dân Việt có câu, “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe.” Đàng này, bạn bị rơi vào bẫy, “Không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu.” Nào có gì lạ, bệnh chung của những tín đồ sùng tín, thờ phượng là thế, cứ lải nhải ca tụng đấng nọ đấng kia mà những lời giảng dạy của đấng đó thì coi khinh, như thế, muôn đời cũng chỉ “Mười voi không được bát nước xáo.” Đức Giêsu nói nơi Phúc Âm, “Đàng và sự thật, sự sống, chính là Ta! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta” (Gioan 14:6) thì mục đích của con người phải là đến với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Đức Giêsu chỉ đường thì không thèm theo, cứ nói gì đâu những lý thuyết tuyên truyền tự trời rơi xuống, không gốc gác, chẳng có kinh sách chứng minh, không căn bản lý luận; ngược lại, có được cuốn Phúc Âm thì coi thường rồi dùng bậy đặt bạ câu này, câu kia, chết chìm với sự tưởng tượng để dễ bề lạm dụng lòng tin của những người đơn sơ chất phác; mà quên mất lời quở trách của Đức Giêsu, “Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chì khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). Thy Loan nghĩ, đọc câu Kinh Thánh vừa rồi bạn cảm thấy lòng dạ phần nào thanh thản hơn được đôi chút bởi trách nhiệm tin đúng, tưởng sai không tùy thuộc nơi bạn mà tại những người rao truyền cho bạn. Tuy nhiên, cho dù “Bò khôn tránh nắng” thì “Tránh trời cũng không khỏi nắng.” Thà rằng bạn chấp nhận nhắm mắt, nín thở theo thằng mù, khi lăn xuống hố sẽ tự biết, vì chuyện dẫu sao cũng đã lỡ. Đàng này, bạn đã lỡ biết lý thuyết xưa nay dẫn dắt bạn lại là tên không mù nhưng thong manh, và nếu lòng bạn thực sự khao khát thăng tiến nơi hành trình tâm linh thì bạn phải tự mình tìm tòi định hướng cho mình. Thy Loan dám khẳng định một điều đó là nếu lòng bạn thực sự khao khát và tìm mọi phương cách, dùng mọi cơ hội nơi cuộc sống hầu thỏa mãn nỗi thao thức, chắc chắn bạn sẽ gặp. Chẳng nên nản chí bởi Phúc Âm cũng có lời chép, “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt. 7:7). Đây là chuyện cá nhân với lòng khát khao của mình, nói nhỏ một chút đủ cả làng nghe thấy là quá đủ. Thy Loan trở lại với câu hỏi của bạn.
6/ Tội lỗi là gì, gốc gác từ đâu? Cũng xin cảm ơn bạn đã hỏi để Thy Loan có dịp đặt lại vấn đề cho chính mình về sự tội. Nói chung, chúng ta thường hiểu những tội lỗi chỉ là những gì phạm luật cấm theo nghĩa luân lý. Thy Loan đặt câu hỏi ngược lại; như vậy nếu không có luật phỏng có tội không? Kèm với câu hỏi này lại là câu, luật lệ bắt nguồn từ đâu? Thy Loan đã phải phân định từ phần trên, cho dù thần học, triết học, hay thứ học thức gì chăng nữa đều là sản phẩm suy tư của con người. Luật lệ cũng chỉ do con người đặt ra vì lợi ích chung. Đàng khác, nếu dám đối diện thực sự với lòng mình để nghiệm chứng, còn rất nhiều thứ chẳng có luật mà sự vấp phạm lại nặng nề và kinh khủng gấp biết bao nhiêu lần những luật lệ thành văn hay bất thành văn. Bạn thử rở Phúc Âm Matthêu (16:23) và Marcô (8:33), sau khi các môn đồ trả lời người này người nọ nói về Đức Giêsu, đoạn Ngài đương đường nói cho các ông biết Ngài sẽ bị các trưởng lão, kỳ mục giết. Phêrô không chấp nhận, trách Ngài và Đức Giêsu nói với ông, “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là ý tưởng của loài người.”
Chúng ta thường nghe và đã được dạy dỗ rằng Satan là vị tổng lãnh thiên thần Lucifer, quyền năng, cao cả nhưng phạm tội kiêu ngạo muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên bị phạt. Giờ đây, hắn ghen tương và là đầu mối của mọi sự tội, xúi giục con người phạm tội. Phúc Âm nói rõ, “Satan là ý tưởng của loài người.” Nơi nhà Phật, Đức Đạt Ma Sư Tổ (có lẽ bạn cũng nghe tới tên của ngài) nói, “Chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh nơi mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường.” (BCGTTGLTH; Tr.203). Đem so sánh những lời kinh điển đạo học, Thy Loan nhận thấy, nhà Phật phát biểu “Kiến tính thành Phật,” Lão học đưa lên trạng thái huyền đồng, sống hòa với Tào, Phúc Âm dạy, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” thì bất cứ những tư tưởng, ý nghĩ, toan tính nào ngăn cản con người nhận ra thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mình, đều được liệt vào tội lớn lao nhất. Nhận ra như vậy mới thấy rõ lời Phúc Âm viết về mục đích cuộc đời của Đức Giêsu, rao giảng tin mừng nước trời (Lc. 4:43), là hợp lý hợp tình. Bởi vậy, nếu không muốn phạm tội, chỉ còn cách phải tự tìm tòi, tự cảm nghiệm vì không thực hiện như thế để thăng tiến tâm linh tất nhiên đã đang phạm trọng tội mà không biết. Ý nghĩ loài người bị Phúc Âm gọi là Satan phù hợp nơi điểm này, “Ai có tai thì nghe.” Suy luận như vậy, nói rằng Đức Giêsu đến để cứu độ, giải thoát loài người khỏi vòng tội lỗi mới thuận lý và hợp tình vì Ngài rao giảng về thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mọi người, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Ai không nhận biết, tất nhiên luôn luôn luẩn quẩn nơi sự mù lòa đuổi theo những tham vọng thế tục không thoát ra được.
Để kết luận, dù cho rằng Đức Giêsu chết vì tội lỗi loài người hay không thì những ai không chịu nghiệm chứng, suy tư những lời Ngài giảng dạy vẫn luôn luẩn quẩn nơi “Ý nghĩ của loài người.” Như vậy, dù người đó cố tình phạm những điều luật luân lý hay không, thì cũng đang sống trong tội, trong trạng thái nhà Phật gọi là vô minh. Tất nhiên, ai ăn người ấy no; ai uống nước người đó hết khát. Một điều chắc chắn, nếu Đức Giêsu có thể uống nước hoặc ăn dùm cho chúng ta thì chúng ta khỏi phải ăn, phải uống, và kết quả lại chẳng ngờ, chỉ gây thêm muôn vàn rắc rối mà thôi. Như vậy, ơn cứu độ sẵn đấy, như nước sông, nước biển; mình không cần biết thì Chúa có chết thêm vài lần nữa mình vẫn chết khát.
Có điều, không phải câu hỏi của bạn không có lý, và cũng may bạn gửi câu hỏi và ThyLoan trả lời qua bàn chữ, gõ. Nếu đối diện trả lời, có lẽ chúng ta cãi nhau to bởi vì viết là lối nói một chiều, không có cơ hội đàm thoại, nhưng có vẻ thoải mái hơn cho người viết vì có giờ suy nghĩ, lục lọi sách vở. Xin đồng ý với bạn dẫu bạn đã không để ý đó là câu bạn hỏi đã được rao giảng từ hai ngàn năm trước trong thư PhaoLô, Rom. 5:9; 1Cor. 15:3; 2Cor. 5:14-15; 1Thes. 5:10. Dẫu trong Kitô giáo (bao gồm mọi giáo phái dù tự nhận chính thống hay không) không ai có công rao giảng lớn lao hơn PhaoLô nơi thời buổi sơ khai nhưng những gì ngài rao giảng cũng cần phải được hoaø hôïp vôùi Phúc Âm. Khổ nỗi, coi chừng mấy thư của ngài được viết trước Phúc Âm thì sao? Thế nên, những gì nơi các thư không phù hợp với Phúc Âm cần phải được xét lại, vì những quan niệm, kiến thức, hay nhận định này cũng giống như của chúng ta, cũng chỉ vẽ rắn thêm chân, và tất nhiên, được gọi là satan, ý nghĩ của loài người. ThyLoan không bênh Đức Giêsu nhưng tôn kính ngài, tâm phục, khẩu phục dẫu những lời ngài rao giảng nơi Phúc Âm luôn luôn khó chấp nhận khi mới đọc qua. Thế mà, cứ thử đặt vấn đề tại sao Phúc Âm lại nói ngang như vậy để suy nghiệm mới thấy những lời khôn ngoan ấy thoạt nghe như chọc vào tai nhưng lại quá thâm trầm, tuyệt vời, có thể nói nhiều khi khiến cho kẻ đọc có cảm tưởng không tưởng, khó có thể chấp nhận được thành quả suy tư của chính mình. Nơi trạng thái này chỉ có thể nói do Thần Khí của Đức Giêsu hoạt động nơi mình. Xin cảm ơn bạn đã không phê phán lề lối suy diễn ý nghĩ bộc trực và ngang ngạnh của ThyLoan qua những bài viết lại còn giúp khai sáng bằng cách đặt vấn đề khiến tâm trí ThyLoan đảo lộn lung tung. Mà phải cảm ơn mới đúng, nếu không được gọi bất nghĩa; vì nhờ câu hỏi của bạn, lúc này ThyLoan cảm thấy tâm hồn thơ thới sau khi cố moi móc lý lẽ nhận biết sự thể nơi Phúc Âm đã được viết hai ngàn năm trước mà bao lâu nay ThyLoan vẫn không để tâm suy nghiệm. Cũng xin Thần Khí của Đức Giêsu soi sáng cho tất cả những ai mang lòng khao khát nhận biết tâm linh, trong đó có thêm bạn và ThyLoan. Cầu chúc những gì tốt đẹp nhất đến với người bạn chưa một lần gặp, và chỉ mới biết qua danh hiệu. Trong Đức Giêsu, ThyLoan trân trọng.
Câu hỏi 4: Phúc Âm Gioan có câu, “Vì Thiên Chúa không sai Con đến trong thế gian để xử án thế gian” (3:17a), vậy thì ai có quyền xử án? Nơi câu Gn. 3:18 lại nói, “Kẻ tin vào Ngài thì không bị án xử, kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì đã không tin vào danh Con Một của Thiên Chúa.” Ai cũng được coi như tin vào Thiên Chúa dẫu họ gọi tên hoặc quan niệm về Thiên Chúa bằng cách khác những người theo Thiên Chúa Giáo. Thế sao còn nói tới án phạt. Hơn nữa, Phúc Âm Gioan nói gì kỳ cục, câu sau phản câu trước vì nếu mọi người đã tin vào Thiên Chúa tất nhiên không bị án xử mà Phúc Âm lại còn nói về yêu mến tối tăm hơn sự sáng là thế nào?
Trả lời câu hỏi 4: Ai có quyền xử án? Nho học có câu, “Trí giả tự xử, ngu giả quan phân.” Người hiểu biết sống sao không tự thẹn, tránh làm phiền hà đến kẻ khác, tất nhiên mọi công việc, mọi dự án của họ đều đã được toan tính chu đáo, tức là đã tự xử, nếu nói theo lối nhìn bình thường thế nhân. Tuy nhiên, nhiều khi vì thương người mà bình thường thứ lừa thì ưa nặng nên người trí với lòng bác ái hay tâm bồ đề cũng đành chấp nhận bị hiểu lầm hầu mang lại lợi ích cho những người đồng thời. Nêu lên một trường hợp đơn sơ như vậy, Thy Loan muốn nói đến một khía cạnh khá quan trọng nhưng thường không được để ý đó là tất cả mọi định giá sự vật và sự việc đều tùy thuộc ý định hay tâm ý người xử sự. Những dữ kiện hoặc hình thức hay thái độ bên ngoài dẫu thường được dùng làm căn bản định giá xét xử một người nhưng thực ra chỉ có giá trị dẫn dắt hay khuyến khích con người nhận thức về thực thể sự kiện hay sự việc mà thôi. Những hình thái bên ngoài chỉ có giá trị tối đa cỡ 30 phần trăm so với thực thể sự việc. Xét như vậy, chính chủ thể của hành động mới thực sự nhận thức đúng đắn nhất tâm ý và diễn tiến sự việc, những toan tính, những ảnh hưởng, những bất ngờ xảy tới khiến sự kiện được tạo thành như thế nào đó.
Khi suy luận để đạt tới nghiệm chứng từ Phúc Âm chúng ta thường bị những quan niệm theo thói quen, nghe sao biết vậy khuôn mẫu hóa nhận định tạo nên những yếu tố dẫn tới sai lệch suy tư, bịt mất đường nghiệm chứng. Lẽ đương nhiên, những lý luận, suy tư có thể phù hợp với cảm nghiệm hay không tùy thuộc quan niệm, lối nhìn, dẫn tới nhận định mở màn cho nhận thức. Chẳng hạn, quan niệm về loài chó, người Tây phương quí chó vì đất nước của họ trù phú, dư giả thịt bò, thịt heo, thịt gà; trong khi loài chó bẩm sinh đã có bản năng trung thành do đó người Tây phương rất quí chó, để chó liếm mặt và lấy làm thích thú, lấy tên người đặt cho chó lại còn hãnh diện khoe khoang. Ngược lại, người Việt có câu, “Yêu chó, chó liếm mặt” không sai chút nào nhưng ý nghĩa của câu nói hoàn toàn khác biệt. Đối với người Việt và đa số dân tộc Á Đông, con người được coi trọng hơn con vật; trong khi bên Tây phương, do đặc tính vị kỷ, lý thuyết cá nhân chủ nghĩa bành trướng quá mạnh tạo nên sự thăng hoa giá trị quyền sở hữu phát sinh thứ bậc được luật pháp ưu tiên, “lady first, con nít, chiếc xe, con chó, và sau hết là đàn ông.”
Vì luật là luật và luật dựa trên giấy trắng mực đen, nghĩa đen trắng rõ ràng dẫu nhiều trường hợp người ta đã cố tình lạm dụng nên cũng chính vì thế đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới lề lối suy luận dựa theo nghĩa đen của những lời nói hoặc kinh sách. Câu “Yêu chó, chó liếm mặt” được đem ra phê bình dưới hai quan điểm Đông, Tây hoàn toàn đối nghịch sẽ đem lại kết quả hai nhận thức khác nhau. Như vậy, cũng cùng một câu nói, những ai theo quan niệm Tây phương đều cho là đúng thực tế vì nếu mình đã không thích con chó nào thì sao có thể để cho nó liếm mặt, và đồng thời có muốn nó liếm, nó cũng không thèm liếm. Nhưng, câu nói này lại mang nghĩa khinh khi nơi quan niệm của người Việt; sự tốt lành của chúng ta thường bị lạm dụng, khinh thường.
Qua nhận định về sự liên hệ giữa quan niệm và nhận thức, Thy Loan muốn nêu lên quan niệm về Chúa mà chúng ta xưa nay thường được nghe, thường dùng danh xưng nhưng chỉ dùng theo thói quen. Khi đặt câu hỏi, “Ai có quyền xử án” bạn đã khá tiến bộ nơi nhận thức về thực thể tối thượng được ám định bằng danh xưng “Chúa.” Như vậy, quyền xử án cần sự nhận thức rõ ràng về Chúa như thế nào. Nếu nhận thức về Chúa là kết quả của sự suy lý theo nghĩa đen của ngôn từ được dùng nơi Kinh Thánh thì Chúa sẽ mang nhân tính, đầy tham sân si như con người, và được quan niệm như một Thiên Chúa hữu ngã. Quan niệm về một Thượng Đế hữu ngã là kết quả của sự nhận định theo nhãn quan tương đối, nhị nguyên, đối nghịch thường được các tôn giáo sử dụng đến mức tối đa nếu không muốn nói là lạm dụng. Đây là nguồn gốc phát sinh những lời cầu phước điền, xin được ơn này, tránh sự không muốn kia, nào lời phát biểu Chúa phạt, tổ trù, Thượng Đế công bằng, Ông Trời có mắt, mà quên ngay như nơi quan niệm tự nhiên chẳng hạn, Ca Dao tự ngàn xưa đã có câu, “Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên.” Tương đối, quan niệm nơi Ca Dao đã vượt qua tính chất Thượng Đế hữu ngã.
Nếu nhận thức về Chúa như vậy, tất nhiên nghịch lại với lời Phúc Âm theo Gioan. Điều này bạn thấy nhan nhản nơi sách vở Công Giáo từ hai ngàn năm qua; chẳng hạn quan niệm mọi người phải đến trước tòa án của Đức Giêsu để trả lời về những việc mình đã thực hiện trong cuộc đời, nói chung, đại khái theo nhận định luân lý người đời như nơi thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, “Vì chưng hết thảy sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Kitô để mỗi người lĩnh lấy thành quả đời mình trong thân xác, xứng với các việc đã làm, hoặc lành hoặc dữ” (5:10). Phỏng sự nhận thức này chỉ là công cụ bảo vệ, cổ võ và sử dụng quyền lực của tổ chức thế tục? Bạn muốn dụ Thy Loan vào tròng của những tham vọng thế tục chủ đích cổ võ địa vị của họ bằng cách áp đặt hoặc cố tình tạo nơi tâm trí con người mặc cảm tội lỗi nặng nề đồng thời che giấu những gì chẳng nên nơi mình và dùng thần quyền như bùa chú, quyền lực có trong tay để áp đảo kẻ tin tưởng nơi Thượng Đế, đồng thời lại ca tụng hay hùng hồn tuyên bố Chúa Giêsu đến chịu chết vì tội lỗi của con người, hoặc để giải thoát con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi, hay cứu chuộc con người khỏi sự chết đời đời? Bạn đã nhận được sự thông minh ma mãnh một cách cố ý nơi câu hỏi của bạn chưa? Nếu Đức Giêsu đến giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi thì sao không tuyên xưng, tuyên truyền rằng vì Ngài đã giải thoát, chúng ta đã được giải thoát mà cứ xúi bẩy con người ăn năn sám hối. Nếu Đức Giêsu đã cứu chuộc con người khỏi sự chết đời đời tại sao lại cứ rao giảng về sự chết đời đời? Bộ không làm cho người ta khiếp sợ thì không ai theo đạo sao? Và nếu Đức Giêsu đã chết vì tội lỗi con người như nơi câu hỏi nào đó thì cứ việc tha hồ phạm tội; đàng nào Ngài cũng đã chết những 2000 năm qua! Mỗi lần nghĩ đến những điều này, Thy Loan cảm thấy khó mà ngăn cản tính chất hung hăng con bọ xít nơi mình, đồng thời lại thương hại cho con người đã bao năm bị lừa đảo đến nỗi tâm trí họ đã bị ám ảnh quá nặng nề nơi huyết thống, mặc cảm tội lỗi, sẵn sàng và giục lòng làm nô lệ tội lỗi trong khi tuyên xưng Đức Giêsu đến giải thoát, Đức Giêsu cứu, Đức Giêsu chữa, dẫu cố gắng ăn chay, hãm mình, hy sinh, đánh tội, mà vẫn cứ trầm luân nơi vòng tội lỗi. Xét theo lý luận, hình như lý thuyết cứu chuộc của Đức Giêsu không giúp ích gì cho những con người tội lỗi như chúng ta. Thy Loan nghĩ, có lẽ nên quăng quách cho đỡ phải sợ hãi. Nếu Đức Giêsu đã giải thoát thì chẳng có gì để nói đến hy sinh, hãm mình, ăn năn, đền tội. Nếu vẫn phải ăn năn, đền tội thì tất nhiên đã tự minh chứng sự chết của Đức Giêsu không đem lại ích lợi gì.
Tuy nhiên, nơi Phúc Âm Marcô có câu, “Sau khi Gioan đã bị nộp thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng'“ (Mc. 1:15). Khi dùng lý luận mà so sánh giữa sự nhận định những nhận thức về các câu nói nơi bốn Phúc Âm, Thy Loan cảm thấy có điều gì bất ổn vì cứ cố gắng hiểu cho được câu này một cách thuận tình, hợp lý thì lại đụng phải câu nói khác đối chọi lại như nước với lửa, phá bay công sức tìm hiểu lời Chúa. Đã lỡ phóng lao thì phải theo lao, Thy Loan lục lọi và vớ ngay được lời “chú giải” về ý nghĩa của ngôn từ cải thiện. Phần chú giải nơi trang 184 của cuốn Tân Ước (1994) có ghi, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy-Lạp “Metanoia” theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận... Ở đây chắc phải hiểu sám hối theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.” Mừng hơn bắt được vàng, Thy Loan trộm nghĩ, mấy ông bà dịch giả này đúng là dịch giả chứ không phải dịch thiệt, thà cứ ghi lại những điều không diễn dịch có phải là lợi ích gấp mấy lần công sức dịch. Đã biết ngôn sứ Giêrêmia kêu gọi thay đổi hướng đi thì tại sao không dịch là “thay đổi hướng đi” mà lại nói cải thiện? Đem so sánh ngôn từ hai lối dịch, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” và, “Anh em hãy thay đổi hướng đi và tin vào Tin Mừng” quả thật sự khác biệt rõ ràng quá lớn lao!
Mỗi ngôn ngữ biểu hiệu tính chất đặc biệt nào đó của một dân tộc. Ngôn từ hoặc lối phát biểu của tiếng Việt lắm khi oái oăm, viết, phát âm một đàng, ý tứ một nẻo đối nghịch nhau. Chẳng hạn chúng ta nói: đi khám bác sĩ nhưng thực ra tới cho bác sĩ khám. Hoặc sửa sắc đẹp, đã đẹp đâu cần sửa, chẳng lẽ sửa cho xấu, thế nhưng ý nghĩa lại là sửa sắc xấu cho đẹp hơn. Nơi ngôn từ cải thiện cũng thế, dẫu mang tính chất hán ngữ nhưng khi viết hay nói, người Trung Hoa không thể nào hiểu được đồng thời lại có ý nghĩa ngược lại với lối phát biểu. Tất nhiên, đã thiện đâu cần canh cải, sửa đổi, mà thực ra cải thiện chính là trở nên tốt lành. Lẽ đương nhiên, khi nói đến trở nên tốt lành thì đã tự chấp nhận là xấu xa, lầm lỗi, bết bát. Cái tội tày trời phát xuất tự điểm này.
Cái tội nhận thức thực thể sự vật theo quan điểm nhị nguyên nhưng một chiều, nghịch lại với nhận thức nhất nguyên của ngôn từ metanoia. Nếu các nhà chú giải Kinh Thánh đừng dịch, cứ để nguyên, “Anh em hãy “Metanoia” và tin vào Tin Mừng” thì đã có nhiều chuyện thay đổi lạ lùng xảy đến vì đã không khuôn mẫu hóa nhận thức hay suy luận của những người tìm hiểu Kinh Thánh mà mở rộng suy tư, suy niệm, cảm nghiệm Phúc Âm. Đàng này, có lẽ vì không hiểu “thay đổi hướng đi”, hoặc “thay đổi não trạng” được áp dụng như thế nào nên đã hai ngàn năm qua Lời Chúa vẫn không thể nào được cảm nghiệm; điều này phù hợp với câu, “Khốn cho các ngươi luật sĩ! Các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). Ấy, dịch mang nghĩa diệt là thế!
Ai cũng rõ, Phúc Âm thuộc về sách đạo học, sách viết về tâm linh nên được gọi là “kinh.” Những gì được viết nơi kinh sách đều viết về đường hướng tâm linh, chiều hướng suy tư, cảm nghiệm, hay nghiệm chứng. Thế nên, “thay đổi hướng đi” hoặc “thay đổi não trạng” đều mang nghĩa suy nghĩ khác trước, suy nghĩ khác thường, hay suy nghĩ không lệ thuộc bất cứ khuôn mẫu nào. Nếu hiểu như thế mới hiểu được tại sao Phaolô viết nơi thư 1Thes. 5:21 “Nghiệm chứng mọi sự” có nghĩa thực nghiệm và hợp lý hợp tình. Như vậy, thay đổi hướng đi tức là thay đổi đường hướng tư tưởng, suy tư, suy niệm, thay đổi quan niệm, nhận định, quan điểm, nhận thức. Nếu để ý, Phúc Âm vaø caùc thö, caùc saùch khaùc được gọi là Tân Ước, nhưng đã bao lâu nay, những quan niệm tâm linh của người Do Thái được ghi lại nơi Cựu Ước vẫn đang điều khiển não trạng của Kytô hữu để rồi cố rặn ra những lý thuyết Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ chẳng khác gì một Thiên Chúa đầy ghen tương, bè phái, luôn thiên vị, nhỏ mọn mang đầy dẫy tính chất hẹp hòi của con người mà bênh đỡ cho đám dân Do Thái “mai đầu tối phản nghịch” được diễn tả nơi Cựu Ước. Quan niệm Thiên Chúa hữu ngã tệ hại như vậy nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua đi; nào ai dám đặt lại vấn đề cũng chỉ vì lối dịch gò bó, khốn khổ của câu, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” thay vì “Anh em hãy metanoia và tin vào Tin Mừng.” Bởi vậy, làm sao chúng ta dám suy tư để rồi suy diễn câu nói, “Còn Ta, Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:44-45). Hoặc câu khác, “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống” (Mt. 22:32). Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng là Thiên Chúa nhất nguyên, không đứng vào phe phái nào, nhưng coi kẻ tốt cũng như người xấu đều là con cái Ngài vì Ngài cho mặt trời soi sáng cho tất cả và làm mưa trên tất cả. Kẻ chết không phạm tội được mà chỉ có người sống. Người sống lại bao gồm đầy đủ kẻ dữ và người lành, kẻ ngay và người ác.
Tương tự, những gì đã đi vào quá khứ tức là đã chết, không còn sinh động, không sửa đổi được, không thay đổi chiều hướng suy tư được thì không thể sử dụng cũng như áp dụng cho con người sinh động được. Một Thiên Chúa của Đức Giêsu như thế sao có thể sai Ngài tới xét xử theo nhãn quan luân lý, theo thị dục nhân sinh, hoặc theo bản ngã thấp hèn, một chiều của nhân loại? Bạn đừng vội cho rằng Thy Loan hung hăng con bọ xít, làm ơn dừng lại đôi phút để suy tư rồi đấu cũng chưa muộn! Như vậy, nếu Thiên Chúa đã không đứng vào bất cứ phe phái nào thì sao có thể sai Đức Giêsu xuống mà xử án thế gian? Xét thế mới có thể nhận thực được mục đích và nhiệm vụ của Đức Giêsu đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được chép trong Phúc Âm Luca đoạn 4, câu 43, “Nhưng Ngài bảo họ:'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.'“ Đã biết mục đích sứ mạng của Đức Giêsu là đến để rao giảng tin mừng nước trời thì có gì mà phải nói đến xét xử thế gian hoặc thế ngay!
Vấn đề liên hệ đó là tại sao có câu “Vì chưng hết thảy sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Kitô để mỗi người lĩnh lấy thành quả đời mình trong thân xác, xứng với các việc đã làm, hoặc lành hoặc dữ” nơi thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô (5:10)? Có lẽ bạn biết thừa cái lý của sự việc xảy đến thường thì khác biệt với sự kiện được xảy ra. Chẳng hạn, một vị nguyên thủ quốc gia hay giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo, các vị ấy sao có giờ để viết diễn văn nếu không muốn nói nhiều vị không có khả năng viết diễn văn. Đây cũng là lý do tại sao cần phải có cố vấn chẳng khác gì những công ty cần có luật sư làm cố vấn pháp luật và những nhà chuyên môn làm cố vấn kỹ thuật. Dẫu Phúc Âm đưa ra dụ ngôn chiên và dê (Mt. 25:32-46) thì đó chỉ là dụ ngôn với chủ đích dạy về điều khác cũng như dụ ngôn đồng bạc đánh mất và con chiên lạc. Bạn thử nghĩ, kiếm lại được một đồng bạc trị giá công của một ngày làm việc mà mở tiệc mừng thì phải mấy đồng mới đủ để khoải đãi khách khứa. Cũng thế, bỏ 99 con chiên để lang thang nơi rừng rú tìm một con chiên lạc, đã chắc gì tìm được con chiên lạc hay là ñaõ bò sói đã ăn thịt tự bao giờ. Đàng khác, cho dù tìm thấy, lúc trở về lại phải lo tìm các con chiên khác hoặc sói đến phá tanh bành 99 con chiên kia. Nói theo nghĩa đen nơi Phúc Âm, may mắn, đã không mất con chiên nào nhưng khoản đãi hàng xóm thì phải làm thịt mấy con mới đủ. Như vậy, lời Phúc Âm đâu phải được viết để hiểu theo nghĩa đen. Xét thế, lời thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô chưa chắc đã là của Phaolô và đồng thời không phù hợp với Phúc Âm, mà có chăng, nếu Thy Loan không lầm, bị ảnh hưởng quan niệm điểm đạo Ai Cập như đã trình bày nơi câu trả lời nào đó về quan niệm hồn kẻ chết phải đến trước hội đồng các đấng thần minh để bị xét xử về đời sống hữu hình đã qua.
Vậy quan niệm xử án thế nào và xử về những chuyện gì? Ai phạm tội và thực thể nào được gọi là tội để xét xử? Trả lời nơi câu hỏi đó, Thy Loan có nhắc lại lời đức Đạt Ma Sư Tổ của nhà Phật câu nói, “Chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh nơi mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường” (BCGTTGLTH; Tr.203). Nơi Phúc Âm Gioan có ghi, “Kẻ tin vào Ngài thì không bị án xử, kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì đã không tin vào danh Con Một của Thiên Chúa. Aùn xử là thế này: sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều là điều xấu”(3:18-19). Nơi khác, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Sự sáng thế gian chính là Ta” (Gioan 8:12; 9:5) và đồng thời Ngài cũng xác định thêm, “Các con là ánh sáng cho thế gian” (Mt. 5:14). Suy nghĩ và tổng hợp ý nghĩa mấy câu này lại với nhau chúng ta lại phải đối diện với ý nghĩa của động từ “Tin” thường được dùng nơi Phúc Âm. Theo câu Gioan 14:12, “Kẻ nào tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa,” thì tin có nghĩa đạt tới trình độ nào đó. Thy Loan chỉ có thể hiểu được đại khái tin là thâm hiểu và thực hiện được những điều Đức Giêsu dạy nơi Phúc Âm nơi hành trình nghiệm chứng. Như vậy, tội mang nghĩa đã không suy nghiệm, nghiệm chứng về những câu nói nơi Phúc Âm, mà đã coi thường nên tiêu phí cuộc đời theo những nhu cầu thế tục, và không nhận được thực thể chính mình là gì nơi hành trình tâm linh. Điều này được nhà Phật gọi là vô minh. Đàng khác, câu nói “Vì việc họ làm đều là điều xấu”(Ga. 3:19) muốn hiểu rõ lại cần nhớ câu chuyện Đức Giêsu hỏi môn đồ rằng các ông bảo Ngài là ai. Và khi Phêrô không chấp nhận được lời Ngài nói, lên tiếng phản đối thì đã bị quở, “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16:23). Ý tưởng của loài người được Phúc Âm gọi là Satan, theo đuổi những sự việc thế tục mà không nhận ra thực thể nơi mình nên những việc làm đều bị coi là điều xấu. Như vậy, tội được định nghĩa rõ ràng chính là thái độ không chịu suy nghiệm Phúc Âm.
Đàng khác, đọc nơi Gioan 12:47-48, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời giải thích về án phạt quá rõ ràng, “Ai nghe các lời của Ta mà không giữ, thì không phải chính Ta sẽ xét xử nó, vì Ta đã đến, không phải để xét xử thế gian nhưng là để cứu thế gian. Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta, thì có người xét xử nó: ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết. Bởi vì không phải chính Ta tự mình đã nói ra, như Cha, Đấng sai Ta, đã truyền lịnh Ta phải dạy gì hay nói gì.” Chúng ta có thể dùng một thí dụ cụ thể để giải thích đoạn Phúc Âm này. Giả dụ mọi thực khách được mời tham dự bữa tiệc gồm đủ món thức ăn sơn hào hải vị, nhưng có những người không ăn. Như vậy, chính sự đói vì không ăn dằn vặt người đó chứ không cần phải ai lên án hoặc hành động gì đụng chạm đến để trừng phạt vì đã không ăn. Lời khôn ngoan nơi Phúc Âm sẵn đó, ai không chịu suy nghĩ tất nhiên chính sự mù tối do coi thường, hoặc không cố gắng, hay ỷ lại đã là hình phạt. Thế nên, nhận thức được hình phạt chính là cuộc sống không suy nghiệm, chiêm nghiệm hay không lại tùy chính đương sự sống trong trạng thái ấy. Và như vậy, đâu cần ai phải phạt và vì không nhận biết nên đã bao người không biết mình đang ngụp lặn trong sự xét xử.
Nhận định như thế, chúng ta cần đặt lại vấn đề về ngôn từ tin vẫn được thường dùng mà ít ai dám đặt câu hỏi để tự trả lời xem mình tin như thế nào và tin có nghĩa gì. Nơi câu Phúc Âm bạn dùng để đặt vấn đề, “Kẻ tin vào Ngài thì không bị án xử, kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì đã không tin vào danh Con Một của Thiên Chúa” (Ga. 3:18); chữ “tin” mang nghĩa bao gồm những hành động, sự thực hiện, mọi cố gắng tìm hiểu, suy nghiệm, suy tư, nghiệm chứng những gì Đức Giêsu đã giảng dạy được gọi là “Danh Con Một của Thiên Chúa.” Thy Loan dám thách đố bất cứ ai có thể giải thích ý nghĩa động từ “tin” hoặc ngôn từ “đức tin” hợp lý hợp tình hơn được nghĩa này và sao cho phù hợp với những lời Phúc Âm khác về đức tin, lòng tin như đã được viết, “Đức tin con cứu chữa con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:50; 8:48; 17:19; 18:42). Nếu tin chỉ mang nghĩa cho rằng hoặc xác nhận rằng sự gì có thật hoặc đó là sự thật sẽ không thể nào áp dụng để giải thích Phúc Âm. Nếu chỉ cho rằng tin có Chúa hay tin vào Chúa nghĩa là mình chấp nhận có thực thể tuyệt đối bao trùm, ngự trị và điều hành vũ trụ thì cũng chẳng có chuyện gì mới lạ hay khác thường xảy ra vì nói rằng có Chúa hay không có Chúa cũng vậy thôi, đâu ảnh hưởng gì tới cuộc đời con người. Và nếu tin chỉ là chấp nhận như thế thì kết quả lại là một hệ thống luân lý được đặt ra cầu mong làm đẹp lòng Chúa và lý thuyết những ai sống không phù hợp luân lý sẽ bị phạt, theo ý nghĩ và sự suy tưởng của con người.
Tóm lại, theo thiển ý, Thy Loan đoan chắc, tin vào Đức Giêsu tức là cảm nghiệm, nghiệm chứng, suy nghiệm những lời dạy của Ngài nơi Phúc Âm để áp dụng, thực nghiệm những sự khôn ngoan này vào cuộc đời. Nếu ai thực hiện như thế, sẽ không bị án phạt, tức là được giải thoát khỏi sự ngu dốt, khỏi sự vô minh. Không nghiệm chứng, suy nghiệm, suy tư Phúc Âm, tất nhiên suốt đời trầm luân nơi sự ngu dốt, vô minh, chẳng thể nào thức ngộ được. Sự ngu dốt, vô minh này chính là sự xét xử, sự trừng phạt tự mình đã chấp nhận chứ không phải Chúa, Phật, nào gieo họa cho mình. Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng cho mặt trời soi sáng cho tất cả và làm mưa trên tất cả. Ngài chẳng thiên vị bất cứ ai; Ngài dọn mâm cỗ khôn ngoan, ai ăn thì no, khỏi bị đói khát sự khôn ngoan, khỏi bị ngu muội. Ngài ban phát sự khôn ngoan như nước sông, nước nước mưa tự trời; kẻ nào uống sẽ không bị khát. Kẻ nào tuyên xưng rằng tin vào Ngài mà không ăn, không uống những lời Ngài rao giảng thì suốt đời mê muội vì đã vô ý thức lãng phí cơ hội thăng tiến tâm linh nơi cuộc sống hữu hình này. Để kết thúc, Thy Loan nhắc lại lời Phúc Âm phù hợp với ý nghĩa nghiệm chứng này, “Đức tin con cứu chữa con.” Và như vậy, người phạm tội là người không để ý gì đến những lời khôn ngoan Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm. Tội chính là thái độ ù lỳ, thiếu nhận thức, ý thức về những lời khôn ngoan này. Aùn phạt tất nhiên là sự mê muội chẳng những đời này mà cả đời sau vì đã không sử dụng đúng ngày giờ được ban cho để thăng tiến tâm linh. Ai không để ý nghiệm chứng sự khôn ngoan, lẽ đương nhiên lỡ chuyến đò giải thoát, lỡ chuyến đò cứu chuộc khoûi söï tăm toái.
Câu hỏi 5: Phúc Âm thánh Luca đoạn 9 câu 62 được viết, “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa.” Nước Thiên Chúa đâu cần cày cần cuốc! Câu này muốn nói gì vậy?
Trả lời câu hỏi 5. Bất kham đối với Nước Thiên Chúa. Nếu đọc Phúc Âm thánh Luca đoạn 9 từ câu 59 tới hết câu 62, chúng ta thấy, “Ngài nói cùng người khác: 'Hãy theo Ta!' Người ấy thưa: 'Xin cho phép tôi lui về trước đã mà chôn cất cha tôi.' Ngài bảo người ấy: 'Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Có người khác nói: 'Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về trước đã để từ biệt người nhà tôi.' Nhưng Đức Giêsu bảo [người ấy]: 'Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!” Dĩ nhiên, Nước Thiên Chúa không phải là bất cứ nơi chốn loại nào dù vô hình hay hữu hình vì nếu đã là vô hình thì sao những con mắt thịt của chúng ta có thể nhận thấy, và nếu đã nhận thấy và đến được, chúng ta cũng biến nó thành nước trần gian. Phúc Âm rõ ràng xác định cho chúng ta: “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được 'này ở đây' hay 'ở đó', vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21), đã đến gần (Mt. 3:2; 4:17;10:7), gần bên (Mc. 1:15), hay đã đến (Mt. 12:29; Lc. 11:20).
Thoạt mới đọc câu “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!” Thy Loan muốn nhảy quay lên vì lời Chúa nói chi kỳ cục. Tuy nhiên, nơi tiềm thức cố hữu nào đó có lẽ từ thời nằm ngửa rửa tội, ý nghĩ 'chẳng lẽ Phúc Âm viết điều vô lý' cứ lởn vởn thúc đẩy tâm trí cố gắng suy nghiệm cho thấu câu nói kỳ cục này. Dĩ nhiên, các bạn đều biết, bất cứ hành trình vạn dặm hay ngắn ngủi nào cũng đều được bắt đầu bằng một bước chân. Bất cứ thành quả lớn lao nào cũng đều được bắt đầu bằng suy tưởng; và những sự suy tưởng này bao gồm nhiều khía cạnh chẳng hạn kinh nghiệm, kiến thức, ước mơ, động lực thúc đẩy, ý thích, ham muốn, tưởng tượng, bàn hỏi, tham khảo, dự đoán, thực hành, và muôn vàn suy nghiệm nối tiếp trong tiến trình thực hiện nơi những thất bại hay thành công. Riêng trường hợp suy nghiệm những câu nói nghịch thường, nhà Phật gọi là công án, tiến trình thường được bắt đầu bằng những câu hỏi hoặc nơi những trường hợp quá quen thuộc thì lại cần sự nghi ngờ. Thêm vào đó, có lẽ Thy Loan đã quen thói trên không sợ trời, dưới không sợ đất, nhưng ở giữa sợ cái miệng con người nói những điều chẳng biết mình nói gì vì chỉ là nô lệ cho ước muốn được người khác cho mình là thế nọ thế kia hoặc kiếm chác chút danh vọng hão huyền, hay bị động ổ phải lạm dụng bất cứ vai trò, vị thế nào đó để bảo vệ thế đứng của mình, Thy Loan âm thầm đặt vấn đề. Tra tay cầm cày mang nghĩa gì, ám chỉ điều chi? Thái độ những người đi cày bên đất Do Thái thế nào mà lại đặt vấn đề ngó lui sau. Ngó sự gì? Tại sao dùng tiếng bất kham, và Nước Thiên Chúa là gì? Nếu đem áp dụng theo nghĩa suy tưởng nơi tâm linh thì tra tay cầm cày nơi tâm trí được áp dụng ra sao? Ngó lui sau nơi tâm trí như thế nào? Bất kham phỏng có nghĩa không thể sử dụng hay lỗi thời? Nước Thiên Chúa nơi lãnh vực tâm trí phải nhận định ra sao. Chỉ Đức Giêsu biết được Thiên Chúa mà tại sao Ngài không diễn tả theo hình bóng hữu hình? Vậy Thiên Chúa liên hệ với Nước Thiên Chúa như thế nào; có liên quan gì đến con người không? Tại sao Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt. 6:33; Lc. 12:32)? Câu Phúc Âm coi bộ đơn giản cày cuốc mà Thy Loan đã bị phiền hà đến nỗi phải đặt nhiều vấn đề như thế. Chưa hết đâu, suốt hai tuần lễ khốn khổ vì tâm trí cứ luẩn quẩn với cái cày nơi Phúc Âm, nhiều lúc Thy Loan phải kiếm sách cố tìm hình vẽ chiếc cày thời xưa của người Do Thái xem chữ tra tay mang nghĩa áp dụng thế nào.
Nơi trang 20 của cuốn sách Everyday Life in Bible Times do National Geographic Society xuất bản năm 1967 in hình đôi bò đang kéo chiếc cày rường bằng gỗ có người đi sau cầm chuôi cày đè xuống. Cứ theo con mắt Thy Loan, chiếc cày dân Do Thái dùng dở hơn cày của người Việt mình xa. Theo hình chụp, cày của dân Do Thái không lật đất được, mà đất đây đó, lại có pha những viên đá lổn ngổn. Không hiểu có phải vì phải lo điều khiển lưỡi cày tránh những viên đá lớn lẫn lộn nơi đất nên nếu ngó về phía sau có thể đụng đá gãy lưỡi cày chăng! Đàng khác, khi so sánh những bản dịch Kinh Thánh khác, hai bản tiếng Việt và mấy bản tiếng Anh (5) đều dịch cùng một nghĩa. Thế mà bản dịch New American Bible không hiểu sao dịch giả lại hứng chí dịch thừa đôi chữ. Đại khái những bản khác viết, “No one who puts his hand to the plow and looks back is fit for the kingdom of God” (Oxford). NAB viết, “...looks to what was left behind...” Chuyện đời đã lắm điều rắc rối, mấy nhà dịch giả lại cố gắng bày thêm nhiều sự rối rắm, quả là phiền! Nói rằng cầm cày mà quay trở lại hoặc đi giật lùi, lưng tới trước, tức là không thể nhìn thấy đá để lách lưỡi cày thì không cày được chứ sao lại bất kham, và có ai làm như thế bao giờ đâu. Đàng này lại còn bày ra “left behind” là thế nào? Rãnh đất vừa cày thì có gì mà phải ngó lui sau. Hơn nữa, lý do gì khiến những dịch giả dịch khác nhau hoặc thiếu hoặc thừa đôi chữ tạo thêm ảnh hưởng hoặc khác biệt nơi sự suy nghiệm? Có thể văn từ Hy Lạp mang nhiều nghĩa, chẳng hạn như chữ “Metanoia” (Mc. 1:15) mà đa số dịch giả chỉ hiểu theo nghĩa thông thường của thời đại sau này hoặc bị hạn chế theo thói quen hay không dám dịch khác lối suy luận cũ do e sợ không được chấp nhận hoặc tệ hại hơn lại bị kết án như Galiéo thuở xưa, thay vì ý nghĩa đúng đắn hơn nhưng khó chấp nhận theo văn hay ngôn từ ở thời Kinh Thánh được viết? Tuy nhiên, dẫu dịch hơn hay kém đôi chữ, thì sự quay lại hay ngó lại những gì đã được để lại nào có chi hơn kém đâu! Thy Loan không muốn bới bèo ra bọ nhưng khổ nỗi những con bọ to hơn bèo thì không bới cũng đã nhìn thấy. Thêm vào đó, trong vấn đề suy tư cũng như trên thực tế, có những yếu tố coi bộ quá nhỏ nhặt lại mang hiệu lực lớn lao thay đổi hoặc biến đổi đường hướng suy tư cũng như thành quả nhận định; chẳng khác gì chỉ một con sâu nhỏ bé đã đủ mãnh lực làm rầu nồi canh dưới con mắt thực khách.
Suy như vậy, có lẽ bạn cũng nhận thấy lý do đã khiến Thy Loan phải cố sức vận dụng tất cả khả năng suy tư để tìm tòi bất cứ yếu tố nào có thể được nghĩ tới để tổng hợp, hy vọng sự tổng hợp này le lói đôi tia sáng nhỏ mọn làm sáng tỏ tiến trình nhận thức được chút nào hay chút ấy. Nói không cần che dấu, Thy Loan cũng e ngại cảnh “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết” lắm; nhất là những đầu óc xưa nay đã quen thói bảo sao nghe vậy sợ rằng bị kết án rối đạo, như thành quả của lời răn dậy, “Chúng ta phải tin với Giáo Hội.” Ấy, tâm thức con chiên nằm ngửa khốn khổ thế đấy. Dẫu lời Phúc Âm ngang tàng như hét vào tai Thy Loan, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó” (Gioan 6:44), “Vì thế, Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta, trừ phi là đã được Cha ban cho” (Gioan 6:65), hoặc “Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha sẽ nói trong các ngươi” (Mt. 10:19), nhưng tấm gương to tổ bố của Galiléo vẫn không thể nào được xóa mờ nơi tâm trí Thy Loan. Đành rằng đã có đấng đại diện Giáo Hội bày tỏ sự ăn năn, nhưng phỏng được ơn ích gì cho Galiléo khi ông còn sống. Thêm vào đó, lỡ thiên hạ lại hùa nhau đè Thy Loan đánh cho vài hèo, rách bố nó cái quần trật mông ra thì còn thể thống gì nữa, tàn đời thân phận con gái có đạo. Thế nên, ý nghĩ khốn khổ khốn nạn, thà rằng tỏ ra ngu muội mà an thân còn hơn trung thực với Lời Chúa để trở thành tội phạm của tổ chức thế tục được gọi là tôn giáo hay bất cứ giáo phái nào vẫn cứ nơm nớp đe dọa tâm trí Thy Loan không hề ngưng nghỉ, đặc biệt mỗi khi suy nghiệm về Phúc Âm.
Suy nghĩ cho lắm để rồi e ngại cầu mong niềm an bình nhưng vẫn cứ bị câu nói quái ác hấp dẫn, Thy Loan đọc lại đoạn Phúc Âm có câu cầm cày, và vẫn quen thói tự hỏi, tại sao người ta xin về từ biệt thân nhân mà Phúc Âm lại nói tới ngó lui sau? Sự ngó lui sau có gì liên hệ với sự từ biệt thân nhân mà Phúc Âm được ráp nối lãng nhách như thế? Cái cày có thể biểu hiệu điều gì, theo đường hướng nào? Thân nhân mang ý chỉ sự chi? Và thế rồi đùng một cái, “Bất kham đối với Nước Thiên Chúa.” Vớ vẩn! Thy Loan nghĩ, nói gì kỳ cục, đang thân nhân, nhảy sang cày cuốc và quăng ngay Nước Thiên Chúa vào khiến cho tâm trí người đọc lộn tùng phèo, lại còn bất kham. Đầu óc Thy Loan rối tung lên, mấy chữ biểu hiệu những thứ chẳng ăn nhập gì với nhau được xếp gần nhau tạo thành cơn lốc không định hướng, Thy Loan tự nghĩ, cộng thêm phần nào cảm ứng chán nản, uống thử ly bia xem men rượu có đánh phá được cơn lốc Lời Chúa này không. Và lon bia được mở kèm theo ly nước đá. Mấy ông ham nhậu sao có thể thèm thuồng thứ nước non đắng ngắt này, Thy Loan nhăn mặt cố nuốt ngụm bia, thầm hỏi. Quỷ ma, dẫu đã được pha loãng bởi nước đá mà nó cứ còn cảm giác nhặng nhặng nơi cái miệng, thế mà lắm kẻ cứ uống như nước lã. Thy Loan chợt nhận ra người ta chỉ nghiện những thứ đắng cay chứ có ai nghiện ngập điều ngon ngọt bao giờ. Nói đúng sự thực, đây không phải lần đầu Thy Loan uống bia, nhưng những lúc khác, Thy Loan học đòi nhấm nháp trong khi ăn uống với bạn bè hay người thân quen nên có lẽ mùi vị thực phẩm nhất là ớt đã làm giảm bớt chất đắng của bia chăng. Thế là tạ ơn trời, vật lộn với vị bia đã làm tâm trí Thy Loan nhẹ nhõm được phần nào. À thì ra, mới đầu bia đắng nhưng cố nuốt đến hớp thứ tư thì nó cũng có vị hay hay, phê phê thế nào đó, không nói được. Hèn chi mấy ông dẫu bị bà xã cằn nhằn vì nhậu với nhoẹt hết lần nọ tới lần kia nhưng vẫn cứ chứng nào tật nấy. Lại còn có người dám cả gan tuyên bố, thà bỏ vợ chứ không bỏ nhậu. Ông nào dám cả gan tuyên bố như vậy đúng là vừa dốt lại vừa quẩn. Bà xã cằn nhằn thì kiếm cách cho bà ấy nghiện luôn có phải là được cả đàng nọ lẫn đàng kia khôâng! Cổ nhân có câu, “Cơm nhà quà vợ” mà liều lĩnh tuyên bố như thế coi chừng mất cả chì lẫn chài, mất cả quà và mất cả nhậu. Chiều vợ, sợ vợ nào thiệt chi, ngược lại chỉ có lời; gọi dạ bảo vâng cho nàng nổi trước mặt quần chúng thì có bảo nàng bán nhà mua đồ nhậu mời khách ăn uống nàng cũng chịu chứ bỏ nàng thì chỉ còn cách ngủ với bò đực.
Nói đến bò, cái cày lại hiện lên nơi tâm trí qua hình ảnh chụp từ xã hội Do Thái kèm theo hai tiếng “bất kham.” Chẳng hiểu Thy Loan đã nuốt đến ngụm bia thứ mấy, nên đã có vẻ quen tay cầm ly đưa lên đưa xuống mà lòng cảm thấy lâng lâng, lãng đãng tiếp tục lập đi lập lại câu Phúc Âm nghịch thường, “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa.” Tại sao bất kham? Vì ngó lui sau bởi tra tay cầm cày không ngó lui sau đâu có gì để nói. Vậy thì tra tay cầm cày phải có liên hệ với Nước Thiên Chúa. Liên hệ thế nào? Tra tay cầm cày tất nhiên bắt đầu công việc cày đất. Có liên hệ với Nước Thiên Chúa, phải được hiểu bắt đầu hoặc theo đuổi hay thực hiện kiếm tìm hoặc thực hiện hành trình kiếm Nước Thiên Chúa. Ah! Người muốn theo Đức Giêsu nhưng xin về từ giã thân nhân được coi như kẻ cầm cày bởi Đức Giêsu rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thế nên việc từ giã thân nhân được nói thành “ngó lui sau.” Vậy những người kiếm tìm Nước Trời phải dứt khoát với những sự thân thiết nơi cuộc đời... Nhưng Đức Giêsu không chống báng việc thân thiết nơi tình nghĩa gia đình. Vậy sự thân thiết này mang ý nghĩa gì? Câu nào nơi Phúc Âm nói về sự thân thiết, hoặc dứt bỏ? Lật Phúc Âm, Thy Loan thấy câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Ta” (Mt. 10:37). Câu này các cố đạo thường giảng Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu Ngài hơn yêu cha mẹ mà! Và Thy Loan đã có lần nói các dịch giả nơi bản dịch mới (1994) đã biến lời Phúc Âm thành không tưởng rồi, khỏi cần nhắc lại. Cả là một đám “Ăn cơm chúa, múa tối ngày,” múa lung tung, múa làm nhục cả cho Chúa mà cứ hồ hởi vinh vang là làm sáng danh Chúa, là hy sinh, là bỏ mình, quên mình vì tha nhân, vì phần rỗi các linh hồn. Tức quá, cứ mỗi lần nhớ đến lời nói các cha, các sơ hy sinh, Thy Loan thực lòng cầu nguyện cho họ bỏ áo dòng ra lập gia đình để nếm thử mùi không hy sinh xem sao. Có ông cha nào cởi áo ra lấy vợ mà có thể làm ăn nên hồn đâu. Có bà sơ nào lấy chồng mà vui sướng được như giáo dân đâu! Những gương trước mắt sờ sờ ra đấy mà cứ hy sinh, dâng mình rối lên. Chẳng lạ gì Đức Cha Bùi Tuần có lần viết, “Phục vụ chẳng được bao nhiêu mà sự đòi hỏi lại quá nhiều... tin buồn” (Thy Loan nhớ đại khái). Đã nhiều lần Thy Loan nghĩ, hãy cứ chu toàn bổån phận của mình cho xứng đáng thì mọi người sẽ biết chứ cần gì phải quảng cáo. Sự thật không cần ai quảng cáo, không cần ai bảo vệ. Tất cả những sự quảng cáo chỉ là lối đánh lừa nếu không có mục đích công bố thực thể sự việc. Đức Giêsu công bố tin mừng, rao giảng tin mừng chứ không quảng cáo. Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ nói Ngài hy sinh. Chúng ta nói Ngài hy sinh. Chúng ta nói dùm, nói điều mình không hiểu mà cũng cứ nói, thế mới lạ!
Tức quá, Thy Loan lật Phúc Âm Marcô xem thử có kiếm được gì không. Lại đụng văn từ cải thiện, “Metanoia.” Vứt bỏ quá khứ, thay đổi não trạng, chuyển hướng, suy nghĩ khác thường, nhìn vượt lên, Thy Loan chợt nhớ lại câu chuyện hai vợ chồng người bạn cãi nhau vì khác quan niệm. Như vậy sự thân thiết gia đình, thân nhân được ám chỉ những gì thân thiết nhất đối với tâm trí người kiếm tìm Nước Thiên Chúa. Và như vậy, quay trở lại là không dứt bỏ được quan niệm cũ, hèn gì được gọi là bất kham. Suy luận như thế thì kẻ nào tìm kiếm Nước Trời mà không bỏ được quan niệm đang có thì không thể nào kiếm được Nước Trời. Rõ dốt, Thy Loan tự lẩm bẩm, chỉ có thế mà nghĩ mãi không ra. Xin cảm ơn những người thích ăn nhậu vì nhờ có họ mà Thy Loan có được mấy ngụm bia phụ giúp sự suy tư.
Tóm lại, quay về từ biệt người nhà có nghĩa còn bám víu nơi những gì thân thiết đối với mình. Cho nên, phù hợp với hành động quay lại, nối tiếc, tha thiết, khó dứt bỏ, tức là còn lệ thuộc vào lề lối suy tư cũ, thế tục, không thể thức ngộ, không thể kiếm được Nước Trời. Bất kham đối với nước Thiên Chúa tức là không phù hợp, không lọt vào được, không thể nhận thức. Đơn giản chỉ có vậy, nhưng không phải vậy. Nếu xét tổng hợp về bốn câu nơi Luca (9:59-62), chỉ bốn câu ngắn gọn nhưng được chia hai phần, mỗi phần gồm có một câu nói khác thường nhưng đều nhắm vào một mục đích; đó là sự tối cần, tối quan hệ của sự rao giảng Nước Thiên Chúa. Sự rao giảng này được Phúc Âm cho là quan trọng hơn hiếu đễ vì sự chôn cất mang tính cách nghĩa tử nghĩa tận. Công việc này cũng quan trọng hơn tất cả và được ám định bằng những gì thân thiết nhất đối với con người; đó là quan niệm, chiều hướng suy nghiệm, và cần phải được “Metanoia.” Nhận định đến đây, tâm trí Thy Loan bất chợt nảy lên câu hỏi, vậy Nước Thiên Chúa là gì mà phải rao giảng và quan trọng đến thế? Câu này không thuộc phạm vi trả lời, và Thy Loan hình như đã ngà ngà rồi. Hoan hô tính chất lãng đãng.
Câu hỏi 6: Chúa nói: “Dầu một sợi tóc trên đầu con rụng xuống thì cũng là do ý Cha ở trên trời.” Vậy thì một ngày trời mưa lâm râm, nhàn hạ ở nhà, bà vợ nhìn lên thấy đầu chồng lốm đốm muối tiêu bèn đè đầu chồng xuống nhổ liền một lúc vài chục sợi tóc bạc, thế thì những sợi tóc bạc bị nhổ đi đó là do ý bà xã hay do ý Chúa?
Trả lời câu hỏi 6: Ý Chúa hay ý bà xã? Bản dịch của N. T. Thuấn phần Phúc Âm Matthêu đoạn 10 câu 29-31 được viết: “Hai con chim sẻ há không bán một đồng tiền sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các ngươi. Cả những sợi tóc trên đầu các ngươi cũng đã cộng sổ rồi! Vậy đừng sợ! Các ngươi quý giá hơn nhiều con chim sẻ.” Đồng thời nơi Phúc Âm Luca (12:6-7) cũng có lời chép, “Năm con chim sẻ há không bán hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị quên đi trước mặt Thiên Chúa! Song cả những sợi tóc trên đầu các ngươi cũng đã được cộng sổ cả rồi! Đừng sợ! Các ngươi quí giá hơn nhiều con chim sẻ.” Cả hai Phúc Âm, phần trước của lời nhắn nhủ này đều nói về “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác và sau đó không còn có thể làm gì hơn được nữa. Hãy sợ Đấng, cho chết rồi, lại có quyền tống vào hỏa ngục,” (Lc. 12:4-5; Mt. 10:28).
Từ xưa, đã lâu lắm rồi, không nhớ được bắt đầu từ ngày tháng nào nơi cuộc đời mình nữa, Thy Loan đã được nghe cố đạo công bố giống như phần vào đề bạn viết: “Dầu một sợi tóc trên đầu con rụng xuống thì cũng là do ý Cha ở trên trời...” Cố gắng gợi lại nơi tiềm thức và nếu Thy Loan không lầm, thường thì các đấng hay giảng rằng Thiên Chúa quan phòng hết mọi sự, chúng ta chỉ lo sao phụng thờ Ngài là mọi việc êm xuôi, được cả đời này lẫn đời sau. Còn nhiều, nhiều nữa, cố đứng trên bục, giảng một thôi một hồi, đầy đủ mọi chiều hướng luân lý để dồn về một mối phải chăm lo đi lễ đi nhà thờ, phải làm lành lánh dữ, chừa sửa tội lỗi; vì Chúa thông biết vô cùng, nếu không Chúa phạt. Có bà phước còn dạy Thy Loan rằng Chúa sai thiên thần ghi sổ công đức cũng như những lỗi lầm chúng ta đã phạm để khi chết đến trước mặt Chúa sẽ được đưa ra xét xử. Gia đình Thy Loan thuộc loại ngoan đạo và Thy Loan cũng kính mến Chúa lắm nên không muốn mất lòng Chúa, thế nên tháng nào cũng đi xưng tội. Khổ nỗi, nhiều lần muốn xưng tội mà không có tội để xưng, nhưng cũng phải xưng tội thành ra Thy Loan cứ phải khổ sở moi móc, tưởng nhớ đủ chuyện để bới cho ra tội, và bới không nổi lại phải bày ra tội để mà xưng.
Càng có thêm tí tuổi, đầu óc càng sinh tật suy nghĩ nên phát hiện lắm điều suy luận của mình chính Thy Loan cũng phải công nhận là ngang tàng; bởi chúng không rập theo khuôn mẫu những gì đã được dạy dỗ từ xưa tới nay. Lần đầu tiên dám nghĩ về câu Phúc Âm có sợi tóc rụng và chim sẻ, Thy Loan tự hỏi nếu Chúa đã quan phòng thì đâu cần phải làm gì và thế rồi đã cảm thấy mình như phạm một trọng tội vì đã dám đặt vấn đề. Cái tội mà Thy Loan lo sợ ngày ấy là dám suy luận về Lời Chúa. Cũng từ ngày ấy, lắm sự tội cứ nhởn nhơ lôi cuốn tâm trí Thy Loan, và cội nguồn của những sự tội lại là những lời Phúc Âm. Nào là “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta;” nào là “Ai có tai thì nghe;” nào là “Ai có đức tin chỉ bằng hạt cải thì khiến núi, núi di chuyển;” nào là “Đức tin con cứu con;” nào là “Người ta không thể nói được này nước trời ở đây, hay ở đó, vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông;” nào là “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa;” nào là “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu;” nào là “Tuy vậy Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?” Đại khái Thy Loan có thể nói ngay lập tức những câu Phúc Âm mang ý nghĩa ngang ngược như thế không cần suy nghĩ. Nhiều lần đối chất với bạn bè đôi khi với người lớn đã bị kết án là ngang bướng, và đôi khi tự nghĩ mình cũng ngang tàng thế nào ấy; vậy mà Thy Loan lại thấy những lời Phúc Âm còn ngang tàng gấp mấy mình nên cứ tự động phạm tội thắc mắc; để rồi suy luận lý do tại sao hoặc vì cớ gì những câu nói nghịch thường lại được ráp nối thành Lời Chúa.
Một hôm, sau khi nghe quảng cáo về mệnh lệnh Fatima, Thy Loan còn nhớ rõ có phần nào đó nói về đất rẽ ra để cho ba trẻ thấy các linh hồn đang bị phạt nơi hỏa ngục. Vô tình, ý nghĩ ngang ngược chợt đến với tâm trí, vậy ngày nào đó hành tinh được gọi là trái đất này nổ tung như những hành tinh khác đã nổ thì chẳng lẽ hỏa ngục được rời vào trung tâm mặt trời hay sao; vì nếu không như vậy, sẽ không còn hỏa ngục nữa thì lấy gì mà tiếp tục phạt những hồn đang bị cầm giữ nơi ấy, nhưng Thy Loan không dám nói cho ai biết. Bị nói quá về sự ngang tàng, Thy Loan đâm khôn ra, nghĩ gì thì nghĩ, chỉ cần câm miệng là mọi sự ổn thỏa, và rồi câu, “Của thánh đừng cho chó...” đã soi sáng cho Thy Loan an lòng chấp nhận im lặng thay vì khao khát muốn bày tỏ may ra được người khác chấp nhận hoặc đồng ý với suy tư của mình. Mới đầu, Thy Loan cảm thấy mình khá hỗn láo vì đã dám học theo Phúc Âm coi những ai không thuận ý với mình giống như câu nói, nhưng mãi sau mới nhận ra đâu phải ý mình hay phát minh gì cả thể nơi tâm tưởng của mình; mà đó là lời Phúc Âm, mình chỉ học theo, Thy Loan mới tạm yên lòng để tâm trí nguôi ngoai. Và thế là Thy Loan hiểu thêm được ý nghĩa thâm trầm của câu “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu.” Ôi! Quả là sung sướng! Từ đó, Thy Loan để tâm nhận định thái độ của con người theo đạo và đồng thời suy nghiệm về những câu nói ngang tàng nơi Phúc Âm.
Lại một hôm đi lễ, người đọc sách vừa đọc xong câu xướng thì Thy Loan đã quên ngay câu đáp vừa lập lại trước câu xướng. Thy Loan chợt nhận ra đã bao lâu nay, nhiều lần mình không để tâm trí theo dõi và suy gẫm những sự việc đang diễn ra; mà dẫu thân xác nơi nhà thờ nhưng lòng dạ đâu đâu. Hoặc đã nhiều lần nghe cố đạo đọc Phúc Âm nhưng nào có để tâm tìm hiểu Phúc Âm nói về điều gì hoặc so sánh với lời giảng xem sao. Thế nên, bình thường Thy Loan cứ tưởng ai cũng như mình, cũng bày đặt lý luận, tìm hiểu xem những gì xảy đến chung quanh mình có thể ảnh hưởng gì tới suy tư của mình chăng, nhưng Thy Loan đã nghĩ lầm, một sự lầm lẫn lớn lao đã tạo nên muôn vàn ưu tư vì đã nhiều lần tự hỏi mình bất thường hay thiên hạ bất thường. Dĩ nhiên, nơi một bệnh viện tâm trí, chỉ có ông giám đốc là người điên, ngoài ra, bao nhiêu người khác nơi đó đều bình thường. Và rồi lại cũng một hôm Thy Loan để tâm nghe cố đạo giảng về lòng yêu thương của Chúa. Chúa là Cha nhân từ, lòng yêu thương của Ngài vô bờ bến, dù có bà mẹ nào bỏ rơi con mình thì Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài. Lòng thương của Chúa bao la như trời biển. Chúa thương xót con người đến nỗi đã phải sai Con Một của Ngài chết vì tội lỗi để chúng ta được cứu rỗi. Thy Loan chợt có ý nghĩ lạ kỳ vì Thiên Chúa mà cố đạo đang giãi bày về lòng thương của Ngài mông lung thế nào ấy. Cứ theo Kinh Thánh nơi sách Sáng Thế Ký, con người bị Chúa nổi cơn thịnh nộ gán cho hình phạt trầm luân, bới đất, vặt cỏ mới có miếng mà ăn chỉ vì lỗi lầm bất tuân của mụ đệ nhất phu nhân nơi thân phận loài người. Thế mà chính những đứa con cháu của mụ, lôi Con Một của Ngài đem đóng đanh, chết nhục nhã trên cây thập tự thì Ngài lại vui mừng mà tha hết những tội nặng nhẹ của chúng, bất cứ tội nào. Và cũng thế, Thy Loan nghĩ đến một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến tất nhiên phải là Thiên Chúa bất công bởi dù con người thế nào chăng nữa, cũng không lọt ra ngoài giới hạn lòng yêu thương vô bờ bến này được. Người làm lành lánh dữ cũng được yêu thương; kẻ tội lỗi đầy mình càng được ấp ủ, thật tuyệt vời, tha hồ phạm tội. Đồng thời lại cũng một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến ấy lúc khác được rao giảng là rất công thẳng. Ôi chao, nước lửa đụng nhau nơi tâm trí khiến Thy Loan cảm thấy bối rối không hiểu mình đã dám nghĩ sai hay Kinh Thánh viết lộn mà cố đạo giảng về Chúa khi thì thế này, lúc thì thế kia. Khi nói đến yêu thương thì cố thao thao, huyên thuyên bất tận ca tụng lòng yêu thương của Chúa. Lúc khác tuyên bố về Chúa công thẳng thì ngài lại hùng hồn, hăng say răn đe tín hữu coi chừng Chúa phạt nên phải ăn ngay ở lành, năng làm việc phúc đức, chịu khó đi lễ, tới nhà thờ. Không hiểu cố đạo có để ý đến những sự cả sáng đối nghịch ấy nơi những bài giảng hay không; mà riêng với lòng ruột mình, Thy Loan cứ như bị ngồi trên ổ kiến nên rối tung lên, tơi bời hoa lá; chẳng biết mình phải ăn ở thế nào để có thể hài lòng Thiên Chúa tự tương phản theo lời cố đạo giảng dạy. Bởi vậy, nhiều lần tự nghiệm với lòng, Thy Loan cảm thấy lúc đến nhà thờ thì hy vọng tràn đầy, ước mơ đến lòng yêu thương vô bờ bến của Chúa mà lúc ra về cả là một sự lo lắng, ưu uất tràn ngập vì sự công thẳng của Chúa. Tuy nhiên, điều khiến Thy Loan ưu tư nhất lại là chính mắt mình thấy thiên hạ vẫn vô tư; cố giảng sao mặc cố, đi lễ thì cứ đi, chưa bước chân ra khỏi nhà thờ đã lườm nguýt nhau; nhiều khi có những vụ cãi nhau ngay cửa nhà thờ. Hình như họ không sợ sự công thẳng của Chúa hay sao ấy.
Không hiểu các bạn đã được nghe những gì, Thy Loan còn được nghe giảng dạy rằng Chúa ban cho, Chúa định, Chúa thưởng, Chúa phạt, Chúa muốn, và không biết bao nhiêu ý định của Chúa, v.v... Nghe đâu có câu truyện, cố muốn xây nhà xứ mới, con dân không chịu đóng tiền chẳng hiểu vì không có hay không thuận ý, cố lên tòa giảng dùng Phúc Âm phán: Ai không nghe con là không nghe Cha. Coi trên truyền hình, có lẽ các bạn cũng thấy nhiều người đương đường công bố ý Chúa muốn cho tôi thế này, ý Chúa muốn thế kia. Đại khái, những lời tuyên bố này mang mục đích kêu gọi dân chúng cho tiền để làm điều mình muốn thực hiện. Tuy nhiên, thân phận nhân sinh nơi giòng đời biến chuyển minh chứng, chúng ta chỉ nhận ra điều sai lầm khi đã thực hiện một công việc gì; nên thường thì ý Chúa lại chính là ước muốn của người tuyên bố bởi đã không thiếu gì những ý Chúa bị chết chìm không một lời giải thích.
Có thể rằng do những kinh nghiệm nghe giảng giải chỉ một chiều tới: mọi sự do Chúa, ý Chúa, và lúc thì Chúa thế này, lúc thế kia ngược lại, nên tâm trí con dân rối beng cả lên không biết đường nào xoay xở; do đó lối thoát tuyệt vời nhất là nghe xong bỏ đó hoặc để lời giảng lọt vào tai này và thoát qua tai kia không mang dấu tích, lâu dần thành quen nên dẫu được nghe giảng giải đến mấy thì cũng chẳng khác gì nước đổ lá môn. Hơn nữa, nếu ai lỡ dại suy gẫm chút ít khiến lòng bức xúc, lúc nào đó vô tình buột miệng nói lên những ý nghĩ không giống với những bộ óc ù lì chung quanh, dẫu với ý hướng tốt lành muốn khơi động hoặc thúc đẩy con người suy tư như bước đầu của sự thăng tiến tâm linh thì tất nhiên sẽ bị chụp mũ là rối đạo bởi đã dám có ý định tốt lành. Thực tâm Thy Loan cảm thấy sự chụp mũ được mệnh danh bởi hai tiếng “rối đạo” không phải là kết quả do lòng ganh tương, ghen ghét, mà lại chính là biểu hiện của sự lo sợ nơi lòng kẻ phát ngôn. Cũng có thể vì không chịu suy tư nên lên án bất cứ ai có ý nghĩ khác với điều mình đang ấp ủ như một phản ứng bảo vệ; vì người không dám hoặc lười lĩnh suy tư luôn luôn mang tâm trạng không tin chính mình (bởi có suy nghĩ gì đâu mà tin), chỉ nói hùa theo hầu ru ngủ chính mình. Nhiều lần Thy Loan nghĩ, kẻ nghe sao biết vậy hoặc nghe sao lặp lại như thế chỉ là những người nuốt vào bụng mình những gì người khác mửa ra và rồi lại cũng mửa ra y chang như thế. Những loại này Thy Loan tạm gọi là kẻ bệnh hoạn, ăn uống không tiêu; mà chỉ như chiếc ống rỗng, thực phẩm vô đầu này, lọt qua bên kia không thay đổi. Ai cũng biết rõ, thức ăn phải được chuyển biến thành máu nuôi cơ thể. Bởi vậy, kẻ nào ăn không tiêu tất nhiên bệnh hoạn. Tương tự như thế, kẻ nghe hoặc đọc Lời Chúa mà không suy tư, tiêu hóa, chỉ lặp lại như con vẹt tất nhiên mới là kẻ rối đạo vì đã bị bệnh hoạn tâm thần.
Nghiệm chứng thực tại đã khiến Thy Loan nhận ra nhiều sự nghịch thường mà xưa nay cứ được coi là khuôn mẫu. Chẳng hạn, ngày xưa và cả ngày nay, câu nói “Phải tin với Giáo Hội” đã được dùng như lá bùa hộ mạng cho những đầu óc ỷ lại, lạm dụng. Nơi cuộc sống, ai không nhận thấy điều rõ ràng; đó là sự thực không cần ai bảo vệ, quảng bá, vì “Hữu xạ tự nhiên hương.” Sự thực không cần tin vì tự nó vẫn là sự thực. Chúng ta đâu cần tuyên bố, tuyên xưng, có mặt trời, mặt trăng, trái đất này và muôn vàn sự hiện hữu hữu hình cũng như vô hình đang hiện diện chung quanh mọi người. Chẳng lẽ không tin có mặt trời thì mặt trời sẽ biến mất? Có bạn nào cần phải tin hay rêu rao cho mọi người biết mình đang đọc những giòng chữ này không. Và nếu có ai nói rằng không tin bạn đang hoặc đã đọc những giòng chữ này thì chẳng lẽ bạn đã không đọc hoặc Thy Loan chưa bao giờ viết những giòng này. Bạn không cần quảng bá hoặc tin mình đang đọc những giòng này vì đó là sự thực đang xẩy ra. Sự thực giúp con người, soi sáng con người, là cơ hội cho con người tiến dần tới chân lý nơi hành trình tâm linh chứ không cần con người tranh đấu cho nó. Mọi sự tranh đấu, quảng bá đều lệ thuộc mục đích riêng của con người, bị con người sử dụng như một công cụ chứ không ảnh hưởng gì tới sự thực. Thế nên, bảo rằng phải tin với Giáo Hội mang nghĩa bảo sao phải nghe vậy. Nuốt vào như thế nào, mửa ra như vậy; hãy trở nên con người bệnh hoạn, ăn không tiêu hay ít nhất hãy trở nên tâm trí bệnh hoạn. Nơi Phúc Âm có câu: “Sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Gioan 8:32). Thy Loan cảm thấy câu này hình như bị dịch không đúng nghĩa hay dịch thiếu vì sự thật giải thoát chúng ta khỏi bị những điều giả trá lừa đảo; nói cách khác, khi ai đó đã nhận biết được sự thật thì tất cả những gì giả trá, sai lầm không ảnh hưởng họ được nữa. Tuy nhiên, khi đã nhận biết sự thật, con người sẽ lệ thuộc hoặc qui phục sự thật đó chứ không có gì được gọi là tự do. Chỉ có những kẻ ươn lười, thiếu suy nghiệm, nhận thức, mới đặt vấn đề tin hay không tin bởi chẳng có gì đáng phải tin hay không tin. Nếu đã là sự thực thì không tin cũng thế mà tin cũng vậy. Thế tại sao nói “Phải tin với Giáo Hội”? Chẳng lẽ những điều Giáo Hội dạy phải tin, mình nói không tin thì Giáo Hội biến mất hay Chúa biến mất? Nếu những điều Giáo Hội dạy là sự thực thì tin hay không, chúng vẫn là sự thực! Cả là một sự lạ kỳ. Thy Loan nghĩ, Giáo Hội khinh mình quá thể, hoặc ít ra, những đấng bậc đưa ra câu nói này và những đấng bậc rập theo, lạm dụng câu nói đã coi thường nếu không muốn nói là khinh thường dân Chúa. Họ quên rằng, chính Đức Giêsu đã tuyên bố “Phàm sự gì Cha ban cho Ta thì sẽ đến với Ta” (Gioan 6:37) hoặc, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta không lôi kéo nó. Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta.” (Gioan 6:44-45). Xét như vậy, những kẻ theo Đức Giêsu, nhận biết Đức Giêsu qua Phúc Âm, tất nhiên đã được kêu gọi và được dạy dỗ tự Thiên Chúa chứ không ai có thể giảng giải hoặc khuyến khích mà được. Quả là láo lếu, dám tuyên dương quyền hành lớn hơn bậc thầy của mình!
Đồng ý rằng nơi cuộc sống hữu hình, con người cần những thỏa thuận chung được gọi là điều lệ hay pháp luật để bảo vệ lợi ích và quyền lợi chung. Tuy nhiên, nơi những phạm trù tư tưởng, càng tạo ra nhiều giới hạn gò bó càng tạo nên nhiều tai hại lớn lao chẳng khác gì càng thu hẹp miệng giếng nhỏ lại bao nhiêu thì chỉ càng làm cho con ếch ngồi dưới đáy giếng nhìn thấy bầu trời nhỏ hẹp bấy nhiêu. Có điều lạ, con người khát khao tự do, tranh đấu cho tự do, hãnh diện vì có tự do nhưng đã không ý thức đủ nơi lãnh vực tự do tư tưởng. Phỏng đây là thành quả của sự lười biếng suy tư nên chấp nhận nghe sao biết vậy? Dẫu suy tưởng cần phương tiện ý thức, kiến thức nhưng bất cứ ý thức hệ hoặc kiến thức nào gò bó tâm trí con người đều chỉ tạo thành những hậu quả tai hại, đàn áp tiến trình thăng tiến tư duy. Ai cũng biết, dẫu những thành phần đối nghịch nhau, nơi phương diện nào đó vẫn có thể hòa hợp. Chẳng hạn chúng ta có thể đun sôi nước bằng lửa. Thật khó hiểu tại sao người ta thường nấu nước sôi mà ít khi để ý suy nghiệm câu “Nghịch nhau như nước với lửa.” Xét thế, chỉ những đầu óc nhỏ mọn hay lười lĩnh mới đành chấp nhận giới hạn hạn hẹp làm mẫu mực chạy trốn suy tư. Nơi thực tế, nước dập tắt lửa nhưng trường hợp này chỉ là đặc tính nhỏ nơi phương diện liên hệ giữa nước và lửa chứ không phải tất cả sự liên hệ giữa nước và lửa chỉ có thế. Xét nơi trường hợp quan niệm cổ xưa, lý thuyết mặt trời chạy quanh trái đất đã được dùng để bổ túc cho quan niệm minh chứng con người là chủ tể vạn vật; bởi trái đất được coi như trung tâm của vũ trụ. Ngày nay, thực tế minh chứng trái đất quay quanh mặt trời và con người không phải là chủ tể của vũ trụ mà lệ thuộc vũ trụ. Thy Loan không thể hiểu được tại sao hoặc nguyên nhân nào đã phát sinh lý thuyết con người chủ tể vũ trụ trong khi chẳng có thể làm gì để điều khiển mặt trời hoặc mưa gió mà ngược lại, nếu không có mặt trời, không có mưa gió thì có lẽ cũng chẳng có sự hiện hữu của con người. Thế rồi đã có một thời và ngay cả bây giờ, câu hỏi, giả sử có một hành tinh khác giống trái đất nơi vũ trụ thì ơn cứu độ của Đức Giêsu có mang lại lợi ích gì cho loài người nơi hành tinh ấy không, đang khiến những đầu óc thủ cựu hạn hẹp bối rối? Con người lệ thuộc nên khai phá, tìm hiểu vũ trụ để thăng tiến chứ không làm chủ bất cứ gì. Dẫu quan niệm thế nào chăng nữa, sự lệ thuộc của con người vào vũ trụ vẫn đương đường xảy ra. Suy như thế, những giới hạn về suy tưởng chỉ hạn chế nếu không muốn nói là bóp méo nhận thức về thực thể sự vật và sự việc trong khi suy tưởng, suy nghiệm lại chính là phương tiện tuyệt vời nhất mở đường khai phá thực thể hiện hữu. Thế nên, tất cả những gì liên hệ tới sự hạn chế hay gò bó tâm tưởng con người đều cần phải được loại bỏ; vì chúng chính là những độc dược, những thành lũy tàn ác chặn đứng hành trình phát triển tâm linh. Phúc Âm nói gì về sự thể này? Mời quý bạn suy nghiệm lời khuyến khích chẳng ngờ đã được viết hai ngàn năm về trước nơi Mátthêu, “Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục” (Mt. 5:29-30). Ai không nhận ra quan niệm, tư duy, ý định, ước muốn, thân thiết và mang quyền lực mạnh mẽ đối với con người. Thử hỏi, phỏng còn cái hỏa ngục nào tệ hại hơn hỏa ngục của sự ỷ lại, lười biếng suy tưởng? Phúc Âm còn lên án một cách nặng nề đối với những ai lợi dụng vị thế, lợi dụng sự tin tưởng của con người mà cố tình ngăn cản họ suy nghiệm, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không cho vào” (Mt. 23:13). Luca đương đường tuyên án rõ ràng hơn đối với những kẻ bày ra giới hạn suy tưởng, “Khốn cho các ngươi luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muón vào, các ngươi lại ngăn cản (Lc. 11:52). Quả thật đau lòng! Đã bao ngàn năm dân Chúa bị trói buộc tâm tư để trở nên công cụ cho những tham vọng thế tục mà nào ai có thấu. Lời Phúc Âm chình ình ra đó mà có kẻ nào dám nhắc tới, “Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một người nào trong các trẻ nhỏ đã tin vào Ta thì thà nó bị khoanh cối lừa kéo treo cổ và nhận chìm đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian vì những cớ vấp phạm! Tất nhiên cớ vấp phạm phải đến, song khốn cho người làm dịp nên vấp phạm” (Mt. 18:6; Mc. 9:42; Lc. 17:2). Sự thơ ngây của con dân Chúa phải chăng chỉ là kết quả của sự thiếu ý thức, lười suy nghiệm?
Chẳng lạ gì, Thy Loan nghĩ, con người ngại suy nghĩ về bất cứ điều chi không liên hệ trực tiếp tới cuộc sống nên đã tự mang mặc cảm e sợ sai lầm tạo thành yếu điểm chống báng những gì không giống ý mình. Đàng khác, những người được huấn luyện và có trách nhiệm rao giảng đã vì quá lười, học không nên hồn do đó lạm dụng câu nói để “Cả vú lấp miệng em.” Thy Loan dám cả gan thách đố bất cứ bạn nào đang đọc những giòng chữ này dám suy tư để đưa ra định nghĩa câu nói “Tin vào Chúa” mang nghĩa thế nào? Vậy đức tin là gì? Nếu đem so sánh định nghĩa bạn mới đề xướng với những câu nói về đức tin, lòng tin nơi Phúc Âm sẽ ra sao? Thực tâm, Thy Loan dám cả gan nói rằng, không ai có lòng tin hay đức tin giống như Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm. Thế thì những điều được tuyên dương đặt căn bản tự gốc gác nào? “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16:24). Thy Loan nghĩ, có thể con người còn đang chạy trốn Satan, chạy trốn hồng ân, năng lực suy tưởng của mình.
Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại; bởi vì ai cũng cảm thấy ngại ngùng khi bắt đầu thực hiện bất cứ chuyện gì đòi hỏi nhiều cố gắng, nhất là nơi trường hợp chưa có cơ hội chuẩn bị hoặc chưa được hướng dẫn, nên đành chấp nhận những gì xảy đến cho qua. Sự thể này phải xảy đến như kết quả của sự giảng dạy đặt nặng trên căn bản đe dọa những điều gớm ghê sẽ xảy tới ám ảnh tâm trí con người. Ngày xưa cũng như ngày nay, con dân Chúa đã ñöôïc rao giảng về tội lỗi và hỏa ngục quá nhiều nên rất e sợ bị phạt. Lý do đe dọa có lẽ cũng chỉ vì nếu để người ta nêu lên những câu hỏi một cách tự do, những người rao giảng sẽ bí không trả lời được nên phải bày ra những hàng rào ngăn cản. Nếu bạn nào đã vô tình hay cố ý đọc những câu trả lời của hội đồng giám mục VN chuẩn bị cho đại hội đồng giám mục Á Châu họp tại Rôma (1998) sẽ nhận thực rõ ràng hơn mối đe đọa của sự thiếu suy nghiệm. Và nếu bạn nào có bộ gan chỉ bằng nửa của Thy Loan, dám nhè cố đạo hỏi thử vài vấn đề xem các ngài trả lời thế nào thì sẽ cảm nhận được ngay con dân Chúa đã bao nhiêu năm, bao nhiêu cơ hội bị cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Ngược lại, Thy Loan không ngại ngùng gì thách đố cố đạo nhưng lại rất e sợ những đầu óc con dân Chúa đã lỡ bị đầu độc, bị cấm đoán, bị ám ảnh, bị biến thành thùng rác để người ta quăng vô tất cả những gì xưa nay người ta không thể chịu đựng nổi. Có lẽ đây nguyên cớ tạo thành câu Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Khi nước đã đầy tràn tới miệng ly chẳng còn chỗ trống nào để chứa đựng, bạn không thể đổ hoặc bỏ thêm bất cứ gì. Cũng thế, một khi đầu óc không muốn suy tư mà chỉ biết chứa đựng đầy đặc những lý thuyết chưa được tiêu hóa, nguyên sự xáo trộn của những kiến thức giáo điều cứng ngắc, không thứ nào chịu hòa hợp với thứ nào, đã đủ khiến cho đầu óc bối rối phát sinh e sợ khiến cho bất cứ sự khôn ngoan nào cũng không còn chỗ hội nhập. Thêm vào đó, nếu đóng cửa ngăn chặn những điều không thuận với quan niệm của mình thì chắc chắn sự khôn ngoan cũng đành phải ở ngoài.
Vài vấn đề được nhận định theo quan điểm tự nhiên chỉ có chủ đích khơi mào để mời bạn tự do nhận xét những gì được cảm nghiệm về hai tiếng “ý Chúa” mà bạn đặt thành câu hỏi. Thêm vào đó, muốn biết ý Chúa hay ý “bà xã” vẫn còn sự phiền hà. Bà xã thì bạn đã biết, Thy Loan không biết; có điều bà xã của bạn không ăn nhập gì tới câu trả lời của Thy Loan mà gốc gác của ý Chúa lại chính là Chúa mới phiền. Thế nên, muốn trung thực nhận định về ý Chúa chúng ta cần có sự nhận thức cảm nghiệm dẫn tới nghiệm chứng để trình bày suy nghiệm về Chúa. Lẽ đương nhiên, ngang bướng như Thy Loan thì một Thiên Chúa ngự trị chót vót trên đỉnh chín tầng trời, nắm quyền sinh sát, hoặc định phận số cho muôn người là điều đã bị xóa khỏi sổ sách suy tư; bởi nếu đã bị định đoạt thân phận rồi đâu cần gì phải năn nỉ, ỉ ôi. Nếu Thy Loan đã bị kết án sẽ bị đày ải tận đáy trăm tầng địa ngục thì có cố gắng sống thánh thiện cách mấy cũng bằng thừa, chi bằng ăn chơi đàng điếm cho thoaû kiếp người bởi đàng nào cũng đã được định đoạt phải như thế. Và nếu Thy Loan đã được định đoạt sau khi chết, linh hồn sẽ trở nên bà thánh sáng giá cho muôn đời noi gương thì ăn chơi lại càng là điều nên hưởng bởi đàng nào thì cũng tới đó; ngược lại, không biết hưởng sự sung sướng thế gian, sao có thể cảm thấy khoái trá với thiên đàng đã được dọn sẵn cho mình! Và nếu có Chúa hữu thể kiểu này chúng ta lại càng không thể nói về ý Chúa được bởi mình không phải là Chúa tất nhiên không thể biết được ý của Ngài! Lý do, làm sao có thể chiều lòng được một Thiên Chúa yêu thương đến độ bất công như thường được thiên hạ rao giảng, đồng thời lại cũng công thẳng và không nương tay trừng trị bất cứ ai không làm hài lòng Ngài. Chẳng thà cứ chấp nhận một Đấng công thẳng lại chắc ăn vì không phải e sợ bị Ngài thiên vị theo hứng khởi bất thường.
Thomas Aquinas có câu nói ít ai ngờ, ít ngöôøi daùm suy nghó tôùi; Thy Loan không nhớ mình đã đọc được nơi quyển sách nào, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể suy tưởng về Ngài, và những gì chúng ta có thể nghĩ được về Chúa thì không phải là Chúa mà chỉ là sự tưởng tượng.” Nơi Ấn học, Lão học, Trang học, Phật học, Mật Tông Tây Tạng, Điểm Đạo Ai Cập, dùng những danh hiệu khác nhau chỉ về cùng một Thực Thể Tối Thượng mà bạn gọi là Chúa; đồng thời mỗi đạo học lại có đường hướng, phương thức, cảm nghiệm, nghiệm chứng, và suy nghiệm khác nhau về cùng một thực thể này. Chẳng những thế, mỗi ngành đạo học, lại bao gồm nhiều tông phái khác nhau, và tất nhiên cũng có nhiều đường hướng suy nghiệm và phương thức nghiệm chứng giúp người tu chứng thức ngộ, giác ngộ, hay đạt đạo. Nhà Phật gọi người thức ngộ là Phật. Tựu trung, tất cả mọi tông phái đạo học dù sử dụng phương thức nào đều quy về một mục đích nhận thức sự liên hệ của con người với Thực Thể Tuyệt Đối Tối Thượng và với vạn vật. Sự thực hiện hành trình tiến tới nhận thức này được gọi là tu chứng và người đạt tới thực thể trạng thái liên hệ tức là người thức ngộ, hay Phật. Dĩ nhiên, nơi hành trình tu chứng, tùy trình độ nghiệm chứng, con người phát triển được những khả năng nào đó tùy thuộc phương thức luyện tập. Riêng nơi lãnh vực tâm linh, hành trình tu chứng hoàn toàn thuộc về suy nghiệm, nghiệm chứng. Có lẽ bạn thừa biết, tất cả các đạo học đều là kết quả của sự thực hiện hành trình tâm linh hòng thỏa mãn lòng khát khao tâm linh. Lòng khát khao này được thể hiện qua ba phương diện: Mật tông, minh triết, và tôn giáo. Không có sự so sánh giữa các phương diện vì những phương diện này đều là phương tiện thể hiện lòng khao khát tâm linh tùy thuộc căn cơ con người nên không thể nói về hơn kém mà chỉ hợp hay không với người tu chứng. Mật tông đòi hỏi người tu hành một căn cơ đặc biệt để thực hiện những sự tập luyện gắt gao vừa thể xác vừa tinh thần và lại cần những vị thày đã đạt đạo tận tâm hướng dẫn. Mật tông tương tự như Điểm Đạo, đích cuối cùng của người tu chứng là kinh nghiệm thoát hồn để nghiệm chứng thực thể con người không phải chỉ là xác thân có cuộc sống giới hạn mà là thực thể tâm linh; xác thân chỉ giống như nhà tù cải tạo hay phương tiện hoặc cơ hội cho hồn thăng tiến. Minh triết dùng trí tuệ làm phương tiện nên là phương thức nhanh nhất và cần thiết nhất; vì dù mật tông hay tôn giáo, cả hai đều cần trí tuệ mới có thể thức ngộ. Tôn giáo dùng đường lối tôn sùng, thờ phượng để định tâm, nâng tâm hồn hợp nhất với Bản Thể Tuyệt Đối Tối Thượng. Có điều lạ, điểm khởi hành và đích tận cùng của hành trình tu chứng lại cũng chỉ là một và cũng chỉ trong giới hạn sự trả lời câu hỏi “Tôi là ai.” Nếu ai đã nghiệm chứng đều nhận ra câu nói nghịch thường nơi Lão học ám định sự thể này. Đó là câu, “Không làm gì mà không sự việc gì không làm.” Thy Loan tạm rút ngắn cho gọn nên thường lẩm bẩm “không làm gì là làm tất cả.” Không nhớ được đã đọc nơi đâu câu nói, “Con người được sinh ra với đầy đủ mọi kiến thức cần thiết. Tất cả những gì mình có thể học được chỉ là những sự nhắc nhở cho mình nhận ra những gì đã có sẵn,” Thy Loan thích câu này nên rán nghiệm thử hầu cùng bạn nhận biết Chúa, may ra kiếm được ý Chúa nơi hành trình trả lời câu hỏi “Tôi là ai” theo phương thức tu chứng của các đạo học Đông Phương, cho có vẻ Đông Phương để trả lời.
Tất nhiên, Thy Loan không phải là Thy Loan vì Thy Loan chỉ là bút hiệu. Thế nên, nói theo nhà Phật, vì không phải Thy Loan nên tạm gọi là Thy Loan, cũng không phải phái nữ, vì nữ phái là phái tính chứ không phải Thy Loan, cũng không phải người trả lời bởi sự viết trả lời câu hỏi chỉ là thú tiêu khiển chứ không phải Thy Loan; cũng không phải người làm công cho hãng xưởng bởi đó là nghề kiếm tiền sinh sống chứ không phải Thy Loan. Vậy “Tôi là ai?” Thy Loan là ai? Thú thực với bạn, Thy Loan biết rõ mình nhưng nói về phương diện nào cũng không phải Thy Loan và cũng không thể nói được, chỉ có thể nghiệm hay cảm nhận được chẳng khác gì câu nói ngây ngô nơi lão học, “Người nói không biết; kẻ biết không nói.” Thy Loan biết mình nhưng không thể nói ra được, mà càng cố gắng giãi bày thì lại càng chẳng nói được gì, mà có chăng chỉ khiến bạn và quý độc giả cảm thấy rối loạn. Có điều, nhiều sự lạ lùng cả thể mà có lẽ cũng như Thy Loan chưa bao giờ hoặc hiếm khi bạn để ý. Thy Loan có hai con mắt, nó không giống bất cứ phần thân thể nào được gọi là của Thy Loan. Giả sử nó được cấu tạo như ngón tay cái, chắc chắn mù rồi eo ơi, hết đường “đả tự,” hết viết nhăng, viết cuội. Tự kiểm, Thy Loan lại nhận ra lắm thứ lạ lùng nơi mình. Chẳng hạn các bộ phận nơi cơ thể kể cả lòng ruột có những cơ cấu khác nhau. Con tim, lá phổi chúng cứ như là những bộ máy thật tuyệt vời, mấy chục năm rồi làm việc không ngưng nghỉ vì nếu chúng ngưng đôi phút thế là hai năm mươi. Nếu đem so sánh với những bộ máy được gọi tinh xảo do con người chế tạo, bộ lòng ruột và những thứ khác nơi Thy Loan coi bộ tinh tiến gấp biết bao nhiêu lần.
Đã nhiều khi Thy Loan tự hỏi, quyền lực nào khiến con tim đập, lá phổi thở dẫu khi ngủ con người quên chính bản thân mình. Một hôm, Thy Loan cắc cớ hỏi thử một ông bác sĩ mổ xẻ tại sao con tim đập, và được ông ấy trả lời đó là do sự chuyển vận của máu. Thy Loan im lặng không hỏi thêm nhưng nghĩ rằng lực phát động nhịp đập của con tim để bơm máu sẽ bị giảm khi máu đi qua hành trình chuyển vận và trở về thì sự chuyển vận của máu không thể tạo thành những nhịp đập kế tiếp, và như vậy phải có một năng lực bổ túc. Năng lực này phát sinh từ đâu? Thêm vào đó, mọi người được sinh trưởng từ những cung lòng các bà mẹ khác nhau thế sao cái mũi cứ giữa mặt mà ngự trị. Không hiểu quý bạn đi nhiều hiểu lắm, thấy tận mắt những điều lạ kỳ, huyền nhiệm đã bao giờ thấy ai có cái miệng trên vai, cặp mắt nơi hai đầu gối, cái mũi đàng lưng hay chưa? Thực tình, Thy Loan chưa bao giờ gặp sự thể như vậy. Sự suy nghiệm này dẫn tâm trí Thy Loan đến kết luận đó là có quyền lực cả thể nào đó đang hoạt động ngay nơi chính mình mà đã bao lâu nay Thy Loan không để ý. Thy Loan tiếp tục suy gẫm, lòng tự bảo lòng (chưa dám huênh hoang vung vít tuyên bố e lỡ mình sai) sự huyền nhiệm cả thể nào đó đang ngự trị nơi mình nên luôn luôn cảm thấy lạ lùng với chính mình. Nhiều lần Thy Loan tự hỏi, giả sử con tim ngưng đập thì sao. Thế là cảm giác ớn da gà xảy đến ngay lập tức, chạy dọc từ dãy xương sống ngược lên tới đỉnh đầu. Dĩ nhiên câu trả lời rất đơn giản: chết. Chẳng những đã ớn mà còn lạnh nữa, nhưng lâu dần thành quen, Thy Loan có được cảm nghĩ chấp nhận, nào ai tránh thoát, ừ thì chết; mình vào đời đơn độc tất nhiên ra đi lạnh lùng, bỏ lại tất cả, từ mơ ước tới mọi sự liên hệ dầu trân quý nhất hay hận thù nhất. Thy Loan đương nhiên có cảm nhận sẵn sàng bởi cứ tự hỏi riết nên thấy bớt e sợ.
Cảm nhận được sự huyền nhiệm đang hoạt động nơi mình, Thy Loan lân la nghĩ tới những người khác. Họ nào khác chi! Thế thì quyền lực huyền nhiệm này đang hoạt động nơi Thy Loan cũng đang hoạt động nơi mọi người. Ah, những con chim bé tí teo mà cũng có cái mỏ, cặp mắt, bộ lòng ruột v.v... mà con tim nó cũng cứ đập. ngay như cả con muỗi, con bọ chét, quả thực lạ lùng. Suy nghĩ chán chê, Thy Loan nhận thấy mọi vật mọi loài đều mang mẫu số chung đó là có một quyền lực huyền nhiệm đang hiện diện và hoạt động nơi tất cả. Thy Loan tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu.
Nói đến hiện hữu, danh hiệu này mang nghĩa “có” dù vô hình hay hữu hình. Bất cứ sự gì không hiện hữu, Thy Loan gọi là “không.” Mới tạm đặt vấn đề đến có, không, Thy Loan đụng ngay thế giới nhà Phật. Đọc nơi sách vở, các tác giả biên soạn kinh sách nhà Phật gặp phiền hà, lủng củng với câu nói phát sinh cũng tự nhà Phật, “Chứng cái Không.” Thy Loan nghĩ, nếu theo ý nghĩa ngôn từ thông thường như Thy Loan vừa phân định, đã không thì cần gì phải chứng, và lấy gì mà chứng! Quái, nhà Phật xưa nay nổi tiếng đạo minh triết thế mà lại có câu ngang ngược này, ngang hơn cả cái mỏ của Thy Loan! Thắc mắc nhưng muốn thử xem nhà Phật oánh đòn gì mà có câu nói kỳ cục vậy, Thy Loan nhào vô đọc kinh Phật. Nào kinh Kim Cang, Đại Niết Bàn, Viên Giác, kinh Lăng Già, Vô Thức Luận, Đại Thừa Tư Tưởng Luận, Tiểu Thừa v.v... đúng là kinh nhà đạo, gạo nhà chùa. Thế là Thy Loan rối um lên, cái đầu lúc nào cũng quay mòng mòng với những ngôn từ nửa Hán, nửa Phạn được viết bằng tiếng Việt. Đức Thích Ca còn giáng một câu ngang ngược, “Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó” (Kim Cang Giảng Luận; Thích Thanh Từ; Tr. 241). Bao nhiêu sách vở, bao nhiêu con cái nhà Phật đều tuyên dương đạo Phật là đạo minh triết, đức Thích Ca vì thấy con người trầm luân nơi vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả ngai vàng tu chứng cứu độ chúng sanh thế mà ngài lại tuyên bố không có chúng sanh cho ngài độ! Thy Loan không muốn đụng chạm đến nhà Phật vì mình đâu phải Phật tử, lỡ nỏ mồm, quần chúng giáo phái nhà Phật chỉ cần mỗi phái một người lên tiếng thì mình mất cả tiếng duø laø xaáu, bởi khàn cổ đối chất chẳng lợi ích gì mà có chăng đại bại. Cổ nhân có câu, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết” phương chi là con bé Thy Loan, nếu dám nỏ mồm phán quyết bậy bạ thì chịu sao nổi! Đọc riết, Thy Loan lại đụng ngay câu, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ” (Nẻo Vào Thiền Học; Nhất Hạnh; Tr.63) trong Lâm Tế Lục. Con cái nhà Phật quả là táo bạo, ăn nói vung vít gấp mấy lần Thy Loan! Nhưng thế sao không ai lên tiếng đả phá mà lại tỏ vẻ kính ngưỡng, Thy Loan tự hỏi! Chẳng lẽ mình “Vô tri bất mộ?” Con cái nhà Phật tôn trọng những lời nói ngang ngược này phải có lý do. Đã lỡ phóng lao nên đành phải theo lao, Thy Loan bị mấy câu nói nơi kinh Phật quay cho như quay dế, chẳng khác gì mấy câu ngang ngược nơi Phúc Âm.
Ôi chao! Thà rằng trang điểm cho có vẻ sạch nước cản đôi chút và giả vờ lang thang đi mua sắm vài thứ lẩm cẩm may ra gặp anh chàng dại gái nào tán hươu tán vượn rước đi ăn uống, đoạn tiếp tục mua sắm thì có phải thảnh thơi, lợi cả đàng nọ cả đàng kia, vừa được ăn, vừa được địa; đàng này Thy Loan lại cứ quanh quẩn, rối mù vì mấy câu nói nghịch thường; hèn chi không ma dại nào dám bợ về; bởi lỡ anh chàng nào thấy bộ mã Thy Loan cũng tạm hấp dẫn mà rề rề tán hươu tán vượn mới chỉ mấy câu thì đã bị vài quả tạ nhà Phật, nhà Chúa bịt cứng miệng, và thế là dọt. Nhiều lúc Thy Loan cảm thấy thật cô đơn nhưng thà rằng mồ côi còn hơn đeo đá, chịu đựng sống chung với những đầu óc u mê. Cũng có thể vì câu nói của tiền nhân, “Bao năm ở với người đần, không bằng một phút đứng gần người khôn” khiến Thy Loan chấp nhận chờ đợi, chờ riết nên thành gái già, mà vẫn chưa kiếm được người mình chấp nhận cho họ bợ; thế mới xui! Khổ nỗi, tất cả cũng chỉ vì cái đầu nghênh ngang dám suy nghĩ lung tung điều khiển cái mỏ bướng bỉnh nên mới xảy ra sự thể này. Nhưng thực lòng nhận xét, mấy câu nói ngang ngược nơi kinh sách ám ảnh Thy Loan chẳng khác gì kẻ đói lo moi móc cho được thực phẩm hầu trấn an lòng dạ khi lên cơn quấy phá. Đọc nơi sách vở ghi lại cuộc đời của những vị chân sư, thức ngộ nơi tiến trình tu chứng theo Ấn học, Phật học, có những vị đã bao nhiêu năm ngất ngư chỉ vì một câu nói vô nghĩa, không đầu không đuôi, lý sai, tình trật; chẳng hạn, “Cái vỗ của một bàn tay,” hay, “Lửa không nóng,” cuộc đời của họ khem khổ mà cứ ngây ngô theo đuổi, và cuối cùng, ai mà biết thế nào. Những vị được ca tụng thì những lời nói của họ càng loạn cào cào lên, “Thượng Đế ở ngay trước mặt mà chúng ta không nhìn thấy,” hoặc, “Thượng Đế ở ngay nơi mình mà chúng ta không nhận biết.” Thế nhưng, nếu bạn nào lỡ rơi vào trường hợp như Thy Loan chắc chắn bạn đã gặp được niềm hạnh phúc tuyệt vời nhưng nói ra không được mà lúc hứng bất tử, càng nói ra càng bị phiền hà bôûi ñem cuûa thaùnh cho choù.
Ấy, mới chỉ một chữ “Chúa” mà Thy Loan đã phải lòng vòng đến thế. Nhưng thật là ngạc nhiên, qua kinh sách, Thy Loan thấy những cảm nghiệm, nghiệm chứng nghịch nhau như nước với lửa giữa các tông phái hoặc đạo giáo lại cùng đạt đến một mục đích tối hậu, và đó là Thực Thể Tối Thượng Tuyệt Đối nhưng được đặt tên khác nhau. Nhà Phật nói chứng cái Không nhưng thực ra không chứng cái không mà là chứng những cái có để loại bỏ hầu hòa nhập vào cái “không thể hiểu được,” nào có khác gì Thomas Aquinas đã hô lên, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu!” Mà nếu cái Không (Chân Như) theo nhà Phật không thể nghiệm được vì những cái nghiệm được đều không phải Phật tính (Chân Như) thì gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ chỉ là công án cho kẻ tu chứng bị rối beng đầu óc lên mà ngưng suy nghĩ lung tung, cuối cùng mới nhận ra đã bị lừa bởi động từ giết! Đàng khác, đã an định với Phật tính, ý niệm không còn thì lấy gì tạo chúng sanh nên lấy chúng sanh đâu mà độ. Ôi chao! Thy Loan đã chớm khùng mà mấy tay tổ Đạo học lại còn khùng nặng hơn, không khùng sao bảo lửa không nóng! Thà cứ nói toáng lên, Chân Như hay Phật tính hay Pháp thân, Thực Tại Tuyệt Đối, gọi gì chăng nữa cũng được, đang hoạt động, biến chuyển nơi muôn vật hữu hình cũng như vô hình; ai nghe theo thì nghe; ai hiểu thì hiểu, không hiểu thì thôi, mắc mới gì bới ra những câu nói nghịch thường khiến những kẻ tu chứng ngẩn ngơ, nửa điên nửa khùng. Nghĩ như vậy, Thy Loan chợt nhận ra những câu nói nơi Phúc Âm nào ngớ ngẩn thua gì! “Ai có tai thì nghe!” Ai chẳng có tai mà cũng bày ra noùi như vậy?
Ấn học, Lão học, Trang học cũng thế! Thượng Đế (Ấn) hay Tào (Lão) hoặc Đạo (Trang) cũng đang hoạt động, đang biến chuyển, và kẻ nào nhận thức thực sự được sự liên hệ giữa mình và Tào thì đạt tới huyền đồng. Trời Đất (Đạo) coi tạo vật như chó rơm thì những gì nơi cuộc sống hữu hình này cũng chỉ là phương tiện cho Đạo (Chúa) hoạt động nơi hành trình biến chuyển. Tào như nước, ở mọi nơi mọi vật; thế mà có kẻ dám đưa ra lý thuyết khiêm nhường như nước để rồi quên bẵng những trận bão lụt bày tỏ sự khiêm nhượng của chúng. Tựu trung nơi đạo học Đông Phương, Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng, cụ N.D. Cần gọi là Thực Tại Siêu Việt, Phật tính, Thượng Đế, Tào, Đạo, v.v... đang hoạt động trên hành trình biến chuyển vô cùng nơi tạo vật. Quyền Lực này biểu hiện nơi tất cả nên không thể đặt tên được và không thể suy nghĩ để đặt vào bất cứ khuôn mẫu nào; vì chính sự suy nghĩ, ý tưởng cũng đều là sự hoạt động của Quyền Lực này.
Thử lật Thánh Kinh xem Chúa như thế nào, Thy Loan không cách chi chấp nhận quan niệm hữu vi về Thiên Chúa theo nhãn quan Cựu Ước. Không đọc thì e bỏ lỡ cơ hội thăng tiến mà đọc thì cứ thấy lòng ruột bực bội điên lên. Câu nói nơi Lão học có lẽ đúng ngay trường hợp này đối với Thy Loan, “Không làm gì là làm tất cả.” Thà chẳng đọc Cựu Ước thì còn thấy Thiên Chúa dễ thương hơn, rõ dốt, đúng là “Được rồi trắng mắt như tao mới chừa.” Thiên Chúa được diễn tả qua Cựu Ước trúng chóc như các cố đạo giảng nơi nhà thờ, cứ làm đầu óc Thy Loan rối beng lên vì run sợ. Tuy nhiên, nơi phần Phúc Âm, Đức Giêsu rao giảng về một Thiên Chúa lại đối nghịch hẳn với Thiên Chúa của Cựu Ước và thường thì được mệnh danh là Cha của con người. Những lời khuyên của Ngài khiến Thy Loan cảm thấy thật phấn khởi. Chẳng hạn, “Còn Ta, Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác. Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt. 5:44-45,48). Nói theo Phúc Âm thì thần học kinh viện của các cố đạo chẳng khác gì áo rách cũ, không thể ráp vải mới Phúc Âm vào được. Nói cách khác, những quan niệm thị dục thế tục về Thiên Chúa của các cố đạo chẳng khác gì bì cũ, không thể nào chứa đựng được rượu mới tức là lời Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm. Đừng vội kết án, hãy kiên nhẫn để Thy Loan giãi bày. Trước hết, sự trọn lành theo lời Phúc Âm quả thực không giống các cố giảng chút nào. Thử nhớ lại những bài giảng các cố răn đe con chiên, phải thế nọ, phải thế kia, tránh dịp tội, phải ăn chay, phải chịu các phép bí tích, phải đi lễ, phải cầu nguyện, phải hãm mình, phải... phải... phải, muôn vàn thứ phải đến độ không ai có thể thực hiện được. Cố nào răn đe con chiên đừng đánh bài thì lại đi casino nhiều nhất; cố nào khuyên đừng ham mê ăn uống lại nhậu hơn ai hết. Hình như những lời răn bảo con chiên lại chính là những điều cố nên thực hiện, chán mớ đời! Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu câu nói,”Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.” Trọn lành là gì, và như thế nào? Câu trả lời được nêu trước lời khuyên quá ư nghịch thường nhưng tuyệt vời, “Hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” Phúc Âm trình bày một Thiên Chúa coi người lành và kẻ ác như nhau vì “Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” Có cố đạo nào dám giảng kiểu này không? Tại con chiên chưa có tai để nghe hay cố đạo không chịu suy nghiệm Phúc Âm? Tại sao Phúc Âm không nói Thiên Chúa chỉ làm mưa giúp người ngay và kẻ ác phải ăn trộm nước mưa để tưới trên vườn tược của họ? Tại sao Phúc Âm không nói mặt trời chỉ soi sáng cho những người lành còn kẻ dữ bị phạt nơi tối tăm, ngủ ban ngày, làm việc ban đêm? Tính chất thiện toàn của Thiên Chúa là coi ai cũng như ai! Lý do tại sao, bạn hãy lật Phúc Âm để tự trả lời cho thêm phần thấm thía! Sự “thiện toàn như Chúa” đối nghịch với lời giảng dạy của bất cứ tôn giáo nào, đối nghịch với bất cứ sự giảng dạy nào phát từ cửa miệng của các cố đạo. Chưa hết! Vấn đề nảy lửa được nêu lên đó là tại sao Phúc Âm lại nói hãy trở nên thiện toàn như Thiên Chúa? Chúng ta không bay được như loài chim vì chúng ta không được sinh ra với đôi cánh. Nói rằng trở nên thiện toàn như Thiên Chúa tất nhiên đã ám chỉ chúng ta có thể trở nên thiện toàn, nghĩa là không xét đoán, không đặt vấn đề về dữ và lành, ngay và ác nơi con người. Những gì chúng ta thực hiện cho người ngay thì cũng làm cho kẻ ác như Chúa đã cho mặt trời soi sáng cho họ, không phân biệt. Đàng khác, chúng ta không thể nào bay được như chim vì biết chắc chúng ta không thể mọc cánh như chim. Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu lời dạy, “Hãy nên trọn lành,” tất nhiên chúng ta mang năng lực hoặc được sinh ra với khả năng trở nên trọn lành. Năng lực này từ đâu tới và sao có thể biết? Bạn dám lật Phúc Âm để minh chứng không? Dĩ nhiên, Phúc Âm chỉ khuyên chúng ta những gì có thể; mặc dầu chúng ta cho rằng không thể, hoặc không dám nghĩ tới phương cách nào để đạt tới trạng thái Phúc Âm xác quyết; bởi vì, nếu Thy Loan không lầm thì chúng ta hầu hết không dám chấp nhận lời Phúc Âm là thật. Thy Loan thử lý luận, có câu nói, “Chúng ta không thể dạy con khỉ trở thành nhạc sĩ vì con khỉ không được sinh ra để trở thành nhạc sĩ cũng như chúng ta không được sinh ra để bay như chim. Thế mà Phúc Âm khuyên nhủ trở nên thiện toàn như Chúa, Thy Loan bạo phổi dám nghĩ rằng chúng ta được sinh ra với năng lực hoặc tính chất để trở nên thiện toàn như Thiên Chúa nên Phúc Âm mới đặt nơi miệng Đức Giêsu lời nhắn nhủ như thế. Thy Loan thử tưởng tượng, có thể bạn sẽ đặt câu hỏi, vậy mình có thể là Chúa sao? Xin thưa, câu hỏi này thuộc hàng hữu vi do ham muốn theo chiều thế tục. Thực thể con người bạn bao gồm thân xác, linh hồn, trí khôn, ước muốn, v.v... vậy bạn là linh hồn hay thân xác hoặc chỉ một trong những thành phần của ý nghĩ, trí khôn, ước muốn, hoặc tham vọng? Thế quyền lực nào khiến con tim bạn đập? Bạn có phải là quyền lực đó không? Quyền lực nào khiến những tế bào nơi bạn kiến tạo thành những phần tử hoàn toàn khác nhau như mắt, mũi, miệng, các thành phần của bộ lòng ruột, thì bạn có phải là quyền lực đó không? Xin thưa nói rằng quyền lực đó là một với bạn và không phải là bạn đều đúng mà cũng không đúng; chỉ một điều rõ ràng, quyền lực đó đang hoạt động nơi bạn. Vậy bạn suy nghĩ, nhận định thế nào, dùng phương tiện gì để ít nhất bạn có thể hiểu cho rõ ngọn ngành chứ chưa nói đến giải thích cho người khác hiểu. Đúng là “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Nếu bạn nào đã vô tình rơi vào trường hợp khúc mắc này sẽ nhận rõ được đây là trạng thái cảm nghiệm, suy nghiệm. Chúng ta chỉ cảm nhận được, nghiệm chứng được chứ không thể nào giãi bày dù bất cứ bằng cách nào. Từ cảm nghiệm bởi dám ngang bướng suy nghiệm về quyền lực lạ kỳ đang hoạt động nơi mình, Thy Loan tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu (viết hoa). Sở dĩ Thy Loan gọi là Quyền Lực Hiện Hữu vì không biết gọi là gì khác; hơn nữa, mọi sự mọi vật đều mang mẫu số chung này. Bạn nào lỡ đọc về các đạo học Đông Phương sẽ gặp chủ thuyết: Vạn Vật Đồng Nhất Thể. Danh hiệu mang đầy tính chất khó hiểu này chỉ có nghĩa Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động ở muôn vật, muôn loài mà nhà Phật gọi là Chân Như, nơi con người thì được gọi là Phật tính. Lão gọi là Tào; Trang học gọi là Đạo; Danh xưng về Quyền Lực Tối Thượng nơi Ấn học trong tiếng Việt được dịch Thượng Đế; Thiên Chúa Giáo gọi là Thiên Chúa.
Nếu đem tổng hợp những gì Thy Loan viết lang thang nãy giờ, Chúa, hay Quyền Lực Hiện Hữu hiện diện và hoạt động nơi bà xã của bạn. Nói rằng bà xã của bạn thực hiện ý Chúa cũng đúng, thực hiện ý bả cũng đúng; và đồng thời nói rằng Chúa thực hiện công việc của Ngài qua bả cũng đúng bởi tất cả mọi sự hiện hữu từ ước muốn, ý định, ý nghĩ, suy tư cho tới thực thể hữu hình thân xác, và các hoạt động của thân xác đều thuộc về hành trình biến chuyển của Quyền Lực Tối Thượng, hành trình biến chuyển của Chúa. Nói cách khác, mọi sự, nơi mọi cấp bậc, mọi trạng thái, hình thái đều chỉ là biểu hiện của Chúa nên giáo lý dạy Chúa ở khắp mọi nơi.
Tóm tắt, tất cả mọi sự, mọi việc, dù được nhận định thế nào qua nhãn quan nhân sinh đều là sự biểu hiện của Quyền Lực Tối Thượng nơi hành trình biến chuyển vô cùng. Thy Loan học lóm cố đạo nên tạm chấm dứt bằng chữ, Amen.
Câu hỏi 7: Phúc Âm có câu, “Các con hãy làm cho người khác những gì các con muốn họ làm cho các con.” Vậy lỡ họ không thích những gì mình thích thì sao? Tôi muốn nghe nhạc loudly nhưng sao cứ bị chửi hoài? Tôi sai hay câu Phúc Âm dạy tôi sai?
Trả lời câu hỏi 7: Làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình! Tương tự câu bạn hỏi, vậy nếu trong gia đình bạn có người mở TV ồn ào nơi chương trình bạn không thích hoặc rất ghét thì bạn sẽ cảm thấy thế nào? Họ làm đúng hay Phúc Âm dạy họ sai? Nếu Thy Loan là một thành phần thuộc gia đình bạn, bạn sẽ bị ốm đòn; không những thế, dàn CD hay cassette của bạn sẽ bị đập tan tành, đâu cần gì phải nói tới đúng hoặc sai! Bạn có nhớ đã biết bao lần cảm thấy khó chịu vì người khác mở TV ồn ào nơi nhà bạn, hoặc nếu có mấy đứa em, đã bao nhiêu lần bạn la hét chúng tắt hoặc giảm bớt âm thanh? Có phải bạn muốn khóa miệng những người tin tưởng vào Đức Giêsu bằng cách lạm dụng lời Phúc Âm hầu thỏa mãn ý thích vị kỷ hoặc vô ý thức của bạn? Đây chỉ là một đôi câu hỏi mà chính ThyLoan đã không biết bao nhiêu lần ngu xuẩn để tâm tư lồng lộn lên cũng chỉ vì những gì mình không thích cứ xảy ra; trong khi những gì mình thích lại không thèm xảy ñeán hoặc có phần nào đụng chạm tôùi người khác trong cuộc sống nơi sự liên đới với những người chung quanh.
Dĩ nhiên, hai câu Phúc Âm “Và nếu các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc. 6:31), hoặc “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế. Lề luật và các tiên tri là thế” (Mt. 7:12), dầu mang một vài tính chất hơn kém khác nhau nơi suy tưởng về sự thực hành nhưng tựu trung, nếu nói theo lối nhận định thị phi, phải trái, chỉ xúi dại bạn hoặc chỉ là điều cho bạn lạm dụng mà thôi. Ấy, chúng ta đều như thế... vì đã có luật tất nhiên có kẽ hở... Như vậy, hai câu Phúc Âm này mang ý tứ khác biệt với nghĩa đen, nghóa töø chöông. Có điều, khi nhận định về những câu nói Phúc Âm, nếu bạn nghĩ nghịch lại với sự thực hành theo nghĩa đen của câu nói, ThyLoan bảo đảm bạn đã có được ít nhất 50% giải đáp. Đặt thêm một vài câu hỏi với ý định tìm một phương cách áp dụng thực tiễn nơi tâm tưởng hoặc lề lối suy tư và tự trả lời những câu hỏi ấy, bạn tiến thêm được 20%. Còn lại 30%, coi bộ nhỏ nhoi nhưng không đơn giản, có thể phần nghiệm chứng này khiến đầu óc bạn quay mòng mòng, chẳng những mỗi khi nghĩ tới câu nói, mà nhiều khi cả vài năm hoặc hơn nếu là câu Phúc Âm đầu tiên bạn muốn tự nhận thức. Ngược lại, khi bạn đã tự nghiệm được một câu nói nơi Phúc Âm, các câu khác sẽ tự động lọt vào phương thức bạn đã áp dụng và chỉ cần một thời gian ngắn hơn, bạn sẽ nghiệm chứng được. Nếu đọc các sách nhà Phật, bạn sẽ gặp nhan nhản những công án (cỡ hơn 1700). Những công án nhà Phật chỉ có mục đích khiến tâm trí hành giả ngưng đọng lại, xoay quanh một câu nói thường thì vô nghĩa để ngưng mọi ý niệm, cắt đứt thói quen ước muốn hoặc suy nghĩ lung tung, nhà Phật gọi với ngôn từ đặc biệt đó là “Tạo chúng sanh.” Xét theo nhận định này, những câu nói, câu truyện Phúc Âm đều là những công án giúp cho những ai muốn thăng tiến tâm linh làm đề tài suy nghiệm. Một điều rõ ràng, Phúc Âm là những công án thực tiễn tâm linh nối kết tạo thành. Như vậy, nếu bạn muốn thực sự nhận thức được câu nói hay câu truyện nơi Phúc Âm, cứ việc đặt những câu hỏi xoay quanh điều bạn đang suy tưởng về câu nói hay câu truyện đó, bạn sẽ ngạc nhiên không thể ngờ được.
Tuy nhiên, cho dù hành trình vạn dặn cũng phải được bắt đầu bằng một bước chân. Công việc nào cũng cần sự thực hiện khởi đầu. Đồng thời, ai nên khôn không khốn một lần; bởi kinh nghiệm nào không phải trả giá; ngoại trừ người nào đó khiêm nhường đủ để chấp nhận học hỏi. Nói rõ hơn, những ai không muốn trả giá mắc mỏ cho những kinh nghiệm hay cảm nghiệm phải là người có trình độ nhận thức cao, nếu không muốn nói là thức ngộ. Người thức ngộ nhận thức được sự khôn ngoan dẫy đầy mọi nơi, mọi chốn. ThyLoan nói về đặc tính của sự nhận thức chứ không phải học thức. Học thức chỉ là kiến thức khoa bảng, dẫu cần thiết nơi cuộc sống cũng như giúp ích lớn lao cho sự nhận thức của một người, nhưng nếu kẻ nào dù có học thức chuyên môn cao mà không biết sử dụng căn bản học thức hoặc kinh nghiệm nơi hành trình đạt tới trình độ khoa bảng để áp dụng nơi tiến trình nhận thức thì cũng không thể nào nhận ra được sự khôn ngoan ngay trước mặt mình, ngoại trừ trường hợp vấp phạm (giới bình dân hay dùng thành ngữ “vập cái độp”). Sự kiện này có nghĩa trả giá cho sự hiểu biết trong sự cảm nhận kinh nghiệm, nhận thức, bằng chính lầm lỗi của mình. Thế nên, người khiêm nhường mở rộng lòng đón nhận thực tại như chính nó, không phê phán, không cho rằng đúng sai, phải trái. Bất cứ câu chuyện nào dù chỉ là chuyện trời mưa, trời nắng cho qua với người không quen biết, đối với người khiêm nhường, đều là cơ hội để học hỏi thêm, ít nhất biết phần nào cá tính hay lối nói chuyện hoặc tâm tư; đây chính là sự khôn ngoan phần nào đang được diễn đạt nơi người đối diện qua cung cách, thái độ cá nhân. Chẳng hạn, vô tình người nói nhắc tới câu Ca Dao, “Mùng năm, mười bốn, hăm ba; đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn!” Bình thường, nếu chúng ta không hiểu câu nói này nghĩa gì, tự nhiên sẽ đặt câu hỏi tại sao lại có câu nói như vậy và nó có ý nghĩa gì. Và nếu ThyLoan không lầm, câu nói này thường được những người làm nghề biển rả, chài lưới, hay buôn bán vặt vãnh, hoặc những cụ làm vườn tược, ruộng rẫy, mới hay nói tới. Dĩ nhiên, họ là những thành phần bình dân nhất của xã hội. Người nào khiêm nhường đủ, sẽ hỏi ý nghĩa của câu nói mà không để ý người mình hỏi thuộc hạng nào bởi chủ đích chỉ là để hiểu câu nói mang nghĩa gì. Bình thường, con người mang tự ái quá nặng nề nên làm ra vẻ kiêu căng vì dẫu không hiểu vẫn tỏ vẻ ta đây hiểu biết hoặc lờ đi không hỏi do e sợ hỏi sẽ bị cho là ngu dốt, hoặc sẽ lòi ra cái đuôi mặc cảm mà mình đang cố tình che giấu. ThyLoan còn nhớ, ngày đó đang học lớp 12 (đệ nhị) sau khi thi tú tài I. Bố mẹ ThyLoan sửa mái nhà. Ông bác ruột là thợ mộc bảo ThyLoan ra tiệm mua đinh mười phân. Nghe sao biết vậy, ThyLoan đến tiệm tạp hóa nói họ bán cho hai ký lô đinh mười phân. Đem về đưa cho bác, ổng quất một câu, “Mày học tú tài rồi mà không biết cái đinh mười phân dài ngắn ra sao à?” Và thế là mặt ThyLoan đỏ tựa gấc chín, máu nóng dồn lên vì tự ái bị chạm quá nặng. Đi mua đinh nào ai cầm thước theo để đo và có bao giờ ThyLoan biết cái đinh mấy phân là gì, dân học trò học choẹt mà. Khổ nỗi, chính người bán đã lấy sai đinh chứ ThyLoan đâu có chọn đinh để mua. Sau này ThyLoan mới hiểu những câu nói cay cú, xóc óc người khác chỉ là sản phẩm nơi một tâm hồn đầy tự ty mặc cảm, tự khinh thị chính mình nên muốn mượn mọi cơ hội bôi nhọ kẻ khác hy vọng có năng lực chịu đựng nỗi khốn khổ đang đày ải tâm can mình. Con cái ông bác của ThyLoan học hành không ra gì, hơn nữa, mang thân phận bố cu, mẹ đĩ nên ông thèm khát cơ hội tỏ sự cả sáng xó bếp may ra ai đó cảm phục chăng!
Sự khiêm nhường của người thức ngộ hoặc tha thiết muốn thức ngộ được bày tỏ bằng thái độ rộng mở tâm hồn để học bất cứ bài học nào, miễn sao không bị trả giá mắc mỏ bằng những kinh nghiệm thất bại chua cay. ThyLoan viết lòng vòng để bạn có thời giờ đặt vấn đề về câu Ca Dao “Mùng năm, mười bốn, hăm ba; đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn!” ThyLoan nghĩ, chưa chắc giới học thức, khoa bảng đã có thể hiểu được câu Ca Dao này. Bạn tự nhận xét sẽ thấy, và ThyLoan cũng chưa bao giờ nghe được từ cửa miệng một người khoa bảng nào giải thích về câu Ca Dao này; mà ngược lại, nơi một ông cụ nhà quê, không biết ký tên của mình. Số là ông cụ buôn bán hàng tươi như rau cỏ, cá mắm từ vùng này đến vùng khác nên hay kiêng cữ. Thỉnh thoảng gặp chuyến lỗ lã, cụ chợt nhớ lại đã vô tình phạm phải lời khuyên nào đó về những điều kiêng cữ được viết thành Ca Dao. ThyLoan một lần nghe được cụ đọc câu đó nhưng không hiểu ý tứ thế nào. Tại sao mùng năm, tại sao mười bốn, tại sao hăm ba; tại sao đi chơi mà nói đến lỗ lã. ThyLoan hỏi cụ thì cụ cũng không trả lời được, chỉ giải thích rằng mùng năm, mười bốn, và hăm ba là những ngày con nước sinh, nước nghén; có người còn gọi là con nước chửa, con nước đẻ. Dân ngư phủ rất rành về kinh nghiệm con nước, giải thích rằng, khi nước ít chảy là những ngày nước lừng, nước nghén, vì tôm cá không có con nước để bơi theo kiếm mồi nên khó bắt; bởi vậy họ thường nghỉ, không ra khơi trong những ngày đó. Mãi về sau, ThyLoan đọc kinh Dịch mới hiểu lõm bõm về khí tiết, những khi giao thời thì khó tính toán công việc; chẳng khác gì ngày nay nơi những hãng xưởng lớn, chỉ họp hành tính toán chương trình khoảng từ 9 giờ sáng tới 11 giờ trưa. Ai để ý tìm hiểu sẽ nhận được điều này.
Một điều rõ ràng nếu hiểu “Và nếu các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc. 6:31) theo lối suy nghĩ thường tình thì rõ ràng câu Phúc Âm chỉ đúng được một phần tư. ThyLoan nói đúng một phần tư có nghĩa thực hiện điều tốt lành theo nhận định của mình với tấm lòng ngay chính và thực sự muốn làm điều tốt lành này cho người nào đó. Tuy nhiên, đã chắc gì sự tốt lành theo nhận định của mình đã tốt lành hoặc đúng theo quan điểm người khác. Thế nên cũng có câu nói nghịch lại, “Đừng làm cho người khác những gì mình thích vì ý thích của người khác chưa chắc đã giống ý thích của mình.” Bởi vậy, dù những điều mình thấy tốt, và nên thực hiện cho chính mình, chưa chắc đã là điều nên hoặc tốt đối với người khác mà có khi trở nên tai hại cho họ. Chẳng hạn, bạn thích ăn beef steak nhưng đối với người khác thì sao? Và giả sử bạn cho trẻ em mới sinh được một đôi tuần nuốt miếng thịt ngon ngọt, bổ béo đối với bạn thì hậu quả sẽ xảy đến như thế nào đối với em nhỏ đó. Giả sử ai đó thích ăn ớt, bất cứ món ăn nào cũng phải có ớt, chẳng hạn bún bò Huế. Nếu người đó mời bạn tới nhậu hoặc dùng bữa tối hay trưa và vì họ thích cũng như cần ăn ớt nên thực hiện câu “Hãy làm cho người khác những gì ngươi muốn người khác làm cho ngươi” phỏng bạn nghĩ sao. Xét như vậy, không thể áp dụng câu Phúc Âm nơi cuộc sống bình thường thế tục vì Phúc Âm không được viết để dạy về luân lý hay cách xử thế theo lối đối đãi bình thường. Phúc Âm là sự tổng hợp của những lời khôn ngoan dạy con người thăng tiến trên hành trình tâm linh, hành trình đức tin.
Đọc nơi Khổng học bạn sẽ thấy có câu, “Đừng làm cho kẻ khác những gì mình không muốn họ làm cho mình.” Câu này mới có thể áp dụng theo nghĩa đen nơi cuộc sống vì Khổng học có chủ đích khuyến khích con người sống theo luân ý xã hội dưới thời quân chủ chuyên chế và những lối đối xử thường tình hằng ngày nơi xã hội nông nghiệp. Suy nghĩ như vậy, có lẽ bạn sẽ tự hỏi không lẽ lời dạy nơi Phúc Âm lại không có giá trị toàn hảo bằng lời khuyên dạy thế tục nơi Khổng học sao? ThyLoan phỏng đoán, nếu bạn đã dám đặt câu hỏi như thế, tất nhiên bạn đã bị thao thức khá nhiều và nếu ThyLoan không lầm, chỉ khi nào thực sự tìm kiếm nơi các kinh sách đạo học, bạn mới có thể có được giải đáp hợp lý hợp tình, nhưng muốn nói hoặc giải thích cho người khác cảm nhận được như bạn lại gặp nhiều sự rắc rối; vì nơi Kinh Thánh, sách Cách Ngôn có dạy, “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói” (CN. 23:9). Thực tại còn phũ phàng hơn nếu bạn vẫn hăng hái muốn truyền bá sự khôn ngoan cho những người không đủ khả năng chấp nhận hay nhận thức hoặc không muốn mở rộng tâm hồn để nhận thức. Nơi trường hợp này, ThyLoan muốn nói nếu bạn đã bị những cái mỏ tay sai của những đầu óc hẹp hòi đấu cho tơi tả, Cách Ngôn dạy thêm, “Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó” (CN. 26:4). Nếu bạn lỳ lợm chỉ bằng một nửa ThyLoan, bạn nên nhớ nằm lòng câu, “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó” (CN. 26:11), để rồi những lúc nào cảm thấy cay cú vì lòng tốt lành của mình đã bị xúc phạm, bạn đem nó ra nghiền ngẫm cho giảm bớt lòng hăng hái theo kiểu ngựa non háu đá của mình, hầu thông cảm được vết thương lòng với ThyLoan nơi hành trình khai phá Phúc Âm. ThyLoan dám nói lên những kinh nghiệm đau lòng này vì đã bị xất bất xang bang với những câu Phúc Âm ngang ngang ngửa ngửa nhiều khi đầy vẻ ngớ ngẩn lắm rồi.
Bạn thử nghĩ, không biết bao nhiêu lần ThyLoan tụng niệm để ghi nhớ nằm lòng hầu thực nghiệm câu “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6), và câu khác, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16) và vẫn cứ vấp phạm những lỗi lầm ngu xuẩn đến độ không đáng phạm thế mới bực mình. Bạn chỉ muốn lạm dụng câu Phúc Âm để thỏa mãn ý thích riêng tư hoặc chọc giận những người sống gần kề chung quanh hay đôi khi chạy trốn những điều không muốn để chúng lọt vào tai bằng cách mở nhạc ồn ào cho âm thanh bập bùng của tiếng “bass” đối chọi với những lời phiền hà, la lối, Chúa chưa hề tạo dựng, nhưng cứ tấn công màng nhĩ khiến bạn muốn khùng lên. Đàng này, ThyLoan muốn thực tập sự khôn ngoan nơi Phúc Âm mà vẫn cứ ngu xuẩn vấp phạm phỏng có tức không? Số là ThyLoan bẩm sinh bị tật hay ngứa miệng, chẳng chịu để nó ăn da non vì lỡ không cười mỉm chi được thì nào có khác gì mấy con chim chỉ biết kêu không biết cười. Cũng vì thế, thấy ai nói ngang tai, lạm dụng Phúc Âm vì điều ham muốn thế tục, ThyLoan chõ ngay cái mieäng vào và với lòng chân thành, nhiệt tâm, phang cho vài câu. Và bị thiên hạ đôi khi chửi cho như tát nước, lôi cả họ hàng gia tộc, đào bới cố nội cố ngoại lên để dạy dỗ ThyLoan đừng “đem của thánh cho chó.” Bạn đã thấy sự áp dụng câu Phúc Âm cay cú đủ chưa? Tuy nhiên, nào phải một đôi lần, phải nói cả ngàn lần; qua mấy năm ròng rã thực tập hai câu Phúc Âm này mà ThyLoan vẫn chứng nào tật nấy. Im cái miệng thì lòng ruột tức anh ách; mở cái miệng thì thiên hạ chửi bố cho cũng chỉ vì mấy câu Phúc Âm ngang ngược, nói một đàng, thiên hạ lạm dụng một nẻo. Thử hỏi, câu Phúc Âm “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Ta” (Mt. 10:37) mà bị giảng giải rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu mến Ngài hơn cha mẹ, vợ chồng, hoặc con cái, thì chỉ tai trâu mới có thể nghe được chứ tai người sao có thể chấp nhận nổi! Thế mà đã bao nhiêu thế kỷ trôi qua, nó cứ oang oang được giải nghĩa như thế chẳng những làm phiền lòng mà còn trở thành cớ cho những tâm hồn đơn sơ chất phác vấp phạm mà thánh thần vẫn kiên nhẫn nhịn nhục thì mình phải tức điên lên. Người ta đã quá lạm dụng Phúc Âm vì mưu đồ, ham muốn thế tục; khiến ThyLoan ngứa miệng. Thực ra, có ai bị rơi vào trường hợp này mới cảm nhận được. Quý cụ thường dùng thành ngữ, “Như gà mắc đẻ.” ThyLoan không phải là gà, chỉ thuộc loại đàn “bà” nên không biết con gà mái khi mắc đẻ thế nào! Vả lại, ThyLoan tự mình cũng không thể đẻ được nên không biết các bà khi mắc đẻ cảm thấy ra sao, nhưng cứ mỗi khi gặp trường hợp có kẻ nào lên giọng ta đây thông thái giải thích Phúc Âm theo quan niệm hữu vi, thế tục, ThyLoan đều cảm thấy bực, cứ muốn nhảy xổm vào cổ họng thiên hạ, thế mới tức, vừa tức lại vừa ngu dẫu đã cố ghi nhận nằm lòng “Của thánh đừng cho chó.”
ThyLoan muốn dùng câu giải thích quá ư dốt nát, thế tục, Chúa muốn chúng ta yêu Chúa hơn cha mẹ minh chứng sự thể lạm dụng cho bạn rõ. Lật Phúc Âm, bạn sẽ thấy ngay trước câu nói (Kẻ yêu cha mẹ...) có câu, “Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt. 10: 34-36) trong khi Mười Điều Răn dạy: “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ,” thì chả lẽ Lời Chúa tự phản nghịch hoặc luân lý thế tục dạy con người thực hành chống nghịch lại Phúc Âm! Đồng thời, nếu áp dụng theo nghĩa đen “Và kẻ thù của người ta là những người nhà mình,” chẳng lẽ Phúc Âm dạy chúng ta bất hiếu? Thế sao thiên hạ cứ tiếp tục gào lên, “Chúa muốn chúng ta yêu mến Chúa hơn cha mẹ?” Xét đơn giản như vậy, ThyLoan nhận thấy người ta đã giảng dạy những điều họ không hiểu cũng như chưa bao giờ thực hiện (Vì ThyLoan nghĩ mọi người đều tốt lành nên ai cũng có hiếu với cha mẹ). Và kết quả tất nhiên phải đến; họ cổ võ con người xa lánh Phúc Âm vì đã vô tình biến Phúc Âm thành những điều không tưởng; thế có đáng tức không?
Như vậy theo lẽ thường, vì không thể nào áp dụng hài hòa sự thực nghiệm nơi cuộc đời mình theo những lời giảng dạy về Phúc Âm qua quan niệm thế tục, con người chỉ còn cách làm ngơ. Lời Chúa để Chúa nghe và các đấng làm thầy nói gì cũng được miễn đừng phá rối cuộc sống của họ là đủ. Chính vì lẽ này, những sự đe dọa phải được bới ra để hù những tâm hồn mộ mến, những kẻ chân thành chất phác đói khát tâm linh. Bởi đó, ThyLoan thấy cần nói rõ, nếu áp dụng theo nghĩa đen, câu Phúc Âm nào cũng trở thành đầu mối cho sự lạm dụng, giả hình, dùng điều được coi là tốt lành cho người khác nhưng thực sự để kiếm lợi hoặc chạy theo tham vọng thế tục cho mình. Xét đi nghĩ lại, vấn đề được đặt ra đó là chúng ta cần suy nghĩ thế nào về Phúc Âm? Nguyên tắc nào có thể dùng làm căn bản để nghiệm chứng hoặc suy nghiệm Lời Chúa hy vọng đạt được những giải đáp thỏa đáng có thể áp dụng nơi cuộc sống con người hầu thăng tiến nơi hành trình tâm linh?
Có lẽ ít nhất bạn là người biết ít nhiều về Phúc Âm và nếu hơn, bạn theo Thiên Chúa Giáo hoặc hơn nữa, là người Công Giáo. Ngay nơi câu trả lời số 1, có bạn nào đó nói, “Có nhiều những thắc mắc mà đa số các bổn đạo không ai dám nêu ra, sợ bị mang tiếng là không hiểu đạo, rối đạo, hay lạc đạo, v.v...” ThyLoan nghĩ, chỉ khi nào chúng ta dám sống thực với chính mình, sống chân thành, ngay thẳng, không hổ thẹn với lương tâm, sống sao không sợ bị mang tiếng nọ kia thì mới có hy vọng nhận thức được nguyên tắc tìm hiểu để nghiệm chứng Phúc Âm. Quý bạn chỉ cần tự đặt câu hỏi và trả lời cho đến tận cùng sao cho hợp tình hợp lý về một trong những câu Phúc Âm ThyLoan chép sau đây thì sẽ nhận ra nguyên tắc. “Ai có tai thì nghe,” “Rượu mới không đổ bì cũ,” “Vải mới không vá áo cũ,” “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa,” “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta,” hoặc bất cứ câu Phúc Âm nào bạn cảm thấy khó chấp nhận... dùng tận lực suy nghĩ sao cho đạt tới ý nghĩa hợp lý, hợp tình. ThyLoan bảo đảm, bạn sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên vì điều xưa nay bạn cho là không tưởng đã tự có giải đáp nơi mình mà không hay.
Trở lại câu Phúc Âm “Hãy làm cho kẻ khác,” nếu bạn biết tôn trọng các đạo học khác và hiểu ít nhiều về Phật học, bạn sẽ thâu nhận được phần nào Vô Thức Luận của nhà Phật. Vô Thức Luận nói về điều mà nhà Phật cho rằng tâm trí con người không thể nghĩ bàn. Nhiều tác giả trước tác nghị luận về vô thức và dùng những văn từ khác nhau hàm ý cùng một vấn đề và cũng chưa có khuôn mẫu nhất định nào xác nhận ngôn từ cho thống nhất, ThyLoan tạm dùng văn từ theo ý mình; quý bạn, đặc biệt quý bạn cửa thiền thông cảm. Nói theo nhà Phật, thuở ban đầu, Chân Như tĩnh tịch, phẳng lặng. Và thế rồi, đến thời điểm nào đó, Chân Như tự phản ánh phát sinh ý niệm, vọng tưởng; lâu dần, vọng tưởng chồng chất tạo thành vạn vật. Nhà Phật tóm gọn bằng lời phát biểu, “Ý niệm tạo chúng sanh.” Bởi vậy, nguyên tắc định tâm chỉ là ngưng mọi ý niệm, nhưng không phải “vô ký không,” để chứng Cái Không. Cái Không ở đây chính là Chân Như vì Chân Như là Thực Thể Tối Thượng con người không thể nghĩ bàn. Đọc nơi Lão học chúng ta cũng sẽ gặp câu nói “Cái có phát xuất từ Cái Không,” điều này có nghĩa sự vật hữu hình phát xuất từ nguồn gốc vô hình. Câu nói nơi Dịch học thường được lặp lại ở Lão học, “Một sinh hai, hai sinh ba, ba tạo thành vạn vật” mang nghĩa này. Đại khái, các đạo học Đông Phương, đặt nền tảng nơi nhận thức Nhất Nguyên đều có chung một nhận thức phát sinh từ nghiệm chứng đó là ước muốn, ước mơ, ý niệm, ý định, ý nghĩ tự chúng mang quyền lực tác thành thực thể nào đó trong vô hình, và khi tới thời điểm có đầy đủ điều kiện, những thực thể vô hình này được kiến tạo thành hữu hình. Chẳng hạn, trước khi có cái nhà bạn đang ở, hình dáng và cơ cấu của cái nhà đã có nơi ý nghĩ của người nào đó.
Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy câu, “Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:28). ThyLoan tự hỏi nhiều lần, lý do gì sự nhìn để thỏa lòng lại được gọi là tội. Vậy những ai nhìn bông hoa đẹp mà không thấy nó là đẹp sẽ là người thế nào. Những ai nghe được một câu nói tốt lành, gặp cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà không cảm thấy lòng khoan khoái, dậy lên niềm cảm hứng chiêm ngưỡng kỳ công cả thể của Tạo Hóa thì cuộc sống của họ khổ ải ra sao? Sau khi đọc được một số sách thuộc đạo học Đông Phương, ThyLoan mới nhận ra câu Phúc Âm không nói về tội, không nói về luân lý nhưng dùng thực thể được gọi là “tội ngoại tình trong lòng” để nói lên kết quả của quyền lực ý định, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ. Dầu ThyLoan không là Phật tử, khi đọc cuốn Kim Cang Giảng Luận do Thích Thanh Từ soạn, gặp câu, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó” (Tr.241), ThyLoan muốn nhảy quay lên vì câu nói kỳ cục. Nghe bạn bè Phật tử, rồi đọc sách nọ sách kia tuyên bố đức Thích Ca bỏ vợ con, bỏ cả ngai vàng, bỏ quyền hành thế tục tu hành cứu độ nhân loại thoát khỏi sinh, bệnh, lão, tử, mà kinh Kim Cang đặt nơi môi miệng ngài lời nói không độ chúng sanh; ai mà không nhận ra điểm lạ kỳ ngược lại tất cả những sự hiểu biết về Phật học! Có lẽ nhiều Phật tử cũng bị lầm như ThyLoan vì chỉ nghe hơi ngồi chõ chứ không chịu nghiệm chứng Phật học. Mãi sau, khi nhận chân được ý nghĩa nhận thức, “Ý niệm tạo chúng sanh,” ThyLoan mới nhận ra câu nói nhà Phật mang tính cách công án cho mọi người chứng nghiệm. Thật đơn giản, vì đức Thích Ca đã giác ngộ nên không còn ý niệm, không đặt vấn đề, không mơ ước, không có ý định, ý nghĩ thì không tạo chúng sanh; mà không tạo chúng sanh thì đâu cần phải độ. Nói cách khác, không tạo chúng sanh tức là đã độ chúng sanh. Điểm ngoắc ngoéo của câu nói phát xuất ngay nơi đầu óc người tìm hiểu Phật học hoặc những người tu chứng bởi đã hiểu lầm ý niệm về chúng sanh. Có lẽ cũng như ThyLoan, ai ai cũng nghĩ chúng sanh có nghĩa con người. Nhưng theo nhận thức Phật học, chúng sanh là tất cả những gì có sự hiện hữu dù vô hình hay hữu hình. Đem áp dụng nhận thức này vào câu nói Phúc Âm, “Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:28), thực thể “ngoại tình với nó trong lòng” cũng thuộc về hay cũng được gọi là chúng sanh. Như vậy, câu Phúc Âm này có chủ đích nói về quyền lực của ý nghĩ, ước muốn, ước mơ. ThyLoan lý luận, bất cứ ai, nhìn người nào đó và có ý nghĩ, ý niệm nào, thì ý nghĩ, ý niệm đó đã tạo nên một thực thể trong vô hình. Khi ai đó có ý nghĩ, ước muốn đối với người khác để thỏa mãn lòng dục thì tất nhiên nơi đầu óc xuất phát ý muốn dục, tư tưởng dục, ý định dục và những ý nghĩ này tạo thành một thực thể được gọi là “ngoại tình trong lòng.” Nhận thức được điểm then chốt đó là quyền lực tác thành hay quyền lực hiện hữu phát sinh từ ý niệm, ý nghĩ nên khi đọc thêm các sách vở về đạo học Đông Phương, ThyLoan nhận thấy quan niệm hay chủ thuyết hoặc nhận thức Vạn Vật Đồng Nhất Thể cũng lấy điểm này làm gốc nhưng lối diễn giải ngược chiều tư duy. Thay vì suy luận từ căn nguyên tác tạo theo Vô Thức hay Duy Thức nhà Phật, quan niệm Vạn Vật Đồng Nhất Thể suy luận theo diễn trình phát xuất từ thực thể có thể nhận biết bằng ngũ quan và đặt những câu hỏi ngược về nguồn gốc sự hiện hữu của thực thể (vật thể hoặc ý niệm, tư tưởng). Điểm tận cùng của những khúc mắc đó là bất cứ thực thể nào đều phát xuất từ một nguyên nhân hay căn bản đó là Quyền Lực Hiện Hữu mà chúng ta thường dùng các danh hiệu khác nhau để chỉ về gốc căn nguyên tối thượng này chẳng hạn như Trời, Ông Xanh, Thượng Đế, Chân Như, Pháp Thân, Tâm Phật, Phật Tính v.v...
Đem áp dụng nhận thức ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ tự mang quyền lực hiện hữu, dù theo quan điểm đạo học Đông Phương, “Vạn Vật Đồng Nhất Thể” hay nhận thức nhà Phật, “Ý Niệm Tạo Chúng Sanh” vào câu Phúc Âm, “Và nếu các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc. 6:31), bạn sẽ nhận ra điểm then chốt của lối nói Đông Phương (vì Kinh Thánh được viết ở vùng Trung Đông), đó là đổi một đôi chữ, thường là động từ, khiến người tu chứng dồn hết tâm trí suy nghiệm. Nơi câu Phúc Âm này, động từ “làm” nếu đổi thành “ước muốn” và “có” hoặc “đạt được,” câu nói sẽ trở thành, “Và nếu các ngươi muốn có hoặc đạt được sự gì, điều gì, thì các ngươi cũng hãy thực sự ước muốn cho người ta như vậy.” Khi mình thực sự ước muốn cho ai đó điều gì, ước muốn của mình đã mang quyền lực tác thành, quyền lực hiện hữu kiến tạo nên thực thể nào đó trong vô hình tùy theo ước muốn của mình, và đến thời điểm nào đó khi đủ điều kiện, ước muốn này sẽ xảy đến cho mình bởi chính mình ước muốn. Người mình mong ước cho được điều đó gặt hái được thành quả nào hay không lại tùy thuộc ý định, ước muốn của họ chứ không tùy thuộc ước muốn của mình. Đây là ý nghĩa của câu nói “Làm cho người khác là làm cho chính mình” nhiều khi chúng ta nghe nhưng ít khi để tâm nghiệm chứng.
Sự thể nghiệm chứng dễ nhận biết nhất, nếu bạn muốn người nhà của bạn hay hàng xóm láng giềng làm phiền bạn, rất đơn giản, cứ việc mở dàn âm thanh của bạn cho to để làm phiền họ. Kết quả chẳng những sẽ đến với bạn nhãn tiền mà có lẽ đã đến cho bạn rồi, đi đoong dàn máy! Nếu ThyLoan không lầm, vì ham muốn có dàn máy mới tân kỳ và hợp với tuổi trẻ ham thích đua đòi máy móc, tuy nhiên, vất đi thì tiếc, giữ lại nghe thì chướng tai, cất vào xó không có lý do, bạn nên thực hiện câu Phúc Âm “Và nếu các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc. 6:31) theo nghĩa đen; lối nhận thức hữu vi này chắc chắn giúp bạn có lý do để mua dàn máy mới, và tất cả những lỗi lầm, bực bội, bạn đã có nơi để trút vô... Cũng có thể tưởng tượng, bạn sẽ dời tới chỗ ở mới, giữa khu rừng hoang vắng nào đó mà không sợ rắn rết làm phiền vì muông thú không thể nào cảm hứng âm nhạc của con người được. Chúc bạn thành công.
Câu hỏi 8: Làm sao áp dụng câu Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân đạp mất và quay lại chúng cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6)? Ai có của thánh mà lại có thể đem cho chó? Ai có thừa châu ngọc để quăng trước bầy heo?
Trả lời câu hỏi 8: Của thánh đừng cho chó...
Nếu ai để ý khi đọc Kinh Thánh, họ sẽ ngạc nhiên khi thấy Lời Chúa đa số nói về những chuyện đâu đâu lắm lúc khiến đầu óc quay cuồng rối loạn chẳng thể phân biệt đâu là Lời Chúa, đâu không phải Lời của Ngài. Ngoại trừ một số trường hợp như mười điều luật hoặc những lời ca tụng Thiên Chúa nơi Thánh Vịnh hay những lời nói về lòng tin, Nước Trời, Lời Chúa dùng những chuyện cày cuốc, chó, heo, gì đâu như nơi câu Phúc Âm bạn nêu lên. Thêm vào đó, bất cứ ai thuộc về Kytô Giáo đều xưng tụng Thiên Chúa của họ là Đấng yêu thương vô bờ bến; mà nơi Cựu Ước lại trình bày một Thiên Chúa đầy tính chất sân si, thiên vị của con người đặc biệt ưu đãi dân Do Thái. ThyLoan trộm nghĩ, nếu mình chẳng may được sinh ra vào thời xưa thuộc giòng tộc Pharaon hoặc đình thần của vương quốc Ai Cập ngày đó có lẽ đã bị Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến quật cho chết tươi mất rồi, chết luôn cả chó, heo, gà qué, thì sao còn cơ hội ca tụng Ngài. Hơn nữa, hình như những người xưng tụng rằng họ tôn thờ Thiên Chúa chỉ phát biểu theo thói quen chẳng khác gì chiếc máy cassette, đã được chế tạo một cách tinh vi, tự động hết băng, đổi chiều phát những âm thanh tiếp tục bằng cách rống lên những gì đã được ghi âm sẵn nơi băng nhựa. Tuy nhiên, dẫu là sản phẩm của một nền văn minh được cải hóa tiến bộ đến thế, chiếc máy cassette vẫn không biết kết án những băng nhạc khác hoặc những ai phát thanh bất cứ điều gì không giống với nó. Nó vẫn còn tốt lành, thánh thiện hơn con người nếu xét về phương diện chấp nhận thực tại riêng của mình. Con người tất nhiên thông minh hơn chiếc máy dẫu không biết chế tạo nó; bởi thế, khi ai phát biểu điều gì không giống với quan điểm hoặc chiều hướng suy tư hay nhận định đã được nhồi sọ lâu dần thấm nhập vào xương tủy tạo nên dấu vết khó lòng tẩy rửa được gọi là niềm tin, họ không ngần ngại kết án kẻ ấy là rối đạo! Và thế là người ta vô tình đóng vai nơi câu truyện dụ ngôn đã được mệnh danh là của Trạng Quỳnh. Thực ra, làm gì có cụ trạng nào tên là Quỳnh thực hiện những truyện diễu móc họng các vua quan hủ lậu ngày xưa, nhưng chúng ta vẫn gọi là trạng vì đôi khi lòng dạ thảnh thơi, chẳng có việc gì lo nghĩ nên đã thỏa chí cười về những câu chuyện viết về ai đó. Cười cho đã mới chợt nhận biết câu truyện móc họng chính mình. Câu truyện Trạng Quỳnh liên hệ về những kẻ cho rằng chỉ mình tốt lành thánh thiện để rồi lên án những người khác là rối đạo vì không có quan điểm giống mình về cũng một Thiên Chúa như sau. Số là có hai vị quan cãi nhau về chuyện gì đó, nhà vua sai Trạng Quỳnh điều tra. Sau những thời gian đú đỡn thỏa chí tang bồng nơi công vụ, Trạng Quỳnh dâng lên vua bản tường trình rằng hai vị quan ấy người này chửi người kia là chó và người kia chửi lại người này là chó. Đại khái, cả hai vị quan đều là chó. Cuộc đời là thế và con người là thế; ai cũng vậy, chiếc đà nơi con mắt mình thì không biết hoặc tảng lờ như không nhận ra, nhưng lại hãnh diện và vui sướng bới móc, vạch lá tìm sâu rõ ràng hạt bụi nơi con mắt người khác. Tuy nhiên tâm lý minh chứng, ngay khi mình nhìn thấy người khác thế nào thì chính mình thế ấy; bởi nếu mình đã không vậy sao có thể biết hoặc nhận ra người ta như vậy!
Viết đến đây ThyLoan chợt nhớ câu Phúc Âm dạy về thái độ đối với những dịp làm con người hư đi, “Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một người nào trong các kẻ nhỏ đã tin vào Ta này, thì thà nó bị khoanh cối lừa kéo treo cổ và nhận chìm đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian vì những cớ vấp phạm! Tất nhiên cớ vấp phạm phải đến, song khốn cho người làm dịp nên vấp phạm. Nếu tay hay chân ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; thà ngươi cụt tay, què chân mà vào sự sống, còn hơn là có hai tay, hay hai chân mà bị quăng vào lửa đời đời. Và nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng nó đi khỏi ngươi, thà ngươi chột mắt mà vào sự sống còn hơn là có hai mắt mà bị quăng vào địa ngục lửa thiêu” (Mt. 18:6-9). Lời Phúc Âm rõ ràng như thế, nhưng những kẻ ồn ào hô hoán tin vào Đức Giêsu nào có ai thực hiện đâu! Họ chỉ la lối suông rằng tin nhưng coi thường những lời Ngài dạy. Nếu những kẻ tin vào Ngài và giữ lời Ngài (Ga. 14:12) theo nghĩa những gì họ đang ấp ủ, lạm dụng theo nghĩa đen vì bất cứ lý do nào đó, có lẽ tất cả sẽ không còn chân mà đi, không còn miệng để huênh hoang, chẳng còn mắt chiêm ngưỡng sự cao cả của Thượng Đế, và cũng không còn tay để gãi ngứa khi cái miệng ăn da non thì sao có thể làm được những chuyện như Ngài đã làm. Phúc Âm viết ám chỉ lẽ nào đó nhưng dùng sự thể hữu hình như phương tiện giúp chúng ta cảm nghiệm hầu đặt lại vấn đề tâm linh.
Nhìn lại kinh nghiệm cuộc sống chúng ta thấy rõ, bất cứ ai cũng e ngại bị người khác nói những điều chẳng hay về mình; dẫu họ nói đúng, hoặc sai, hay hiểu lầm. Chúng ta không thích, hoặc tệ hơn nữa, sợ người khác phê bình. Vẫn biết rằng có những lời phê bình công chính và giúp ích nhưng bình thường, chúng ta khó chấp nhận. Có thể chúng ta thích tự hợm mình, thích được nghe những lời tuyên dương, ca tụng dẫu biết điều đó là sự dối trá.
Xét như vậy, ai cũng mang nặng nề tính chất nữ giới; dù hình dáng xấu thấy mồ, nếu ai đó không còn biết cách nào khen, tạm phỉnh bằng cách dùng lời nói cho rằng có duyên hay nhã nhặn, lịch sự v.v... người đó sẽ được coi như bạn tốt. Lẽ đương nhiên, cuộc đời có người nọ cũng có người kia; thế nên cũng có những người coi thường dư luận hoặc sống trên dư luận. Trường hợp này ít nhất được chia ba thành phần, thành phần bết bát, đầu trộm đuôi cướp hoặc sống nghịch lại với luân lý căn bản nơi xã hội. Thành phần thứ nhì bao gồm những người mang cá tính, khả năng trỗi vượt khỏi từng lớp dân chúng đồng thời. Trường hợp này rất hiếm và phần nào đó phù hợp với câu, “Chữ tài liền với chữ tai một vần” (Kiều; Ng. Du). Kẻ có tài lại cần phải có cặp tai đặc biệt để nghe những lời dị nghị và bỏ qua vì nhận thực được khả năng của mình là kẻ có tài nên thường bị ganh ghét, ghen tương. Thành phần thứ ba rất khó được nhận biết đó là những người mang sẵn một mưu đồ nào đó, cố ý làm những chuyện bất thường vô thưởng vô phạt để cho dư luận dị nghị, phiền hà, hầu che dấu công việc họ đang ngấm ngầm thực hiện. Tất nhiên, thành phần này thuộc về một tổ chức mang tính cách rộng lớn thường thuộc về chính trị, chẳng hạn như vụ đếm lại phiếu bằng tay trong kỳ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tháng 11 năm 2000.
Nơi cuộc sống cá nhân, ai không biết câu, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết” (Ngạn Ngữ), bởi thế chúng ta rất sợ những lời dị nghị. Có điều, thật khó có thể hiểu nổi tại sao nhiều người thích được bốc thơm hoặc tuyên dương một cách phi lý, thích được nhận hão hoặc thổi phồng những chuyện không ra gì cho có vẻ ta dây và vui vẻ huênh hoang rằng mình cũng là một thứ gì. Suy nghĩ một chút, nếu đã là thứ gì thì đã chẳng phải là mình thế mà vẫn cảm thấy vinh vang; trong khi nếu lỡ ai đó nói về những điều không nên nơi mình thì lại mồm năm miệng mười, viện đủ mọi cớ, mọi lý lẽ, và mọi phương tiện hầu minh chứng mình cũng là một thứ gì. Thực tâm nhận định, tiếng tăm, danh giá không thể giúp cho mình dẫu chỉ một bữa cơm dằn bụng nhưng lại mang mãnh lực đưa đẩy nhiều người rơi vào tình trạng tán gia bại sản. Xét theo khía cạnh tâm lý, danh tiếng hão huyền khiến con người miệt mài tiêu hao công sức đuổi bắt trong khi ngược lại, những lời phê bình mang động lực xô đẩy bất cứ ai trốn chạy. Có thể nói như một đặc tính, con người sợ phê bình, sợ những gì khác với quan niệm của mình, sợ mất vị thế, sợ giao động tâm tưởng trong khi giòng đời luôn luôn biến chuyển.
Sự sống cũng như cuộc sống đòi hỏi thay đổi bởi bất cứ những gì không biến chuyển, đổi thay đều đã đi vào quá khứ hay đã chết. Dù chúng ta để tâm để nhận biết về sự biến chuyển nơi mình hay không, con người chúng ta vẫn luôn luôn biến chuyển, thay đổi từng giây từng phút. Tuy nhiên, chúng ta rất sợ những gì đổi thay. Lý do, chấp nhận để hòa mình nơi sự biến chuyển, đổi thay đòi hỏi một tâm hồn mở rộng và một tính chất liều mạng, nhắm mắt đưa chân xông vào hành trình vô định không thể đo lường hoặc tiên đoán những gì sẽ xảy đến. Chấp nhận biến chuyển, đổi thay tất nhiên chấp nhận mất gốc, buông bỏ quá khứ, không bám víu nơi bất cứ gì. Ai không muốn mình là một thứ gì? Ai không cần một căn bản dùng làm bàn đạp cho những hành trình kế tiếp? Thế nên, ai cũng e ngại khi đối diện với những gì khác lạ xưa nay chưa từng kinh nghiệm. Có thể nói, đây là điều kiện căn bản, nền tảng tạo nên vị thế trường tồn của những hệ thống giáo điều xưa nay chẳng những vẫn khống chế tâm não con người và đồng thời ngăn chặn, cản trở hành trình tâm linh biết bao thế hệ. Xét về phương diện tâm lý, con người được chia ra ba thành phần tâm tưởng: sống với quá khứ, sống với hiện tại, và sống hướng về tương lai. Thực tại minh chứng, những gì đã đi vào quá khứ tất nhiên không thể thay đổi, cải sửa, được gọi là chết. Những gì nơi tương lai dù gần hay xa, vẫn chưa xảy đến. Con người đang sống nơi hiện tại, ngay lúc này và ở đây. Một phút trôi qua; một phút chìm vào quá khứ; một phút sắp tới vẫn thuộc về tương lai. Như vậy, bất cứ ai thương tưởng về những gì đã qua hoặc mơ ước tới những gì sắp đến, người đó đã bỏ quên thực tại, không đối diện thời điểm sống mà là hồi tưởng hoặc mơ tưởng. Xét thế, dẫu muốn hay không, dù từ chối sự biến chuyển nơi giòng đời hay khước từ trạng thái mất gốc nơi thực thể thay đổi của cuộc đời, con người chẳng khác gì làn mây vô định phất phơ giữa muôn chiều gió thổi, hoặc một giọt nước nơi giòng sông cuộc sống. Không chấp nhận hòa mình vào cuộc sống thì cũng phải sống, cũng bị đưa đẩy, cũng phải đối diện với muôn ngàn phương diện khác biệt chưa từng kinh nghiệm, cũng luôn luôn bị đắm chìm nơi thực trạng mất gốc để nổi trôi nơi hành trình vô định.
Bởi con người e sợ đổi thay, ngại ngùng khi nghĩ đến biến chuyển nên mang tâm tưởng bám víu nơi những gì bất biến, do đó mở rộng lòng đặt trọn niềm tin nơi hệ thống giáo điều nào đó; tự cho rằng chân lý chỉ có thế và phải thế hầu có được nỗi an bình tâm tưởng. Lẽ đương nhiên, sự an bình này chỉ là con đẻ của nỗi e sợ mất gốc hoặc nỗi e sợ đối diện tất cả những gì vô thường. Thêm vào đó, có thể do ngại ngùng suy tư vì bất cứ sự suy tư nào cũng đòi hỏi chẳng những công lao truy tầm, đòi hỏi sự mở rộng tâm hồn để chấp nhận những quan điểm khác thường mà còn đẩy chủ thể suy tư hòa nhập nơi trạng thái biến chuyển, thay đổi nhận định sao cho phù hợp với những yếu tố xảy đến nơi hành trình suy tưởng, con người tạo thêm cho mình đặc tính ỷ lại. Nếu ai đã trải qua những cơ hội chia sẻ hoặc đàm luận về bất cứ vấn đề gì thuộc lãnh vực tư duy cũng đều nhận chân được thực trạng quá bình thường nhưng quả là khác thường. Bất cứ những gì, dù chỉ là ý tưởng, đòi hỏi con người cần đặt lại vấn đề, đều bị họ vội vàng chối bỏ như một phản ứng đầu tiên, dẫu chưa nói đến hậu quả do ảnh hưởng nếu có của vấn đề được đặt ra làm lung lạc bất cứ quan điểm nào của họ.
Đọc Phúc Âm nếu ai để ý, mục đích cuộc đời và công việc của Đức Giêsu chỉ là công bố, rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43). Tất cả mọi liên hệ, điều luật, hoặc dụ ngôn nơi Phúc Âm đều quy về chỉ một mục đích giúp cho con người nhận biết Tin Mừng này. Nhìn lại quá trình những suy tư, giảng thuyết, bao nhiêu công sức viết lách nơi các kho tàng văn kiện, sách báo của các tổ chức Kytô giáo, chúng ta phải ngỡ ngàng khi nhận ra các tác giả khi nói đến Tin Mừng chỉ trình bày sự tưởng tượng của họ theo nhận định hữu vi, thế tục thay vì dùng Phúc Âm để làm căn bản suy tư, phát hiện thực thể Tin Mừng. Và thế là người ta nêu lên những viễn ảnh thiên đàng kèm theo cảnh tượng đối nghịch là hỏa ngục đã bao nhiêu thế kỉ trở thành chủ đề giáo hóa dân Chúa hầu mong biến dân Chúa thành những con chiên ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy do tính chất e sợ suy tư, mở rộng lòng để được dụ dỗ bởi nỗi an bình tâm tưởng giả tạo. Tự đối diện với lòng, chúng ta dễ dàng nhận thấy ai cũng mang khuynh hướng thủ lợi, sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào nước trời với những giá rẻ mạt được thể hiện bằng những lời cầu kinh, khẩn nguyện, hay chút ít công đức do thực hiện việc gì đó hay cho đôi chút tiền bạc, hầu sau này được hưởng phúc nước trời, món lợi vô giá bất cứ ai cũng hằng mơ ước. Nói rằng đầu tư vẫn chưa đúng, phải nói là mua bảo hiểm; thế nên đã có những vị dám cả gan tuyên bố: chúng tôi là những nhà băng nước trời.
Nói có sách, mách có chứng, bạn thử bỏ giờ đọc hết bốn cuốn Phúc Âm xem sao. Nếu ai đã thử tất nhiên sẽ cảm thấy quả là mơ hồ bởi những gì được viết quá ư mông lung, khiến tâm trí xoay mòng mòng, khi thì thế này, lúc thì thế khác, vừa mới nhận định được một đôi đường hướng thực hiện nơi cuộc sống bỗng chợt phải đối diện với chiều hướng khác ngang ngược khiến tâm trí cảm thấy sượng sùng do đã vội quyết đoán, vài lẽ được cho là chân lý hầu an tâm chấp nhận. Có thể chính vì lẽ này, những ai nghiên cứu Phúc Âm, nhất là con dân Kytô giáo đều cảm thấy ngại ngùng khi nghĩ tới sự suy tư hoặc cảm nghiệm Phúc Âm. Bởi vậy, không lạ gì dân Chúa sẵn lòng chấp nhận những giáo điều được dạy dỗ. Sẵn cỗ ngồi vào, ai dại gì tốn công sức bới bèo ra bọ cho mệt tâm trí. Thực tế chứng minh, đã có biết bao người từ xưa tới nay thực tâm dâng hiến cuộc đời theo những tôn chỉ đã được người khác đề ra; mà những tôn chỉ này thường chỉ được dựa trên căn bản hiểu biết Phúc Âm theo nghĩa từ chương, luân lý, hay lối nhìn thế tục. Thí dụ, đã có biết bao người hùng hồn và chân thành tuyên xưng đạo Công Giáo là đạo của người nghèo; biết bao tổ chức giúp đỡ người nghèo, ngay cả mẹ Theresa đã được gọi là vị thánh sống giúp đỡ những người nghèo nàn, bệnh tật tại Ấn Độ. Dĩ nhiên, giúp đỡ người nghèo là việc tốt lành, thánh thiện nhưng cùng lắm chỉ là công việc được coi là đạo đức chứ không phải mục đích của Phúc Âm. Lý do, người ta đã hiểu câu Phúc Âm, “Đem tin mừng cho người nghèo khó” (Lc. 4:18) theo nghĩa từ chương nhưng bỏ hay cố tình quên hai chữ “Tin mừng”. Những nơi khác Phúc Âm nhắc tới việc đem tiền của cho người nghèo khó (Mt. 19:21; Mc. 10:21; Lc. 18:22) chỉ là điều kiện để theo Đức Giêsu; đại ý muốn nói cần tránh những sự phiền hà thế tục cho tâm hồn thảnh thơi hầu dám liều mạng nơi hành trình vô định, hầu chấp nhận và thực nghiệm những lời Ngài dạy. Nếu để tâm suy tư về mục đích cuộc đời Đức Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài được ghi lại nơi Phúc Âm, chúng ta cần tự hỏi vậy điều kiện nào cho con người đạt tới Tin Mừng Nước Trời? Đặt vấn đề như vậy, nhiều câu hỏi đồng loạt dồn dập xảy đến khiến tâm trí chúng ta quay cuồng. Tất nhiên, sự e ngại, bối rối nơi lãnh vực suy tư phát sinh từ thời điểm này. Ai dám liều mình lỳ lợm quyết tâm mò mẫm để thỏa mãn nỗi khát khao nơi tâm trí tất nhiên đã tự chấp nhận mở rộng lòng lao mình vào hành trình vô định mà điểm tới chỉ là mấy chữ “Tin Mừng Nước Trời” hay “Tin Mừng Nước Thiên Chúa” hoặc ngắn gọn hơn, “Tin Mừng.”
Dĩ nhiên, muốn biết điều kiện để đạt tới Tin Mừng Nước Trời, thực thể Tin Mừng Nước Trời lại cần phải được giải quyết. Nó là gì, như thế nào, ở đâu, liên hệ tới con người ra sao, lợi, hại, v.v... Và như vậy cả loạt thực thể được đặt thành vấn đề cần được minh định. Nếu dùng phương pháp phân tích kiếm tìm về điểm khởi đầu căn bản hầu từ đó phanh phui những gì liên hệ, chúng ta cần đi ngược giòng lý luận. Muốn biết Tin Mừng Nước Trời, chúng ta cần biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì! Muốn biết Nước Thiên Chúa là gì, chúng ta cần biết Thiên Chúa thế nào! Muốn biết Thiên Chúa ra sao, chúng ta phải đối diện với thực tại vô cùng biến chuyển đó là tất cả những gì chúng ta có thể nhận thức, nhận biết, tưởng tượng, mơ ước, dù đúng hay sai, dù tốt hay xấu; chung quy đó là thực thể cuộc đời, bao gồm toàn bộ vũ trụ vô cùng này từ nguyên thủy tới giây phút hiện tại. Tuy nhiên, biết được mọi sự mà không thể nhận biết chính mình chỉ là nói láo, mường tưởng. Bởi thế, điều kiện căn bản lại phải quay về nội tâm để suy nghiệm về thực thể chính mình.
Nếu ai đã thực hành nghiệm chứng tìm hiểu về Tin Mừng Nước Trời hoặc điều kiện để đạt tới Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng sẽ nghiệm được một sự thể chẳng ngờ đó là điều kiện để đạt tới Tin Mừng quấn quyện với hành trình nghiệm chứng Tin Mừng không thể tách rời, và điều kiện này chính là căn bản cho hành trình nghiệm chứng; chẳng khác gì sự sống của một người không thể tách rời người đó dẫu họ muốn cảm nghiệm về sự sống hay không[ vì trước khi đặt vấn đề hoặc cảm ngiệm về sự sống thì người đó đã và đang sống. Để cho câu trả lời ngắn gọn, ThyLoan nêu lên những câu Phúc Âm nói về điều kiện tâm trí cần phải có đối với những ai muốn nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời.
“Người ta không lấy vải mới vá áo cũ, không lấy rượu mới đổ bì cũ” (Mt. 9:16-17). “Kẻ nào tra tay cầm cày mà ngó lui sau thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ” (Mt. 6:24; Lc. 16:13). “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37). “Kẻ cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại” (Mt. 10:39). Câu chuyện năm cô phù dâu khờ dại...(Mt. 25:2-13) bởi nghe sao biết vậy, không suy nghĩ. Người đầy tớ đem chôn phần tiền được trao cho không dùng để phát triển do e sợ bị phạt hay phiền hà (Mt. 25: 14-29). Người làm vườn trồng cây vả nơi vườn nho (Lc. 13:1-9) không chịu suy nghĩ, nhận định về công việc của mình.
Ai còn cố bám víu nơi những nhận định, hiểu biết của mình sẽ không thể nào hiểu được Phúc Âm nói gì. Ai muốn suy nghiệm Phúc Âm, cần phải vứt bỏ quá khứ, vứt bỏ tất cả những gì được gọi là kiến thức, những gì mình đã học hỏi nơi bất cứ ai và mở rộng tâm trí để nghiệm chứng. Như vậy, những ai còn lệ thuộc nơi mớ kiến thức thế tục thì cũng chẳng khác gì năm cô phù dâu khờ dại, chỉ nghe sao biết vậy hoặc cũng chỉ như người tôi tớ được trao cho một nén bạc và đem chôn vùi, tất cả đều bị kết án là sẽ chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Phúc Âm còn nêu rõ, nếu tay, chân, hoặc mắt làm cớ vấp phạm hãy cắt bỏ hoặc móc mắt vất đi (Mt. 5:29-30). Điều này có nghĩa, bất cứ gì ngăn cản hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời, người nghiệm chứng Tin Mừng cần phải dứt khoát với chúng, không nên khoan nhượng.
Nhận được những điều kiện tâm trí của người muốn nghiệm chứng Tin Mừng như thế, chắc chắn họ phải suy nghĩ khác thường nếu so sánh với những người chung quanh. Đây là ý nghĩa của lời công bố đầu tiên nơi sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến! Hãy hối cải (metanoia) và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Như đã trình bày về đặc tính con người e ngại tất cả những gì đổi mới đồng thời vì lười lĩnh suy tư nên ỷ lại đành chấp nhận giáo điều. đồng thời dễ bị giao động do e sợ nhận ra công sức hoặc những cố gắng hay tiền bạc đã bỏ ra mua bảo hiểm nước trời trở thành công toi nên sẵn sàng chỉ trích, kết án những ai quan niệm không giống mớ kiến thức giáo điều họ đang ấp ủ, Phúc Âm cần có lời căn dặn những ai thức ngộ Tin Mừng. Thêm vào đó, kinh nghiệm cuộc sống hùng hồn minh chứng, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết.” Người nào dẫu cho tâm hồn sắt đá đến đâu nhưng bị chỉ trích, kết án riết rồi cũng bị tiêm nhiễm trở thành nhụt chí và nghi ngờ những nghiệm chứng của mình. Hơn nữa, xét về mặt tâm linh, bất cứ ai, cho dù khôn ngoan cách mấy, nếu bị dư luận không tốt xỉa xói sẽ khó cho họ thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Điều này được rõ ràng chứng minh nơi Phúc Âm. Người ta đã nhân danh Thiên Chúa để kết án Đức Giêsu. Phỏng ai trong chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận lời dạy, “Phúc cho các ngươi khi người ta sỉ mạ các ngươi và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ điều về các ngươi một cách lếu láo vì cớ Ta. Hãy vui sướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời, vì cũng như thế, chúng đã bắt bớ các tiên tri, tiền bối của các ngươi” (Mt. 5:11-12).
Dĩ nhiên, con người là thế và thực tại cuộc đời đang diễn biến với đầy dẫy những vẻ nhố nhăng là thế. Đã biết sự e ngại nơi lòng kẻ nghiệm chứng và thất lợi chẳng những xảy đến với họ mà còn xảy đến nơi những người sơ cơ khao khát muốn nhận biết Tin Mừng, Phúc Âm khuyên nhủ những ai đã nghiệm chứng và đạt tới thực thể Tin Mừng Nước Trời, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân đạp mất và quay lại chúng cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Sự nghiệm chứng Tin Mừng chẳng khác gì hành động uống nước, ăn thực phẩm; ai uống người ấy hết khát và cảm nhận được vị của nước như thế nào đối với vị giác của người ấy; ai ăn người ấy no và cảm nhận được món thực phẩm tùy theo mình. Bởi thế, người cần ớt, thích ăn ớt thì thiếu ớt ăn mất ngon nhưng người không ăn được ớt sẽ cảm nhận ớt ngược lại. Sự nghiệm chứng Phúc Âm cũng dẫn dắt con người đến mức độ tâm linh tương tự sự cảm nhận tình yêu nơi con người. Giả sử ai đó nấp nơi bí mật vô tình nghe được đôi uyên ương thổ lộ với nhau sẽ cảm thấy chán ngấy, nhưng sự tâm tình và cách thức họ nói với nhau lại tuyệt vời đối với họ. Có thể so sánh sự giải thích về nghiệm chứng Phúc Âm chẳng khác gì người nghe lóm kể lại buổi tình tự của cặp uyên ương. Phúc Âm khuyên những ai nghiệm chứng không nên giải thích vì càng giải thích càng khiến những kẻ không nghiệm chứng hiểu lầm chỉ mang lại hậu quả tai hại không những cho họ mà cho cả mình. Thêm vào đó theo câu Mt. 7:6, Phúc Âm coi những người không chịu nghiệm chứng chẳng khác gì loài đáng bị coi thường. Con heo dưới nhãn quan lề luật Do Thái thuộc loại nhơ uế; con chó dưới nhãn quan người Việt tuy khá hơn nhưng được dùng nơi lối nói ám chỉ trở thành quá tệ hại. Phúc Âm còn câu khác nhẹ nhàng hơn, khuyên nhủ những người nghiệm chứng Tin Mừng, “Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói, hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16). Hai câu nói quá thâm trầm lại rất nghịch thường nên ít ai để ý nghiệm chứng. Hơn nữa, nghiệm chứng là một chuyện, sao có thể áp dụng nơi cuộc sống lại cả là vấn đề; bởi người nào đã nghiệm chứng Phúc Âm, sẽ cảm thấy động lực nào đó bắt mình phải lên tiếng khi đối diện với những cảnh lạm dụng Lời Chúa hay diễn giảng Lời Chúa theo quan niệm thế tục mang nguy hại tới dân Chúa. Nếu đem sự thực hành hai câu này so sánh với một số câu khác nơi Phúc Âm khuyên nhủ công việc truyền bá Tin Mừng Nước Trời, kẻ nghiệm chứng lại phải đối đầu với cả một vấn đề nan giải. Và cuối cùng họ sẽ nhận ra một thực thể đáng phiền lòng; đó là đã hai ngàn năm trôi qua, Thánh Thần của Đức Giêsu cũng đành phải chấp nhận bị kiên nhẫn và đồng thời chấp nhận ngay cả những trò múa rối chẳng khác gì ngày xưa, người ta đã nhân danh Thiên Chúa mà giết Đức Giêsu.
Nơi Cựu Ước cũng có những câu khôn ngoan nhưng không thâm trầm bằng lời Phúc Âm. Đọc nơi sách Cách Ngôn, chúng ta thấy ít nhất ba câu: “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói” (23:9), “Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó” (C.N. 26:4), và “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó” (C.N. 26:11). Để ý suy tư và qua kinh nghiệm sống, chúng ta thấy rõ một điều đó là những gì có thể nói lên được từ sự ngiệm chứng chỉ có thể là lối nói ám định, kiến thức. Người nghe dẫu cố gắng hiểu cũng chỉ nhận được cái biết ngoài da và người giải thích sẽ bị kẻ không nghiệm chứng kết án. Có câu chuyện kể, một người mẹ đánh con, con la đau, mẹ nói, tao có thấy đau đâu. Ai hiểu sao thì hiểu; nói ra không được mà càng nói lại càng chẳng nói được gì, thế nên, chẳng thà đừng nói lại càng hay hơn. Có thể đây là gốc gác cho những phép át bổng nhà Phật.
Câu hỏi 9: Có thể nói chúng ta đang sống nơi thời đại hơi tiến bộ vì ít nhất khoa học đã biết được có hơn kém 10 tỷ giãi ngân hà. Vậy lỡ trong số hơn kém 10 tỷ giãi ngân hà ấy có con người giống như nơi trái đất này thì ơn cứu độ của Chúa Giêsu có đến với họ không hay là Chúa lại phải đầu thai nơi cái trái đất thứ hai ấy.
Trả lời câu hỏi 9. Ơn cứu độ có đến với con người nơi hành tinh khác không?
Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng bao hàm nhiều vấn đề lẫn lộn giữa nhận thức nghiệm chứng Phúc Âm và nhận định theo suy luận lý trí dựa trên thực tại vật chất. Nói cho đúng, ngoại trừ nhận thức được đặt căn bản nơi Phúc Âm, tất cả những suy luận và lý luận cũng như phương cách tổng hợp để có thể đưa ra ý niệm tạm được coi như giải đáp có thể chấp nhận được đều chỉ là phỏng đoán. Lẽ đương nhiên, câu hỏi đã thuộc loại giả thuyết thì câu trả lời cùng lắm chỉ có thể nói lưu đôi lệ thuộc giả thuyết. Bởi vậy, trình bày suy luận cá nhân phỏng đoán về ơn cứu độ đối với con người nơi hành tinh khác chỉ là phiếm luận mà thôi. Ngược lại, điểm chính yếu lại là ơn cứu độ... Thế nên mời bạn cùng rảo qua những vấn đề liên hệ: Ơn cứu độ là gì? Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu. Sự liên hệ giữa con người và ơn cứu độ, vaø giả sử có con người biết nhận thức như chúng ta nơi hành tinh khác.
Có con người như chúng ta nơi một hành tinh nào đó là một giả thuyết có số tuổi lớn hơn bất cứ ai vào thời điểm này đang hiện diện trêm mặt địa cầu. Dân số trên trái đất hiện nay hơn 7 tỷ người. Mặc dầu hầu hết mọi người khác biệt nhưng cũng có những trường hợp hai người có cá tính hoặc cơ cấu thể chất tương đồng. Những trường hợp tương đồng này xảy ra do những nguyên nhân nào thật khó cho chúng ta am hiểu, nhưng sự thực vẫn là sự thực, sự việc đã xảy ra dầu có chối cãi hoặc không chấp nhận hay không tin, nó vẫn là nó! Cho đến nay, người ta dù không cảm thấy ngỡ ngàng nhưng cũng phần nào đó ngạc nhiên khi nghe đến sự rộng lớn vô tận của vũ trụ, hơn mười tỷ giãi ngân hà. Mỗi giãi ngân hà lại bao gồm không biết bao nhiêu hành tinh, hộ tinh, và vệ tinh. Nếu thử làm bài tính nhẩm tất nhiên chúng ta sẽ nhận thấy không ai có thể dự đoán có bao nhiêu thiên thể nơi vũ trụ bởi con số thành quá lớn; thêm vào đó vì không thể biết được chính xác mỗi giãi ngân hà chứa đựng bao nhiêu ngôi sao hay thiên thể và cũng không khoa học gia hay nhà thiên văn nào có thể xác quyết hơn mười tỷ giãi ngân hà thực sự mang con số rõ ràng bao nhiêu. Có thể nói, nếu đem trái đất phân tán thành những hạt bụi thì tổng số đếm những hạt bụi được tạo thành có lẽ vẫn còn nhỏ hơn con số đếm các thiên thể vĩ đại nơi vũ trụ. Thêm vào đó, từ nhận thức về thực tại nơi cuộc sống ở trái đất, chúng ta thấy loài nào, giống nấy đều mang dạng thức và kiểu cách cũng như tính chất tương đồng thuộc chủng loại của mình thật khó cho trí khôn con người hiểu thấu. Ấy là chỉ mới nói đến những gì chúng ta nhận biết được nơi trái đất cỏn con này. Thế thì, từ nhận thức đơn thuần tổng quát về thế giới chung quanh mình, ai cũng có thể nghĩ đến được trường hợp có những sự trùng hợp đồng loại, tương tự, mang đầy đủ tính chất của một thiên thể nào đó nơi vũ trụ vô cùng có thể mang sắc thái, điều kiện, và có sự sống chẳng những như con người mà còn những loài vật chẳng khác chi nơi trái đất, lại e có phần hơn.
Đã một thời, giới khoa học xôn xao khi nghiên cứu những hình chụp bề mặt của hỏa tinh do phi thuyền vũ trụ gửi về chứng tỏ hiện tượng vào thuở xa xưa nơi hỏa tinh đã có nước, yếu tố căn bản cho sự sống mà đã một thời gian những nhân viên điều hành chương trình nghiên cứu không gian NASA giữ kín không tiết lộ cho quần chúng, nhất là giới khoa học biết. Qua kiến thức và phương tiện khoa học không gian ngày nay, ai cũng biết rõ, hệ thống thái dương hệ chỉ được coi như một chấm nhỏ nếu đem so sánh với toàn thể vũ trụ nơi khoảng không gian vô tận; thế mà cũng đã có hỏa tinh thời xa xưa chứa đựng nước; sự kiện này dẫn kiến thức con người đến dự đoán cũng đã có thể có sự sống dẫu đơn giản hay phức tạp nơi hỏa tinh vào những thời nào đó phương chi nơi hằng hà sa số những thiên thể cách xa trái đất cả triệu hay tỷ năm ánh sáng.
Điểm căn bản chúng ta cần để ý đó là dẫu nơi khoảng không gian vô tận với hằng hà sa số thiên thể như thế vẫn có một quyền lực chứa đựng những định luật cả thể, vô biên điều hành tất cả mà cho đến nay con người vẫn chỉ đang ở giai đoạn ngỡ ngàng, chiêm ngưỡng, và suy tưởng những giả thuyết về sự thể bất tư nghị này. Thử xét về hệ thống thái đương hệ, những điều kiện và trật tự đang điều hành mặt trời và những hành tinh, hộ tinh quả là quá sức tưởng tượng của con người. Giả sử trái đất ở gần mặt trời hơn chừng vài trăm ngàn hải lý hoặc quay chậm hơn hoặc nhanh hơn tất nhiên điều kiện và sự sống sẽ có những diễn biến hoàn toàn khác với thực tại nơi trái đất chúng ta đang sinh sống. Giả sử trái đất quay chậm 5 lần thì ngày sẽ dài hơn 5 lần và đêm cũng sẽ dài hơn 5 lần. Như vậy sức nóng ban ngày sẽ lên quá cao và độ lạnh ban đêm xuống quá thấp khiến cây cối và thể chất con người của chúng ta không thể nào chịu đựng nổi. Hoặc giả sử mặt trăng ở gần trái đất cỡ 5000 hải lý, với hấp lực của nó, những loạt đại hồng thủy tiếp nối xảy ra trên mặt địa cầu mỗi ngày hai lần thì điều kiện nào cho muôn vật sinh sống có thể tồn tại? Nhận định như thế và suy rộng hơn áp dụng nơi cõi không gian vô tận, chúng ta thấy có sự điều hành tuyệt vời nơi vũ trụ hòa trong sự biến chuyển không ngừng đang từng phút giây diễn tiến. Bởi đó, giả thuyết có con người như chúng ta sinh sống nơi một thiên thể nào đó trong vũ trụ bao la là điều có thể xảy ra không cần đặt vấn đề đúng hay sai.
Xét thế, vấn nạn được đặt ra xoay quanh ơn cứu độ. Vậy ơn cứu độ là gì? Ơn cứu độ đã và đang được rao giảng như thế nào nơi thế giới loài người? Phúc Âm nói gì về ơn cứu độ? Mục đích của đức Giêsu đến thế gian là gì và liên hệ thế nào với ơn cứu độ...
Trước hết ThyLoan tự hỏi mình muốn được cứu khỏi những gì nơi cuộc sống này. Phải làm việc (vì ThyLoan hơi lười chút chút nên đành chấp nhận lúc đói đầu gối phải bò), không làm, không ai trả lương; tự tạo công việc để làm cho khỏi bị lệ thuộc những điều kiện bó buộc mà một kẻ làm thuê phải chấp nhận thì ThyLoan không có khả năng ấy. Hơn nữa, theo kinh nghiệm được biết do nói chuyện với những người bạn có cửa tiệm tạp hóa, bán xăng hoặc bán tôm cá, dẫu họ có tiền nhưng nếu tính theo công sức thì lương chỉ đáng 2USD một giờ. Họ có tiền bởi làm việc nhiều giờ giấc, đồng thời cũng nhờ sự khôn khéo con buôn cộng thêm tính chất quá bận rộn của công việc không có thời giờ đua đòi, se sua tốn tiền nên khá giả, vì không tiêu tiền tức là đã làm ra tiền; một người dầy kinh nghiệm trong nghề buôn bán nói với ThyLoan như thế. Nhiều lần ThyLoan cảm thấy chán nản cảnh làm thuê nhưng không dám bỏ công việc lại ngán ngẩm đứng tiệm, một ngày như mọi ngày, phải ép mình ép xác ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự đối với những khách hàng quá quắt nếu không muốn nói là có một vài người vô ý thức, vô liêm sỉ, đã có những thái độ bất nhã hoặc hành động thô bỉ không ngờ. Bạn ThyLoan có cửa tiệm tạp hóa, bán xăng, kể lại nhưng e rằng nếu viết theo đúng lời kể sẽ trở thành bất nhã hoặc quá thô tục đối với độc giả. Ngược lại, hằng năm ThyLoan có được mấy tuần nghỉ thì lại cảm thấy chán nản không biết cách nào tiêu hao ngày tháng. Đi đây đi đó thăm bạn bè, bà con, tiền đâu rải đường, quà cáp! Ở khách sạn, có nhà không ở lại đi thuê. Không phải làm việc cũng chán; coi phim, đọc sách trong những ngày nghỉ không thú vị gì. Bởi vậy suy đi nghĩ lại, công việc làm lại là điều cần thiết chẳng những giúp mình nuôi sống bản thân, không làm gánh nặng cho những người chung quanh mà còn giải quyết được những thời giờ nhàm chán. Có thể câu “Nhàn cư vi bất thiện” mang nghĩa không có công việc gì làm thì cuộc đời quả là đáng chán. Thử xét thêm về những nỗi bất thường như sinh, bệnh, lão, tử, những nỗi thống khổ nơi kiếp nhân sinh được nhà Phật nêu lên. Chết, lẽ bất khả phân ly với sống vì chính những vị được con người mệnh danh là giác ngộ cũng đã chết, không ai sống đời. Bao nhiêu người đã qua đi, nhiều kẻ kiếm đủ mọi cách cưỡng mệnh trời mà nào có ai thoát; thế nên đâu ai dám nghĩ đến được cứu độ khỏi bị chết dẫu không muốn chết, vaø thực sự sợ chết.
Nơi kinh sách, không tác giả nào nói cứu độ về những sự thể nhân sinh đang phải đối diện trong cuộc sống mà chỉ nói về những sự thể thuộc veà tâm trí hay tâm linh. Điều mà ThyLoan thường được nghe nhiều nhất là cứu linh hồn khỏi phải chịu những hình phạt sau khi xác thân con người chết. Nếu nói rằng cứu độ khỏi nghiệp bởi con người có kiếp trước được luân hồi theo chủ thuyết của Ấn học và cuộc đời này là cơ hội giải nghiệp, thăng tiến, hoặc tạo đức, tránh bị luân hồi kế tiếp thì mình có biết nghiệp của mình là gì đâu, và như vậy vấn đề tiên khởi phải tìm cho ra nghiệp của mình vướng phải là những gì để giải quyết. Đàng khác, nếu đã là nghiệp do tiền kiếp tạo nên thì ai có thể cứu, và nếu đã có đấng nào cứu độ thì cứ việc tha hồ sống lung tung; bởi đã có sẵn sự cứu độ cần chi đặt vấn đề. ThyLoan sợ các vị rao giảng lắm bởi các vị ấy nhìn đâu cũng thấy tội, mà không thấy phúc. Lỡ gặp vị nào thì phải tránh trước bởi nếu chẳng may vị ấy không kịp giữ mồm giữ miệng bô bô nói lên những điều chẳng ra gì của mình thì chỗ nào để độn thổ. Quái, một đàng các vị ấy giảng đấng này cứu độ, đấng kia giải thoát mà ngay sau đó lại khuyên phải làm thế nọ, phải sống thế kia. Nếu những cái phải thế nọ phải thế kia ấy cứu được mình thì đâu cần ai cứu; mình không thực hiện những sự ấy để được cứu hay tự cứu là tại mình. Nếu đã có đấng nào cứu thì những gì mình thực hiện để được cứu minh chứng không chấp nhận sự cứu độ, cứu thoát của bất cứ đấng nào. Luẩn quẩn với cái lý lẽ được cứu và phải thực hiện để được cứu, ThyLoan gần quên cả thở để được cứu khỏi phải sống. Tìm tòi, đọc được dăm ba cuốn sách thì không sách nào có thể chỉ cho mình biết nghiệp của mình đang phải mang là những gì. Mò mẫm nơi lý số lại càng mù tịt, và rồi vô tình đọc đâu đó câu, “Tử vi xem số cho người; số mình thì để cho ruồi nó bâu,” ThyLoan ngưng, rắc rối quá. Bất cứ sách vở lý số nào cũng đều lấy câu châm ngôn “Đức năng thắng số” làm chuẩn; thế thì ráng mà đức năng cần gì phải biết về số, về phận. Hơn nữa, lại có câu khôn ngoan, “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.” Thử hỏi, nếu đã là “họa vô đơn chí” thì đức năng thắng thế nào? Lý luận ở đâu để giải quyết cho hai câu khôn ngoan có thể tạm hòa hợp,”Đức năng thắng số, vaø Họa vô đơn chí.”
Nếu ThyLoan không lầm, con người nghĩ về cứu độ hay giải thoát mang ý chỉ về cuộc sống tâm linh, của linh hồn, hay gọi là gì đi nữa, sau khi xác thân chết. Điều này minh chứng những ai đặt vấn đề về cứu độ hay giải thoát chấp nhận hay tin tưởng có “sự sống đời sau.” Đồng thời tâm tình này bao gồm hai trường hợp, 1/ Đặt vấn đề để kiếm phương cách giải quyết trước khi chết. 2/ Sợ những gì có thể xảy đến dù chưa thực sự biết những chuyện đó là gì, thế nào. ThyLoan chỉ thử đặt vấn đề nơi trường hợp thứ nhất bởi nếu đã có được phương pháp giải quyết chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, tất nhiên nỗi e sợ tự động bị xóa sổ. Ngược lại nếu không có hoặc ỷ lại không kiếm tìm phương cách chuẩn bị cho cuộc sống đời sau của linh hồn, nỗi e sợ càng ngày càng tăng, đồng thời tạo nên nỗi kinh khiếp sự chết hoặc đắm mình chạy theo tham vọng hay ước mơ nào đó hầu khỏa lấp mối đe dọa không thể tránh thoát này được ngày nào hay ngày nấy.
Chúng ta thường được nghe giảng giải đến độ nhập tâm đó là Chúa Giêsu nhập thể làm người để chết cho và chết vì tội lỗi loài người đã vấp phạm. Hình như lời tuyên xưng này bắt nguồn nơi câu Phúc Âm, “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa không sai Con đến trong thế gian để xử án thế gian, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Kẻ không tin thì đã bị xử án rồi, bởi vì không tin vào Danh Con Một của Thiên Chúa. Aùn xử là thế này: sự sáng đã đến trong thế gian mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” (Gioan 3:16-19). ThyLoan thấy cần phải đưa lên nhận xét tại sao Phúc Âm nói theo kiểu vơ đũa cả nắm, “vì việc họ làm là điều xấu.” Thực ra, nếu hiểu theo nghĩa từ chương và theo quan niệm luân lý, câu Phúc Âm hoàn toàn không thể chấp nhận được; bởi đâu phải bất cứ việc gì chúng ta thực hiện cũng đều xấu. Không những chỉ Kinh Thánh Công Giáo tiếng Việt được viết như thế, nơi cuốn The New Oxford Annotated Bible, (Revised Standard Version), bản dịch chung của các chuyên viên kinh thánh thuộc nhiều giáo phái Kitô giáo cũng viết, “And this is the judgment, that the light has come into the world, and men loved darkness rather than light, because their deeds were evil” (Herbert B. May & Bruce M. Metzger chủ biên; Oxford University Press; NY; 1977).
Mọi người tự nhận thức được không phải mọi hành vi cử chỉ của chúng ta đều xấu. Có chăng chúng ta thường gặp những khó khăn khi thực hiện những công việc tốt lành. Không hiểu quý vị nhận xét thấy thế nào. Riêng ThyLoan, những việc được coi là tốt lành mình thực lòng thực hiện sao mang lắm phiền hà nhiều khi đến độ nản chí mà những gì chẳng nên thì lại quá dễ dàng, hấp dẫn. Sự kiện này chẳng khác gì khi mới học và thực hành một ngôn ngữ khác; chúng ta thường dễ nhớ những câu không nên nhớ; trong khi những chữ, câu nói nên nhớ thì cố nhớ vẫn cứ thường quên. Tuy nhiên, ThyLoan thấy khó lòng chấp nhận quan điểm mọi việc chúng ta làm đều là xấu vì ít nhất chúng ta hãy còn có lương tri soi sáng. Nơi Phúc Âm Gioan có câu, “Đừng theo mã ngoài mà xét xử! Hãy xét xử cho công minh” (7:24); như vậy sự tốt lành hay xấu xa của một sự việc được nhận định tùy thuộc ý định, ước muốn của người thực hiện trong khi câu Phúc Âm chỉ đơn thuần phán, “Vì việc họ làm là điều xấu,” chẳng lẽ mọi ý định của con người đều xấu... và nếu chấp nhận như vậy những lời giảng dạy chúng ta phải thực hiện điều này, nên làm điều kia đều chỉ càng ngày càng tạo thêm điều xấu chồng chất; hy vọng cứu độ tất nhiên trở thành vô vọng. Chẳng lạ gì đã có quan niệm ơn cứu độ là một “hồng ân nhưng không” của Thiên Chúa; mọi việc con người thực hiện đều xấu xa do bị ảnh hưởng của tội nguyên tổ nên không đóng góp gì được cho sự cứu rỗi của mình. Những người được cứu độ tùy thuộc sự chọn lựa hay tiền định của Thiên Chúa (Encyclopedia Britannica; Vol. 4; William Benton; Chicago; USA; 1973; Tr. 671). Dĩ nhiên, chẳng những Công giáo không chấp nhận quan điểm này, và còn kết án là rối nữa. Tất nhiên ThyLoan khó có thể chấp nhận được sự tiền định về thân phận của mình vì nếu cho rằng đã bị tiền định, con người đâu cần phải đặt vấn đề tốt xấu, đúng sai, phải trái, lương tâm hay ý thức v.v... mà cứ việc tha hồ tự do theo ý thích miễn sao lọt qua kẽ luật lệ quốc gia hay miệng tiếng đời, và như thế, phải trở nên thực sự ma lanh.
Tuy nhiên, đọc Phúc Âm và để ý từng câu; sự lạ lùng xảy đến chẳng ngờ. Thử xét đoạn, “Từ bấy giờ, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho môn đồ hay ngài phải đi Yêrusalem, và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và Phêrô kéo ngài lại với mình và lên tiếng trách ngài, 'Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!' Nhưng quay lại, ngài nói với Phêrô, 'Xéo đi sau ta! Hỡi Satan! Ngươi là cơ vấp phạm cho ta, vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người'“ (Mt. 16:21-23; Mc. 8:31-33). Cứ theo đoạn Phúc Âm này thì Satan là ý tưởng của loài người, không phải là ý tưởng của Thiên Chúa. Rắc rối lớn! Ngày còn nhỏ ThyLoan được dạy giáo lý rằng Satan là vị tổng lãnh thiên thần Lucifer vì muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên Chúa sai thiên thần Michael đánh đuổi đày xuống hỏa ngục. Chẳng lẽ ông quản dạy giáo lý nói sai! ThyLoan lục lọi nơi cuốn Kinh Thánh cổ Holy Bible được in từ năm 1947, không thấy có chữ Lucifer; trong khi Phúc Âm lại được viết quá rõ ràng về sự theå được gọi là Satan. Nhưng biết suy nghĩ thế nào, nếu nói rằng ý tưởng của loài người là Satan thì những lời ca tụng, chúc tụng, cầu nguyện, cầu xin, những ước muốn mở rộng Nước Chúa và cứu rỗi các linh hồn, đều là Satan hết cả ư? Như vậy thì suy luận theo chủ thuyết của Calvin đã đúng, và tại sao lại bị kết án. ThyLoan cũng cảm thấy không thể chấp nhận được, vậy đâu là chân lý? Thế đâu là ý tưởng của Thiên Chúa?
Thỉnh thoảng ThyLoan được nghe quý cụ nói chuyện trong những tiệc tùng, đám xá có liên quan đến nhà đạo chẳng hạn cưới hỏi hay ma chay rằng “cha nói là Chúa nói.” Rồi nào những ý bề trên, bề dưới, và cả bề ngang. Nghe đâu đó những người đi tu dòng thường được dạy dỗ, “Ý Chúa được thể hiện qua ý bề trên.” Qua những gì tai nghe, mắt thấy, hoặc đọc nơi sách vở; chẳng hạn nơi cuốn Hồi Ký Mùa Thu, “Cuộc Đời Thánh Anphongsô,” bản dịch của Lm. Bùi Quang Tuấn, CSsR, thì quả là cheo leo cho những ai muốn tìm ý Chúa. Lật lại Phúc Âm, ý Chúa rõ ràng được phơi bày mà ThyLoan đã không để ý, “Lương thực của ta là làm theo ý Đấng đã sai ta, và chu toàn công việc của Người” (Gn. 4:34). Nơi khác lại được viết, “Phần ta, những gì ta đã thấy nơi Cha ta thì ta nói ra; còn các ngươi, những gì các ngươi đã nghe được nơi cha các ngươi thì các ngươi làm” (Gn. 8:38). Đức Giêsu được sai đến để “làm theo Đấng đã sai” và công việc của ngài chỉ là “những gì ta thấy nơi Cha ta thì ta nói ra.” Như vậy, ý Chúa, ý tưởng của Thiên Chúa là những lời rao giảng của Đức Giêsu, được gọi là Phúc Âm. Đối nghịch với ý Chúa là ý tưởng của loài người, là Satan. Bất cứ những gì không thuộc về Phúc Âm đều được gọi là Satan; vì nó phát xuất từ ước mơ, vọng tưởng thế tục, “Điều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra nhơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta mà xuất ra những suy tính xấu xa, những dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, giảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra và làm cho người ta ra nhơ uế” (Mc. 7:20-23). Như vậy mới hợp lý hợp tình, mới biết được đâu là ý Chúa, đâu là ý cha; đâu là ý cố đạo, ý bề trên. Vậy Đức Giêsu đã làm gì để được gọi là cứu độ? Ngài nói ngài cứu độ hay người khác nói ngài cứu độ?
Đọc nơi bốn Phúc Âm, ThyLoan không thấy nơi nào ghi lại Đức Giêsu nói ngài đến để chết vì tội lỗi con người, chết vì tội của ThyLoan. Chẳng lẽ cuốn Kinh Thánh in thiếu hoặc ThyLoan đọc không kỹ. Không những thế, ThyLoan kiếm nơi The Holy Bible, “download” từ mạng lưới điện toán cũng không có câu nào Đức Giêsu nói như vậy, có chăng, chỉ nơi mấy thư (Rom. 4:25; 1Cor. 15:3; Gal. 1:4; 1Gn. 2:2; 4:10) và các nhà rao giảng Kinh Thánh tận lực phát triển quan niệm này khiến dân chúng bị nhập tâm. Nơi Phúc Âm Luca, Đức Giêsu trả lời những người yêu cầu ngài ở lại với họ một cách rõ ràng, “Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà ta đã được sai đến” (4:43). Như vậy vấn đề được đặt ra lại là “Tin mừng Nước Thiên Chúa” có liên hệ gì đến điều được gọi “Ơn cứu độ.” Tại sao lại nói Đức Giêsu đến cứu độ, cứu chuộc con người? Tin Mừng Nước Thiên Chúa ngài rao giảng là gì... ảnh hưởng đến con người thế nào?
Mọi người đều biết nhiệm vụ cũng như mục đích cuộc đời của Đức Giêsu là hoàn thành công việc Thiên Chúa giao phó và đó là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người nhận biết. Dĩ nhiên, nhận biết hay không và nhận biết thế nào đều tùy thuộc con người có muốn nhận biết hay không. Viết đến đây ThyLoan cảm thấy lối nói “tin vào Thiên Chúa hoặc tin vào Đức Giêsu” thường được hiểu theo nhiều chiều hướng, và mang nghĩa khác với ngôn từ được dùng nơi Phúc Âm; bởi vậy ThyLoan dùng “nhận biết.” Khi mình đã biết chắc chắn điều gì thì không cần phải đặt vấn đề tin; chẳng hạn mình biết mặt trời đang chiếu sáng. Hơn nữa “tin” thường bị hiểu lầm liên hệ tới “đức tin” hay “lòng tin” được dùng nơi Phúc Âm. Nhận biết bao gồm nhận thức và biết chắc chắn sự thể nào đó. Thế nên, “nhận biết” ThyLoan muốn dùng mang nghĩa đã được nghiệm chứng, thực chứng chứ không phải hiểu biết theo kiến thức. Hiểu biết chuyện gì, sự gì nhưng không được thực sự áp dụng nơi cuộc sống đó chỉ là kiến thức, vô bổ. Như vậy, người nhận biết Tin Mừng Nước Thiên Chúa tất nhiên là người sống trong trạng thái Tin Mừng đề cập.
Danh xưng “Thiên Chúa” được dùng để chỉ quyền lực hiện hữu tối thượng, hoạt động nơi mọi vật, mọi loài, quyền lực sự sống. Thiên Chúa hiện diện mọi nơi mọi chốn, mọi thời; do đó Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được 'này ở đây' hay 'ở đó', vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21), đã đến gần (Mt. 3:2; 4:17;10:7), gần bên (Mc. 1:15), hay đã đến (Mt. 12:29; Lc. 11:20). Như vậy, Tin Mừng Nước Thiên Chúa chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23). Vì Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi moïi người, nơi mỗi người; bởi đó Đức Tin hay Lòng Tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mình. Đây là lý do tại sao Đức Giêsu luôn luôn xác quyết mỗi khi sự việc chữa lành xảy đến thường được mệnh danh là “Phép lạ,” “Đức tin con cứu chữa con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:50; 8:48; 17:19; 18:42).” Đức tin, quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người được thể hiện qua ước muốn, ý định; vì thế không lạ gì Đức Giêsu trả lời cho người phụ nữ xứ Cana, “Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!” (Mt. 15:28). Và điều kiện để đức tin hay lòng tin hoạt động chỉ là không nghi ngại, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:22). Dĩ nhiên, khi còn cảm thấy nghi ngại, không biết chắc điều gì tất nhiên chưa thực chứng; chưa thực chứng đức tin tất nhiên chỉ có thể nói về đức tin như một sự gì bên ngoài mình. Điều này có nghĩa đã không nghiệm chứng Phúc Âm.
Tin Mừng Nước Thiên Chúa nói về thực thể quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật, mọi sự. Tin Mừng này giải thoát, cứu con người thoát khỏi những sự mê lầm, thoát khỏi mọi sự lừa dụ, mọi điều rao giảng suông. Chỉ những ai suy nghiệm, nghiệm chứng, thực chứng thực thể con người của mình như thế nào mới cảm nhận được Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng. Tất cả mọi sự giải thích, diễn giảng đều vô ích; những sự hiểu biết hay trình bày về Tin Mừng (như ThyLoan đang viết) đều không giúp ích gì cho bất cứ ai; chỉ giống như lời Đức Thích Ca, “Lời ta nói như chiếc bè.” Như vậy, Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cứu độ con người khỏi sự mê muội không nhận biết chính mình mà cảnh tỉnh con người nhận biết thực thể con người mình là gì. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Đức Giêsu đến đem tin mừng, người ta nói Đức Giêsu đến cứu độ. Hai lối phát biểu tuy có khác nhưng mang cùng ý nghĩa mặc dầu đã bị hiểu sai. Sự chấp nhận sai lầm theo nghĩa từ chương của lối phát biểu chỉ khiến con người cảm thấy bơ vơ... đồng thời làm thiệt hại đến sự nhận biết chính mình. Gốc gác của sự thể này chắc chắn chỉ là không chịu suy tư mà ỷ lại, đợi người khác đem ơn cứu độ cho mình.
Tóm lại, dẫu Đức Giêsu không phải nhập thể nơi một thiên thể hay hành tinh nào đó nơi vụ trụ vô tận, có sinh vật mang ý thức như con người nơi trái đất, thì chắc chắn cũng có phần tử nào đó nói lên thực thể của những sinh vật ý thức ấy là gì. Ơn cứu độ, sự giải thoát. cứu thoát, con người khỏi trạng thái mê lầm về thực thể của mình cũng là mục tiêu của Phật học, Ấn học, Lão học, Trang học. Thế nhưng, con người đã vô tình khó chấp nhận lối bày tỏ quan niệm của người khác nên tự quấy nhiễu tâm tư mà thôi.
10/ CÂU HỎI QUÁI ÁC
Tự tâm trí, mọi người đều cảm nhận mơ màng câu nói nơi Khổng học, “Nhân chi sơ, tính bản thiện” nhưng đồng thời lòng mang nỗi khắc khoải nào đó được nhận biết một cách rõ ràng hoặc nhiều khi không rõ ràng thường được gọi “áy náy lương tâm.” Sự thể áy náy lương tâm này mang mức độ nào lại tùy thuộc nhiều sự thể khác đã xảy đến liên hệ với chủ thể. Dĩ nhiên mức độ ảnh hưởng của sự việc (được gọi thực thể, bao gồm ý nghĩ, ước muốn, lời nói, hành động, ngay cả những điều quên sót) cũng tùy thuộc tính chất, nhận thức, cá thể của chủ thể. Điều không ai không nhận biết đó là khi nói tới “tính bản thiện” chắc chắn đã có những gì “bất thiện” xảy đến. (Chẳng hạn nơi câu, “Nhàn cư vi bất thiện.” Bất thiện thường được gọi là tội lỗi. Kinh nghiệm sống minh chứng chưa chắc nhàn cư vi bất thiện bởi còn tùy thuộc cá nhân, nhưng câu hỏi quái ác “Tội lỗi là gì?” luôn luôn mang áp lực nào đó nơi tâm trí mỗi người tạo nên nhiều phản ứng khác nhau, đã bao ngày tháng vẫn còn là một thách đố đối với bất cứ ai cho dù trốn chạy, không dám đối diện với lòng mình để giải quyết khúc mắc, hoặc dựa trên sự giải thích phiếm diện nào đó thuận cho mọi người lại không phù hợp với mình, hay nương tựa nơi những điều lệ hoặc chủ thuyết hòng có được mối an tâm giả tạo, gượng sống cho qua kiếp người tựa câu hát nào đó, hãy cứ yêu đời mà sống, lâu dần rồi mình cũng quen, và cuối cùng đời mình cũng qua, qua trong nỗi khắc khoải, bất an.
Nói rằng “cuối cùng đời mình cũng qua” quả thật quá ngây thơ; ngây thơ bởi đã không tìm hiểu hoặc nhận thức thực thể tạm được gọi “mình” là gì, như thế nào; trước khi có sự hiện diện hữu hình của mình nơi thế giới vật chất này mình đã ở đâu và ra sao? Nếu chỉ vì ngại ngùng không dám đối diện với lòng hoặc chỉ dựa theo những kiến thức như cặn bã suy tư của kẻ khác để lại, hầu nương nương mà sống cho qua kiếp người không cần biết đến mình là ai, như thế nào, mình đã tự chấp nhận thân phận giống như muông thú, cây cỏ, và cho dẫu như thế cũng không tránh thoát được nỗi dằn vặt, khắc khoải do ý đồ trốn chạy đối diện thực thể “áy náy lương tâm” hằng đeo đuổi. Có câu hỏi được đặt ra, “Nếu không có sự áy náy lương tâm” thì sao? Xin thưa, người không có gì, không làm điều gì, hoặc không bao giờ mắc phải thiếu sót khiến lương tâm áy náy, họ tự biết, và cũng như lẽ tự nhiên, người hỏi tự biết đã nêu câu hỏi vì lý do gì!
Sự thể bình thường hiện diện nơi mỗi người nhưng ít được để ý đó là cái gì nơi con người được gọi là lương tâm, tâm trí, lòng, dạ mang sự áy náy, khúc mắc, ăn năn, thống hối hoặc mặc cảm tội lỗi? Tất nhiên, con mắt chúng ta mang chức vụ nhìn nhưng không phải tự nó nhìn; tai có nhiệm vụ nghe nhưng nó không nghe, mà chúng chỉ là phương tiện. Vậy cái gì nơi chúng ta nhìn qua con mắt? Cái gì dùng tai để nghe nơi một người? Thế nên, sự thể “Đời mình cũng qua” chỉ có nghĩa ngày nào đó thân xác mình sẽ phải chết để rồi theo thời gian tan biến hoặc thay đổi qua dạng thức khác. Thực thể tạm được gọi là “mình” hay “tôi,” chủ thể, tâm trí, trí khôn, hồn, atman, pháp thân, phật tính, thần khí, ẩn nơi và lệ thuộc điều kiện thân xác, đang điều hành toàn bộ cuộc sống một người tùy thuộc môi trường, hoàn cảnh, thường ít được để ý nơi cuộc sống bình thường thế tục. Ngược lại thực thể này chính là chủ điểm, mục đích đầu tiên cũng như cuối cùng cho các nhà chiêm nghiệm, chân nhân, nơi hành trình nghiệm chứng, và cũng là mục tiêu của tất cả các kinh sách đạo học được kiến tạo như thành quả nghiệm chứng hầu giúp con người so sánh với nhận thức cá nhân để nghiệm chứng thực thể của mình. Xét thế, câu hỏi “Tội lỗi là gì” tự chất chứa liên hệ nghiệm chứng về thực thể chủ thể, cái tâm, cái hồn, hòa hợp với thân xác và cuộc sống một người, không thể tách rời bởi nếu đã không có mình, không có cuộc sống con người, không có chủ thể, không có gì đáng được đặt thành vấn đề.
Cho dù quan niệm được sinh ra hay bị sinh ra thì cũng không ai có quyền hoặc có cơ hội quyết định mình muốn được sinh ra làm người hay không, ấy là chưa nói tới được sinh ra nơi môi trường, thời điểm, gia đình v.v... như thế nào. Bởi thế, nói rằng con người sinh ra trong tội, “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ” (Tv. 51:5), hoặc là kết quả của nghiệp từ muôn vàn kiếp trước (Phật học) thì mỗi người đã đang phải đối diện với cuộc đời không đường trốn chạy. Ngược lại, nếu nhận thức cuộc đời một người theo chiều hướng khác, con người là phần tử (Atman) của Thượng Đế, Brahma (Ấn học), hay Pháp Thân, Phật Tính, “Cái tự tâm của chúng ngươi là Phật, chớ khá hồ nghi” (Kinh Pháp Bảo Đàn; Lục Tổ Huệ Năng; Thích Minh Trực dịch; Phật Học Viện Quốc Tế xb; CA, USA; 1990; Tr. 185), hoặc là sự hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức con người, “Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Gn. 1:2-3), hay, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23), để có thể huyền đồng (Lão), con người vẫn phải và bị đối diện với cuộc đời thế tục mang nhiều nặng nợ kiếp nhân sinh tạo nên những tâm trạng ăn năn, thống hối, con đẻ của nhận thức tội lỗi.
Có chủ thể tâm linh, hồn, Atman, Phật Tính, Tào, mà không có xác thân, không phải đối diện với cuộc nhân sinh, không có gì đáng cho chúng ta đặt thành vấn đề. Có thân xác nhưng hồn đã lìa khỏi, cũng chẳng còn gì để nói vì xác sẽ chóng mục rữa theo ngày tháng. Như vậy vấn đề tội lỗi chỉ được đặt ra đối với những ai đang sống nơi giòng đời mà thôi. Đàng khác, nếu để tâm nhận định thực trạng cảm nhận phát sinh từ hành động, sự thể xảy đến nơi một người quả không đơn giản. Có câu nói, “Chỉ những bậc kính thành đạo đức mới thực sự tận hưởng được niềm khoái lạc cùng cực của sự phạm tội!” Nhưng vì cớ gì Chalib đã viết, “Lạy Chúa tôi, tôi không ăn năn về những tội lỗi tôi đã vấp phạm nhưng tôi ăn năn về những tội lỗi tôi đã không có cơ hội thực hiện” (Prayer; 1860). Như vậy, phỏng thân xác con người có thể tự nó phạm tội không cần tâm trí? Hoặc nếu đã không có ý định, ước muốn, con người không thể phạm tội? Hơn nữa, dẫu mang tràn đầy ước muốn nhưng không có cơ hội hoặc phương tiện, ai có thể thực hiện được điều gọi là tội lỗi mặc dầu chính những gì bị ngăn cấm lại mang dầy tính chất hấp dẫn, khuyến khích con người thực hiện. Tuy nhiên, có những trường hợp con người rơi vào vị thế chẳng đặng đừng, cho dù thực hiện hay không thực hiện sự việc nào đó đều bị mang mặc cảm tội lỗi. Vì thương yêu nên cố gắng dùng mọi biện pháp khuyến khích, răn bảo và giúp con cái có cuộc sống sau này khá hơn thì bị con cái cho là khó tính, lỗi thời, nhiều khi đến độ chống nghịch lại cha mẹ; cũng vì thương con, không muốn con bị phiền lòng nên để con tự ý; sao các bậc cha mẹ tránh khỏi mặc cảm tội lỗi vì đã quá nuông chiều con caùi. Có thể chỉ những bậc cha mẹ mới thực sự cảm nhận được câu nói, “Nuông chiều con cái tức là giết hại chúng” một khi chuyện đã lỡ.
Gốc gác sự thể tạo nên nỗi áy náy lương tâm (được chủ thể nhận thức là tội lỗi) quả là rắc rối; tất nhiên quan niệm về tội lỗi chắc chắn không đơn giản gì. Vì thế ThyLoan tạm mệnh danh câu hỏi “Tội lỗi là gì” thành “Câu hỏi quái ác.” Nếu chỉ quan niệm đơn giản, tội lỗi là sự vi phạm lề luật tôn giáo hoặc pháp luật hoặc làm hại mình hay làm hại người khác, phải chăng đã quá ư ngây thơ? Không phải một lần, mà ít nhất vài lần ThyLoan cũng chỉ vì quên không ngậm tăm, vô tình nói hoặc diễu một đôi câu; nhưng mãi cho tới giờ phút viết những giòng chữ này, tâm trạng ăn năn bởi đã ngu xuẩn phát biểu điều chẳng nên nói vẫn đang hiển hiện trong lòng. Mà nào đâu phải ThyLoan mới vấp phạm; có những lần hơn mười năm, bẩy năm, năm năm về trước hoặc gần đây, và cũng đã bao nhiêu lần thực lòng ăn năn, chấp nhận lỗi lầm, quyết tâm không hứng bất tử hy vọng ngăn ngừa cái miệng xổ tào lao thiên tướng, thế mà tâm tình áy náy vẫn đeo đuổi, không sao dứt được. Quả thật tiếng nói lương tâm thực hiện đúng câu, “Càng cố quên lại chỉ càng nhớ thêm.” Nhiều khi tâm tình này khiến ThyLoan cảm thấy bực bội với chính mình, bực bội vì nhận ra mình đã quá ngu mặc dầu biết rằng người nghe không để ý gì về những lời mình nói. Thế có phiền hà không chứ? Có phải ThyLoan đa sự nên tự quấy nhiễu tâm tư? Những lời nói vô tình của ThyLoan không phạm lề luật, không phạm pháp, không chạm tự ái hoặc làm hại ai, cũng chẳng làm hại mình... vì cớ chi tâm tình áy náy đeo đẳng?
Đọc nơi Kinh Thánh, ThyLoan thấy có St. Paul cả gan dám nói lên thực trạng tâm hồn này, “Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi ghét” (Rom. 7:15). Thêm vào đó, nếu cho rằng không biết thì không có tội, quả có nhiều điều ThyLoan đã thực hiện hay vấp phạm bởi không biết hoặc cố tình không biết dẫu nhiều trường hợp biết rõ ràng nhưng đã tỏ ra hay trả lời không biết để tránh những phiền hà có thể xảy đến. Ai không nhận rõ, không có luật không thể vi phạm luật; điều này chứng tỏ không có luật tất nhiên không có tội, và đồng thời xác định tội lỗi gốc gác bởi lề luật mà ra. Quái! Thế lề luật phát xuất từ đâu nếu không có con người? Và nếu đã không có những sự tai hại xảy đến thì đâu cần phải đặt ra luật lệ ép buộc mọi người phải tuân theo. Đặt vấn đề như vậy, lề luật phải chăng phát sinh từ tội lỗi nếu cho rằng tội lỗi là sự vi phạm lề luật! Có phải ThyLoan đang bàn chuyện con gà mái có trước hoặc quả trứng có trước?
Suy đi cũng cần xét lại, ThyLoan không nhớ đã đọc nơi đâu câu nói, “Tội lỗi bởi sự thiếu hiểu biết mà ra.” Có điều, mới chợt đọc thì thấy có lý nhưng nghĩ kỹ hơn chút nữa, câu nói quá tổng quát đến độ gây phiền hà bởi danh không chính thì ngôn không thuận. Thiếu gì sự việc trên đời ThyLoan không biết mà có bao giờ cảm thấy áy náy đâu! Hoặc là không biết thì không cảm thấy tội lỗi? Lý do: nhiều luật lệ bên Mỹ không thể áp dụng nơi Việt Nam và ngược lại. Như thế câu nói nên đổi lại thành “Tội lỗi bởi thiếu nhận thức mà ra” mới hợp lý hợp tình trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, ngôn từ “Nhận thức” có vẻ đao to búa lớn. À thì ra phần nào đó tác giả câu nói áp dụng “Được ý quên lời” (Trang Tử). Ôi chao, đúng là vẽ rắn thêm chân. Cái câu hỏi nhỏ xí lại quá thường tình đến khi được để ý nó bươi ra nhiều thứ liên hệ không nhỏ, chẳng đơn giản chút nào.
Thử xét nơi phương diện nhận thức về thực thể ý niệm được gọi là tội lỗi. Rousseau cho rằng, “Tội lỗi lớn lao nhất của một người phát xuất từ chính họ” (Emile; 1762). Ông này nói cũng có lý nhưng thiếu gì chuyện trong cuộc đời không phát xuất từ mình mà vẫn bị liên hệ bởi “Im lặng là đồng lõa.” Henrik Ibsen nhấn mạnh nơi tâm ý, “Đã hiểu biết điều chẳng nên và cố ý thực hiện mới được gọi là tội lỗi” (Peer Gynt; 1867, 5). Có lẽ cũng đồng quan điểm vai trò của nhận thức đối với sự nhận định về tội lỗi. Phyllis McGinley có cái nhìn bao quát hơn, “Con người không lầm lỗi đâu, họ chỉ chưa trưởng thành hoặc còn quá nông cạn hay sợ hãi; nói cho đúng, tâm hồn họ bệnh hoạn” (In Defense of Sin; The Province of Heart; 1959). Như vậy, tội lỗi phần nào được nhận thức phát sinh từ tâm ý và có sự suy tính bởi một người tốt lành dẫu ngu đần vẫn là người tốt lành, nhưng một kẻ xấu xa chắc chắn phải là người chất chứa những ý định hay mưu đồ chẳng nên. Thử hỏi sự thể này có thể giải thích phần nào câu Phúc Âm, “Vì với đồng loại của mình, con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng?” (Lc. 16:8b).
Thực ra ai cũng đều biết, “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu.” Thực hiện những chuyện xấu xa tạm gọi là tội lỗi thì chính mình lãnh hậu quả chẳng nên trước. Nhưng nếu xét về những lầm lỗi do tâm trí nông cạn hoặc thiếu nhận thức và đa số chúng ta rơi vào tình trạng này, lầm lỗi lại là cơ hội hoặc bài học mắc mỏ cho con người thăng tiến về phương diện nhận thức hay tâm linh. “Ai nên khôn không khốn một lần?” Đứa bé nào chưa bao giờ đụng tay vào lửa có thể vâng theo lời cha mẹ để không nghịch với lửa. Bởi thế có thể nói, lỗi lầm là thầy dạy tuyệt vời nhất cho con người vươn lên chẳng những nơi cuộc sống mà còn thăng tiến trong phương diện ý thức, nhận thức, hoặc nơi hành trình tâm linh. Nhận định như thế, lầm lỗi lại là cơ may cho con người trưởng thành, và người nào không bao giờ lầm lỗi chắc chắn chỉ là những kẻ đã chết dẫu thân xác đang khoác kiếp người. Lý do, chúng ta không thể thay đổi được những gì đã qua, đã chết. Cuộc sống biến chuyển, thế nên con người biến chuyển chẳng những từng giây phút nơi thân xác mà nhận thức cũng cần phải được vun đắp. Kẻ không bao giờ thấy mình lầm lẫn, không bao giờ làm điều gì sai trái phải là người tự lừa dối, chẳng những thế lại thêm tính chất ma mãnh, che dấu để không ai có thể nhận thấy lỗi lầm của họ. Với loại người này, ThyLoan không biết dùng ngôn từ nào có thể phát biểu cho đúng.
Có lẽ ThyLoan đã lầm lỗi quá nhiều đến độ chai lỳ nên thích câu cầu nguyện học được từ một người bạn nhưng không hiểu tác giả của nó là ai, “Lạy Chúa, Ngài đã tạo dựng nên con từ bụi đất nên xin Ngài chớ ngạc nhiên khi thấy con vương bùn bẩn thỉu.” Mới thoạt nghe, câu cầu nguyện coi bộ ngang tàng, thách đố. Ngày đó ThyLoan mới lớn, coi trời bằng vung nên thích vẻ ngang tàng của câu cầu nguyện này. Lâu dần, suy nghiệm với lòng chân thành, ThyLoan mới cảm thấy thấm thía; mình có là gì đâu nơi vũ trụ quá ư huyền nhiệm và tuyệt vời này; tính chất cao ngạo của những con ngựa non háu đá, huênh hoang phải tự động tháo lui, cúi đầu xuôi theo thân phận mỏng dòn, nhỏ hẹp của con người. Vâng, dù quyền uy đến mấy, sang trọng thế nào, tấm thân này rồi cũng sẽ trở thành bụi đất chẳng sớm thì chầy, dựa trên luận chứng hay tài lực nào mà dám nghênh ngang. Chính bởi nhận chân thân phận mỏng dòn của kiếp người, ThyLoan phát hiện được tính chất đáng kinh sợ của những điều được gọi là tội lỗi bị kẻ mang diện mạo giả tạo thánh thiện sử dụng. Sự tội lỗi phát sinh từ ý đồ chẳng nên quả là độc hại được che đậy dưới mọi hình thức hào nhoáng công chính. Chắc chắn, bàn tay sắt bọc nhung luôn được người đời chiêm ngưỡng; nào biết đâu chính vì chiêm ngưỡng, con người vô tình trở thành phương tiện hoặc con thiêu thân sung sướng chấp nhận được đày ải một cách vô ý thức. Phỏng nơi giới hạn này, câu “tội lỗi do thiếu hiểu biết mà ra” biểu lộ rõ ý định tác giả muốn truyền thông?
Nhìn lại lòng mình chúng ta đều thấy rõ, những công sức chúng ta tiêu phí cho những điều không nên gấp mấy lần công sức thăng tiến tâm linh. ThyLoan dùng ngôn từ “tâm linh” để chỉ về tinh thần, phần điều hành thể xác con người chứ không phải não bộ vì não bộ cũng chỉ là công cụ cho thực thể tâm linh nơi mỗi người. Ben Jonson trong cuốn Random Thoughts viết, “Nhiều người sẽ vào nước thiên đàng với chỉ một nửa công sức họ đã thực hiện để tiến xuống hỏa ngục nếu họ biết hướng dẫn những cố gắng của họ nơi đường ngay nẻo chính” (Timber 1640). ThyLoan đang sống tại Mỹ và đã để ý nhận thấy điều hiển nhiên đó là người Hoa Kỳ có cuộc sống thoải mái về tâm tư gấp mấy lần các dân tộc khác (cầu xin nhận định này sai lầm). Ngược lại, những gì được gọi thoải mái, “good time,” đã làm giới bình dân Mỹ khốn khổ không ít. Họ sống thoải mái đến độ mới lãnh lương chiều thứ sáu, chỉ qua cuối tuần, sáng thứ hai đã xo xíu vì không có tiền trong túi để ăn trưa! Nếu đem so sánh tội lỗi hay lầm lỗi với “good time,” hình như tội lỗi hấp dẫn hơn nhiều; bởi thế chẳng lạ gì, biết rằng theo đuổi, có chút liên hệ với người nào đó sẽ mang lại phiền hà nhiều khi đến độ tan nát gia đình; coi chừng chúng ta (bao gồm cả ThyLoan) chẳng những không ngần ngại mà còn hồ hởi, dùng mọi mánh khoé, khả năng để chớp cơ hội. Tội lỗi (nếu gọi thế), mang năng lực hấp dẫn tuyệt vời.
Sự thể là thế, nhận thức là thế, vậy tội lỗi là gì? Tự đặt vấn đề với chính mình, mỗi người đều nhận thấy mình đang đối diện với hai khối lề luật. ThyLoan tạm dùng ngôn từ chung “Luật pháp” mang nghĩa rộng bao gồm tất cả những pháp luật của quốc gia, địa phương, tập tục, thói quen, trong liên hệ giữa người và người chứa đựng những hình phạt dưới những dạng thức khác nhau ảnh hưởng đến tai tiếng, tiền bạc, công sức một người trong cuộc sống. Khối lề luật thứ hai là luật tâm linh bao gồm tiếng nói lương tâm, luật tôn giáo mình theo. Phân chia như vậy, vấn đề tội lỗi được đặt ra chỉ giới hạn nơi luật lương tâm và tôn giáo. Dĩ nhiên trong giới hạn nhận định nhỏ bé, ThyLoan không dám và không đủ khả năng đem tất cả các luật lệ tôn giáo lên bàn mổ vì người theo tôn giáo này không bị lệ thuộc luật lệ của tôn giáo kia. Tuy nhiên, để cho có vẻ “Nói có sách, mách có chứng,” ThyLoan tạm mượn một số điều lệ tôn giáo hay lời dạy của các bậc giáo chủ để dẫn chứng. Dầu ThyLoan theo đạo Công Giáo nhưng không hề dám nghĩ tới chứ đừng nói đến việc sử dụng bất cứ phương tiện hay cách thức nào bất nhã đối với bất cứ tÔn giáo nào. Nếu vì vô minh, những ngôn từ được sử dụng không chỉnh hoặc không thuận với nhận thức độc giả; ThyLoan chân thành xin được lượng thứ bởi dẫu sao “ngữ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý.” Viết về tội lỗi, ThyLoan chỉ đưa lên nhận định, không phê bình do biết rõ trái ớt hiểm mình lỡ cắn phải cay xé môi vội nhả ra, nhưng không có ớt hiểm, một số người lại cho rằng món ăn giảm đi nhiều phần thú vị.
Ở tiết mục “Tội Lỗi là gì” nơi Diễn Đàn Nghị Luận Tôn Giáo, đại đa số những lời bàn luận dựa trên Mười Điều Răn (ngày xưa thường được gọi Giới Răn) của Kitô Giáo và một số Giới Luật của Phật Giáo, nên ThyLoan mượn tạm những ý niệm chung này cho dễ phần nhận định. Ai đã từng tìm hiểu về Phật học chắc chắn biết nằm lòng câu nói xác định về tội của ông tổ triển dương Phật học nơi đất Trung Hoa, ngài Đạt Ma sư tổ, “Chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh ở nơi mình. Tội lỗi này rất nặng, vì nó giữ ta trong cõi vô thường. Thân xác là phù du, cuộc đời trôi nhanh, trong thời gian ngắn ngủi này, ta phải tự giải thoát bằng cách khám phá lại bóng hình (Bổn lai diện mục) của mình” (Biện Chứng Giải Thoát Trong Giáo Lý Trung Hoa; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu, CA; USA; 1991; Tr.203). Ngài còn dạy thêm, “Một kẻ phàm tục có gia đình và làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa, dù làm bất cứ một hành động nào bởi kẻ ấy đã giác ngộ” (BCGTTGLTH; Tr.206) cho dù nhà Phật có luật cấm sát sinh. Ngũ tổ Hoàng Nhẫn cũng thức tỉnh các môn đệ, “Ta nói cho chúng đệ tử rõ: Sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền, chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác. Nếu tánh mình mê muội thì phước nào cứu được” (Kinh Pháp Bảo Đàn; Tr.23).
Kinh Bhagavad Gita có viết, “Khi đã xem vui thú và khổ đau, còn và mất, vinh quang và thất bại như nhau, hãy sửa soạn giao tranh. Như vậy nhà ngươi sẽ không phạm vào trọng tội” (Chí Tôn Ca; Nguyễn Bình dịch; Quảng Hóa Xuất Bản; Sàigòn, VN; 1971; Tr.18). Hành động chém giết nơi cuộc chiến giữa hai giòng vua chúa vốn là họ hàng thân thích nhưng những hành động này không được coi như phạm tội bởi, “Hỡi Arjuna, người đừng nghĩ gì hết. Nếu có nghĩ, thì nghĩ đến hành động của mình mà thôi, và đừng bao giờ nghĩ tới những hậu quả tốt hay xấu có thể đem lại cho ngươi. Ngươi cứ thản nhiên làm tròn nhiệm vụ chiến sĩ của ngươi, vì thực ra, có ai là kẻ sát nhân đâu, và cũng có ai là kẻ bị hạ sát. Đối với kẻ nào đã thực hiện được thái độ chủ quan ấy, nghĩa là không trông đợi gì hết, thì đối với kẻ đó, không còn có thiện ác nữa” (Biện Chứng Giải Thoát Trong Tư Tưởng Ấn Độ; N.X. Hồng; Xuân Thu; CA; USA; ?; Tr. 190).
Nơi Kinh Thánh, chúng ta đọc được, “Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một người nào trong các kẻ nhỏ đã tin này thì thà kẻ ấy bị khoanh cối lừa kéo tròng vào cổ và quăng xuống biển còn hơn. Và nếu tay ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt nó đi, thà ngươi cụt tay mà vào sự sống còn hơn là có hai tay mà sa vào hỏa ngục, vào lửa không hề tắt. Nếu chân ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt nó đi, thà ngươi què chân mà vào sự sống còn hơn là có hai chân mà bị quăng vào hỏa ngục. Nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục nơi mà giòi bọ không chết và lửa không tắt” (Mc. 9:42-48).
Quả là lạ lùng! Những lời dạy của các bậc tổ sư nhà Phật, lời dạy nơi Kinh Bhagavad Gita; nơi Kinh Thánh Kitô Giáo quá ư khác biệt nếu không muốn nói hoàn toàn trật duột với tất cả những lý thuyết, quan niệm về lề luật tôn giáo. Tội lỗi được phát sinh từ tâm hồn con người chứ không phải kết quả của việc vi phạm lề luật mà bình thường con người ít khi để ý, cái tội vô minh, tội cầu phước điền thay vì nghiệm chứng để giác ngộ, tội nên cớ cho người khác vấp phạm, tội rao giảng, truyền bá lung tung khiến con người bị mê hoặc luẩn quẩn trong vòng luân hồi vô thường. Viết đến đây ThyLoan cảm thấy e sợ mình bị rơi vào thứ tội lớn lao cả thể này mà không biết do dám cả gan huênh hoang ghi lại nhận định u mê luẩn quẩn của mình lỡ ra có người vấp phạm. Cái tội quỷ quái này cầu Chúa chắc Chúa không tha; cầu Phật, Phật không cứu độ; cầu thần thánh, thần thánh quay đi. Ah! Thế ra bao nhiêu công lao giữ đạo của ThyLoan hình như bị đổ xuống sông xuống biển, chẳng biết có được ơn ích chi không! Hừ, nói đến ơn ích lại phạm phải nố “cầu phước điền,” đúng là luẩn quẩn!
Rõ khổ! Kinh sách dạy thế nhưng lòng ước muốn (dục) làm sao có thể tách rời khỏi con người. Những đệ tử sống với thày, được thày dạy dỗ chỉ dẫn mà còn bị quở trách “Cầu phước điền” thì những hàng “hữu, tử” như ThyLoan sao vượt lên khỏi vũng lầy cầu xin, nguyện ước. Kinh Thánh cũng nêu lên trường hợp tương tự, “Giacôbê và Gioan, thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả trong vinh quang của Thầy. Đức Giêsu nói với họ, 'Các ngươi không biết các ngươi xin gì. Ta không có quyền ban, nhưng là dành cho ai điều ấy đã được dọn cho'“ (Mc. 10:37-40). Oái chao! Cầu xin những điều thường tình, dễ dàng như thế mà không được thì nói chi đến chuyện cứu độ, tha tội. Uổng, có lẽ, bao công lao giờ giấc cầu nguyện tưởng rằng được ơn ích cứu thoát chẳng ngờ đã bị các Ngài chối phăng từ thuở ban sơ chưa hề có tổ chức được gọi là đạo, hay tôn giáo. Bạn thử nghĩ coi! Quả là canh bạc cháy túi không đường gỡ gạc mà lầm lỡ hoàn toàn do mình gây nên. Đức Phật, Đức Chúa, sư tổ, phán bảo rành rành nơi kinh sách mà ThyLoan cứ u mê theo đạo, thế có khốn khổ chưa cơ chứ! Bao nhiêu năm tháng ngày giờ trôi theo nước sông nước biển, ván bài tưởng rằng “bỏ con săn sắt bắt con cá rô” với lòng tin chân thành lớn lao (nhỏ hơn hạt cải chút xíu à!) chắc chắn sẽ được cứu rỗi nay bỗng hiện nguyên hình “mậu binh.” Chẳng lạ gì Phêrô dám cả gan chối thầy những ba lần. Bứt rồi, thầy thua cơ thì trò phải dọt cho lẹ e lỡ cháy thành vạ lây; còn được mụ vợ coi chừng dượng nó bợ mất thì quả bay cả chì lẫn chài. ThyLoan thầm cảm phục thánh Phêrô nhanh trí hèn chi được đặt làm đầu hội thánh ah ha!
Vậy những lề luật tôn giáo từ đâu ra? Tội lỗi do vấp phạm những lề luật ấy Chúa nào xét xử, Phật nào cứu độ? ThyLoan nghĩ, những ai thắt buộc người đó có bổn phận phải giải mở. Nỗi áy náy nơi tâm tư ThyLoan đã bao ngày tháng nào có ai giải thoát cho đâu vì nó vẫn còn đó, vẫn đôi khi đay nghiến cõi lòng dẫu đã bao lần ăn năn thống hối. Tới đây, câu Kinh Thánh, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13) gợi về tâm trí. Vậy có phải thay vì giảng giải phương pháp, hành trình tâm linh hoặc chia sẻ kinh nghiệm nghiệm chứng hầu giúp tín hữu, tín đồ tự kiểm chứng nghiệm chứng thì người ta đã không làm thế? Tại sao? Tại những bậc giaûng daïy quá bận rộn phát triển tổ chức tôn giáo nên không có giờ nghiệm chứng, do đó không có gì để chia sẻ. Dĩ nhiên, giải thích về nước đâu thể làm cho kẻ khát khô bỏng cổ hết khát. Dạy rằng yêu thương đồng loại thì ai dạy không được nhưng tín đồ đang khao khát nước trời, khao khát niết bàn thì làm sao giải thích nếu không nghiệm chứng. Đức Thích Ca phải xác định rõ ràng, “Lời ta nói như chiếc bè,” mà người ta chỉ ca tụng câu nói, ca tụng chiếc bè vô tưởng hèn chi Ngài đã phải nói thêm, “Trong suốt 49 năm, ta chưa từng nói.” Điều ngài muốn dạy chính là “Cái Gì” đã nói qua ngài hoặc cái gì dùng miệng ngài mà nói trong khi lại đặt ngài lên bệ thờ mà sì sụp lạy bái, cầu, niệm. Quái!
Đức Giêsu cũng bị rơi vào trường hợp như thế! Lời ngài dạy, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21), hoặc “Hãy ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến” (Mt. 4:17; Mc. 1:15) thì người ta rao giảng rằng Nước Trời là nước công chính, yêu thương, và an bình. Đức Giêsu dạy bảo về điều quan trọng nhất nơi cuộc đời một người, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33; Lc. 12:31) thì người ta hô ầm lên mến Chúa và yêu người. Hãy sống tử tế thì cần gì phải nói đến yêu thương. Chẳng lẽ con người chúng ta đốn mạt tới độ không biết yêu thương là gì; thế sao người ta vẫn đẻ. Xin cảm ơn ai đó đã nêu lên câu hỏi tội lỗi là gì vì nhờ nó, cộng thêm sự ngứa tay e bàn chữ dỉ sét tốn tiền mua mới, ThyLoan thấy được lắm điều ngộ nghĩnh về tội lỗi. Quả thật lạ kỳ; không hiểu Đức Phật, Đức Chúa nghĩ gì và các ngài sẽ phải giải quyết thế nào; nếu không thì người đầu tiên thuê luật sư đi kiện sẽ là ThyLoan. Kiện vì các ngài đã đào tạo nên những môn đồ ngu dân để trị. Ah! Không cần thiết, ThyLoan biết chắc các ngài nhìn thấy cảnh nhố nhăng, dùng Phật, dùng Chúa, lạm dụng lòng tin tưởng của con dân các ngài mà rao giảng, cổ võ những tổ chức thế tục cho lớn mạnh, cho vinh vang.; các ngài vừa buồn, vừa tức, vừa cười đến vỡ bụng chết hết rồi, còn đâu mà kiện. May, chưa tốn tiền thuê luật sư! Hèn chi Lâm Tế Lục đã phải la lên, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ.” Giết làm sao được vì còn đâu mà gặp, mà giết!
Lỡ trớn rồi, đã phóng lao thì phải theo lao, ThyLoan đang cảm thấy mình bị rơi vào ngõ bí, mã ngộ triệt cùng đường nơi cung hợi thêm vòng tràng sinh xổ “tuyệt” kẹt cứng giữa muôn vàn hỏa lực huyễn, giới, luật, điều, khổ, nào là vọng tưởng, nào tham, sân, si, ái, ố, dục, thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục, niết bàn, sinh, bệnh, lão, tử, Đức Mẹ, Đức Chúa hiện ra với người này, Phật bà hiển linh với người khác, ban pháp nọ, răn điều kia, v.v... có lẽ cả một đời người cũng không thể kể hết chứ đừng nói là nhớ phương chi tính chuyện thực hành, tập luyện. Những sự lạ đó diễn tiến vô cùng, chẳng khác gì dân Trung Hoa xếp hàng đôi nối tiếp nhau đi xuống biển. Tại sao? Có phải “Hậu sinh khả úy,” “Con cháu khôn hơn ông bành tổ,” hay “Thời mạt pháp,” hoặc “Pháp mạt?” ThyLoan thầm nghĩ, giả sử những sự hiển linh nào đó tùy thuộc ý muốn của Đức Phật, Đức Chúa thì quả là đáng giận. Những người tốt lành đâu cần gì lời răn bảo khuyên dạy mà chỉ những người tư tưởng giống con ngựa chứng hoang đàng, cố kiếm phương pháp giải thoát như ThyLoan mới cần đường ngay nẻo chính thì Đức Bà, Đức Chúa không thương bố thí cho dẫu chỉ một lần diện kiến. Các ngài thiên vị? Tất nhiên pháp thì không mạt nhưng có thể con người đã làm pháp mạt nên tạm gọi mạt pháp. Vậy đâu là Pháp nhà Phật, đâu là lời của Chúa? Đức Phật dạy gì? Đức Chúa phán điều chi? Đức Phật, Đức Chúa có dạy về tội lỗi không? Tại sao ThyLoan lại xớn xác múa may quay cuồng với cái câu hỏi quái ác “Tội lỗi là gì” này? Ừ thì chấp nhận ThyLoan ngứa miệng, ngứa tay muốn nổ may ra có ai đó phỉnh phờ ban cho đôi câu chứng nhận có thứ nào đó cũng là thứ gì đang hiện diện nơi cõi vô thường này, ha ha ha!
Nói có sách, mách có chứng. Nơi cuốn Vài Luận Đề Về Giáo Lý Phật Giáo (Nguyễn Châu dịch; Xuân Thu; CA; USA; 1997) ghi lại những lời diễn giảng của đức Dalai Lama tại đại học Harvard ở trang 24 có chép về “Bốn quan điểm cơ bản,” 1- Tất cả các hành là vô thường. 2- Tất cả nhiễm ô là khổ. 3- Tất cả hiện tượng là trống rỗng và vô ngã. 4- Niết bàn là an lành. Cuốn Triết Lý Phật Thích Ca nơi chương “Chân Lý Giải Thoát” lại viết, “Vậy đạo Phật chủ trương dẹp bỏ tất cả các lý luận vọng tưởng, cấm trí óc phiêu lưu vào trong những thế giới suy tưởng siêu hình mà đạo Phật quyết chắc rằng chỉ là những vọng tưởng hư ngụy và vô ích. Đạo Phật kéo con người trở về với thực nghiệm. Thực nghiệm này là một thực nghiệm bao la, rộng rãi. Đó là sự nhận thức cái “khổ” ở đời” (Thuần Tâm; Tri Thức; ?; ?; Tr.15). Nếu tất cả hành là vô thường, tất cả hiện tượng là trống rỗng (huyễn) thì chủ trương dẹp bỏ cái gì? Lấy cái gì để thực nghiệm trong khi cấm trí óc phiêu lưu trong những thế giới suy tưởng siêu hình, mà lại còn nhận thức cái khổ ở đời. Ô hay! Cái đầu ThyLoan nó đang quay, nó quay, không hiểu là huyễn hay là khổ nhưng biết là đang bị quay vì thực nghiệm cái trống rỗng.
Nó quay về phía Đức Chúa để xin được cứu độ khỏi sự đang bị quay. Là một tín đồ ngoan đạo, ThyLoan đi nhà thờ nghe giảng giải, đọc Kinh Thánh, kinh sách, coi trên truyền hình, và nhiều khi cố học hỏi tìm con đường cứu độ, và được nghe giảng giải rằng Đức Chúa Giêsu Christ xuống trần gian chịu chết vì và chết cho tội lỗi loài người. Chúa đến để cứu độ con người. Và cũng được nhập tâm rằng Tin Mừng Nước Trời là Đức Chúa đến để chết cho tội lỗi của mình, của mọi người. Tuyệt! Tha hồ phạm tội, ThyLoan cảm thấy đúng là tin mừng vì đã có sự chết của Đức Chúa bao giàn. ThyLoan tin chắc như thế vì quá khỏe, đã có Đức Chúa chết cho những lỗi lầm của mình; cái chết của ngài từ hai ngàn năm trước là bảo hiểm hưởng phúc nước trời; ơn cứu độ là ơn nhưng không thì có gì phải lo. “Chăm phần chăm” ThyLoan sẽ được lên thiên đàng thẳng băng sau khi hồn lìa khỏi xác, tha hồ ăn chơi, cuộc sống gian trần này là cơ hội để ThyLoan thưởng thức tất cả những gì theo ý thích. Ôi Thiên Chúa lòng lành, quá cưng ThyLoan nên đã xuống thế chuộc tội cho con bé ngoa nguề này ngay từ khi nó chưa có trứng, không cần biết nó sẽ sử dụng cuộc đời của nó sau này ra sao, hoang đàng hay tốt lành, thánh thiện. Chúa mà ThyLoan đã được dạy dỗ quá nhân từ, yêu thương vô bờ bến. Bravo Chúa!
Uûa! Vậy cái hỏa ngục để làm gì? Chẳng lẽ Chúa thiên vị chết vì tội lỗi của ThyLoan mà không chết cho tội lỗi những người khác nên phải sắm sửa cái hỏa ngục để quăng họ xuống đó sau này. Hừ, lên thiên đàng một mình còn chán hơn xuống hỏa ngục ở với mọi người, vì một mình đâu cần nói đến yêu thương! Chết cha mày rồi con bé ngu ngốc ThyLoan ơi! Chúa thương yêu mày nên bắt mày phải làm linh hồn cô độc nơi một thiên đàng tuyệt hảo trống rỗng; mày sẽ nói chuyện với ai đây, có ai cho mày liếc, mày đá lông nheo không? Yêu thương ai nơi trời hạnh phúc đơn phương đó; mà cõi trời cô độc ấy sao có thể được gọi là hạnh phúc đời đời! Hèn chi lắm cặp nhân tình cùng nhau tự tử; có lẽ vì họ sợ hãi bị sống cô độc nơi cõi thiên đàng hoang vắng ThyLoan sắp sửa được ban thưởng do lòng yêu thương vô bờ bến của Đức Chúa! Tội quá, cái đầu ThyLoan đã đang quay cuồng vì thực nghiệm cái khổ huyễn, cái khổ trống rỗng, lại càng bị quay thêm vì cái thiên đàng yêu thương hạnh phúc, nhưng cô độc. Ôi! Nếu thực sự được ban cho, thưởng cho, cái hồng ân đầy mơ ước này thì chắc hẳn cũng không ai nơi thế giới loài người muốn lãnh nhận!
Vậy Đức Chúa đến để làm gì? Thêm một câu hỏi quái ác thò đuôi thách đố cái đầu ThyLoan đang quay mòng mòng. Cho con bé ương bướng, ngông nghênh ngang tàng, không chịu tin theo những lời rao giảng của các bậc làm thầy nơi nhà thờ cũng như trên truyền hình đã bị rối mù lại càng rối hơn! Thật đáng đời cho quân lỳ lợm; cha giảng không chịu nghe, mục sư thuyết chẳng thèm để ý! Đâu phải ThyLoan ương bướng chi, nhưng chỉ sợ bị cô độc thôi. Thêm vào đó, Đức Chúa đã chết cho tội lỗi của ThyLoan thế sao không đi nhà thờ lại có tội? Thế sao phải ăn năn thống hối? Bộ cái chết của Đức Chúa không trừ khử được những lỗi lầm ThyLoan vấp phạm sao? Bộ ơn cứu độ đã là “nhưng không” sao còn được gắn vào thêm lắm thứ râu ria, lề luật, lắm sự ăn chay đánh tội bỗng dưng từ trời rơi xuống sau khi Đức Chúa chết nhiều thế? Nói rằng Đức Chúa cứu chuộc vậy ngài cứu chuộc con người khỏi cái gì? Nói rằng cứu chuộc tội con người thì ngài đã chết từ hai ngàn năm trước, xóa hết mọi tội lỗi của con người rồi còn đâu mà ăn năn, và vì chuyện gì mà phải bày ra sự hãm mình?
Đến khổ, đã rối lại càng rối thêm! Mấy vị tổ nhà Phật đưa ra những công án “chứng cái Vô, chứng cái Không,” giờ lại thêm thực nghiệm cái khổ. Chẳng lẽ có ai đó cần thực nghiệm cái khổ nơi cuộc đời? Bộ đời chưa đủ khổ sao mà phải cố bày thêm hãm mình, ăn chay, đánh tội. Nhiều lần đọc đi đọc lại Phúc Âm nào thấy nơi đâu ghi Đức Giêsu đi nhà thờ mỗi ngày chủ nhật, nhưng lỡ rồi, lỡ thấy ơn cứu độ không bao quát cái hỏa ngục khốn khổ, ThyLoan phải kiếm cho ra lý do ngài nhập thể làm người. Hết sẩy! Rõ ràng như nước với lửa không thể hòa hợp, Phúc Âm thánh Luca ghi, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.' Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Giuđê” (4:43). Ah ha! Thì ra Đức Giêsu được sai đến để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài cũng đâu muốn bị chết trên cây thập tự bởi đã cầu nguyện, “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi con, song không phải như ý con mà là như ý Cha!” (Mt. 26:39). Quả thật lạ lùng! Lời Phúc Âm ghi lại đã gần hai ngàn năm rành rành ra đấy mà ThyLoan có mắt như mù; đọc không thèm để ý lại cứ đi nghe dấm, nghe mẻ, để cho người khác lừa dụ. Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu, mục đích ngài đến thế gian là rao giảng tin mừng Nước Trời, và ngài chịu chết trên thập giá theo ý của Thiên Chúa Cha. Hà hà, ngài bị rơi vào hoàn cảnh “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Thánh thần thiên địa ơi! Không hiểu các vị rao giảng về Đức Giêsu nghĩ gì! Không hiểu Đức Chúa cảm ứng ra sao khi thấy đệ tử của mình ba hoa tào lao thiên tướng dùng mình làm cái bung xung cứu độ kèm ngay bên một cái hỏa ngục kinh khiếp?
Nhờ câu hỏi cắc cớ “Tội lỗi là gì?” ThyLoan kiếm được lắm điều thú vị, nhưng sao lạ quá, nó không giống bất cứ những lời giảng dạy nào của ông cha nhà thờ hoặc của mấy mục sư giảng thuyết trên truyền hình, cũng không giống dù chỉ được lấy một câu nơi các kinh sách nhà đạo ngoại trừ Phúc Âm! Không hiểu câu nhân gian thường hay nói, “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa” mang nghĩa gì. Gạo thì liên quan chi tới Phật pháp, Phật tâm. Thôi thôi, đúng rồi, gạo chẳng mang ý nghĩa gì ăn nhập với giáo lý của Phật tổ, sư tổ, thì kinh nhà đạo cũng chẳng liên hệ gì đến những lời rao giảng của Đức Chúa, Phúc Âm. Cầu xin cho sự suy luận này của ThyLoan hoàn toàn sai lầm, nhưng biết đâu nó ngớ ngẩn chẳng khác gì lý thuyết trái đất quay của Galiléo! Nghĩ thì nghĩ thế nhưng ThyLoan không dại như Galiléo đâu. Bị hố nhiều rồi nên từ nay ThyLoan phải khôn hơn một chút, ngậm miệng thủ bình. Lỡ nói ra, thiên hạ đội cho chiếc nón rối đạo hay vô đạo thì chỉ còn nước khoác áo vàng, áo nâu. Mà nhà Phật chắc gì đã thèm đoái hoài tới con mụ thích moi móc đôi khi phát biểu ngang như cua này! Thì cua nào bò không ngang, nhưng chúng ngang không ai chửi, chỉ bị xé ra quẳng vào nồi canh thôi! Vào nồi canh chui xuống bụng của những người đợi Chúa cứu thì còn tệ hơn xuống hỏa ngục, ThyLoan chả dại, đành chấp nhận im lặng là vàng, nói ra chỉ được cái lợi giải tỏa nỗi lòng ấm ức nhưng coi chừng răng lại chẳng còn, thì chỉ có nước húp cháo thực nghiệm nỗi khổ ải cuộc đời. Hừ, thực nghiệm cái “khổ!” ThyLoan có thừa!
Phật dạy, “Kiến tính thành Phật” (Lục tổ Huệ Năng), “Chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh ở nơi mình” (Đạt Ma sư tổ); Đức Chúa đến rao giảng “Tin Mừng Nước Trời,” thế những điều lệ tôn giáo ở đâu ra? Những điều lệ có trước hoặc được đặt ra bởi Đức Phật, Đức Chúa? Không thấy ai nói đức Thích Ca để lại bản thảo này, bài viết kia, mà chỉ thaáy ghi ngài giảng như thế này, nói như thế nọ, lại còn thêm, “Trong suốt 49 năm, ta chưa từng nói.” Phúc Âm không nơi nào viết Đức Chúa đi trường lớp mà chỉ có lần vẽ trên cát khi người ta tố khổ người phụ nữ ngoại tình (Gn. 8: 3-11). Ai đã bỏ công tìm hiểu về các đạo học đều nhận thấy không vị chân nhân hay thức ngộ nào để ý hoặc tha thiết thành lập những tổ chức; mà thường thì những lời dạy của các ngài được nghiệm chứng rộng rãi trước khi được ghi chép thành kinh điển. Lẽ thường, những tổ chức tôn giáo được thành lập bắt nguồn từ lòng khao khát tâm linh như một thiên tính cố hữu nôi mọi người. Chính lòng khát khao này dẫn dắt hoặc thôi thúc con người kiếm tìm thực thể được lục tổ Huệ Năng gọi là “Bản lai diện mục.” Và thế rồi tương tự như thuở ban đầu của thời sơ khai con người họp lại với nhau thành những nhóm, bộ lạc, xã hội, những tâm hồn khao khát tâm linh liên kết với nhau qua mối dây tâm linh ràng buộc. Khi sự liên kết này trở thành rộng lớn, những điều lệ, nội quy, phương cách, sách vở được phổ biến với mục đích thỏa mãn lòng khát vọng của con người một cách rộng rãi hơn, và đồng thời những nhân viên triển dương, quảng bá, đạo học cần phải được huấn luyện, và thế rồi tổ chức hình thành. Tất nhiên, khi có tổ chức lại cần có những quy luật, hệ thống giảng dạy. Tuy nhiên, tham vọng phát triển trước hết là đạo học, sau đó tổ chức, trở thành quá phức tạp. Tính chất “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” dần dần bị hạ cấp có lẽ với ước muốn giúp những người có căn cơ sơ sài thăng tiến. Hơn nữa, sự nhận thức tùy thuộc căn cơ từng người; mà lòng nhiệt thành của những vị rao giảng lại quá cao, thế nên những điều lệ, giới răn được thiết lập trở thành những nấc thang tâm linh. Cũng như ngày nay, bất cứ lý thuyết nào đều bị đo lường bằng khuôn thước “khoa học,” đã một thời và ngay cả ngày nay kiến thức vẫn còn đang được coi như sự đạt thành tâm linh đến nỗi quên mất nhận thức căn bản đó là kiến thức, sự hiểu biết ích lợi cũng như sự giải thích về thực phẩm không thể khiến cái dạ dày đang kêu réo kiến tạo chất bổ dưỡng nuôi cơ thể. Thực ra, kiến thức là tôi trung và hữu dụng cho hành trình nghiệm chứng đồng thời nó cũng là bức màn ngăn cản thực nghiệm nghiệm chứng phát sinh từ sự ỷ lại của con người tạo thành thời mạt pháp. Nhận xét đại khái như thế, ThyLoan có thể cho rằng tất cả những lề luật tôn giáo đều là kết quả của tham vọng phát triển tôn giáo, điều mà Lão học đã lên tiếng ngăn ngừa từ hơn hai ngàn năm qua. Như vậy có thể nói, tham vọng phát triển tôn giáo mới thực sự được gọi là tội vì phần nào đó đã làm đình trệ hành trình phát triển tâm linh của những người rộng mở tâm hồn nhưng chẳng may bị sinh vào xã hội dân chủ với quan niệm “đa số thắng tiểu số.”
Nhà Phật nói lên thực thể tham, sân, si, nơi con người và đề nghị những phương cách điều trị quả là minh triết. Với lòng chân thành ThyLoan thích lối diễn tả trung thực, đối diện với thực chất con người không cần che dấu hoặc tránh né, đồng thời sử dụng ngôn từ vượt hẳn thái độ kiêng nể e đụng chạm của các vị tổ hoặc caùc vò giác ngộ nhà Phật. Có lẽ vì cảm thấy thích thú lối diễn tả không lệ thuộc bất cứ giới hạn nào hòa hợp với phong cách cởi mở, nhìn cuộc đời một cách bao quát, vị tha, pha thêm tính chất trào phúng nhưng chất chứa đầy vẻ u mặc không thua gì bên Lão, Trang; hình như ThyLoan bị tiêm nhiễm khuynh hướng bạt mạng có thể tạo nên cảm nhận không mấy tốt đẹp ít nhất nơi một số tín đồ Phật giáo khi vô tình đọc bài viết. ThyLoan tâm thành mong quý vị niệm tình bỏ qua. Thực ra, chính ThyLoan cũng cảm thấy vẻ ngông nghênh trong lối diễn tả của mình nhưng không biết cách nào thoát ra. Hình như ThyLoan, dầu theo Công Giáo, nhưng gậm nhấm tư tưởng nhà Phật khá nhiều, lại thích đùa giỡn với nghiệm chứng của các vị tổ nhà Phật nên cảm thấy thường tình đến độ thiếu e dè nơi phong cách diễn tả tâm tình. Này nhá, nhà Phật nói “chứng cái Không.”
Công án phải gió này khiến cái đầu ThyLoan quay không biết bao nhiêu ngàn vòng. Chẳng nhớ ai bày ra nó nhưng khi nghiệm ra, mới thấy cha, mẹ đẻ của nó quá ư thâm trầm, sâu sắc, lại chứng tỏ đã dầy công nghiệm chứng, quả là thú vị. Tổ Lâm Tế phán, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp; không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Phán như thế thì đến Chúa cũng quay mòng mòng phương chi hành giả. Ấy thế mà nó đã kích động tâm trí ThyLoan nhảy thấu chín tầng mây vì lối nói bạt mạng này, tuyệt. Còn ông thần nào nữa, giơ cây gậy đánh chó lên hỏi môn đồ. “Nói đi, nói đi, nói cái này là cái gì. Bảo nó là cây gậy ông đánh cho năm hèo; bảo nó không phải là cây gậy, ông cũng đánh cho năm hèo.” Ôi chao, còn cách nào ngông nghênh hơn và thúc đẩy tâm trí con người phải suy nghiệm mạnh mẽ hơn không. Thế nên, thiện tâm, tín hữu nhà Phật, đừng dại gì mà chấp với ThyLoan nếu cảm thấy bị khó chịu. Đây chỉ là kết quả do mấy ông tổ nhà Phật đã lừa dụ ThyLoan đó thôi. Nếu quý vị lên án, ThyLoan chỉ còn cách học đòi theo Thích Ca, cũng ngông nghênh tuyên bố, “ThyLoan có viết gì bao giờ đâu!” Chúng ta huề chưa?
Xét về phía nhà đạo, con cái Đức Chúa được dạy dỗ quá ư hà khắc đến độ biến họ thành những chiếc máy thâu băng kinh viện khó hòng tẩy não. Cũng tốt thôi, nếu không vậy, sao có những cuộc di cư, vượt biên kinh khủng từ xưa đến nay chưa từng ai dám nghĩ đến. Tuy nhiên, cảm nhận được sự hà khắc này ThyLoan rất đau lòng nên đã có một thời gian cảm thấy mình như con nhím, luôn luôn xù lông châm chọc nhà đạo và bị tố quá cỡ thợ mộc. Bắt chước lối ăn nói có vẻ bạt mạng của mấy tổ nhà Phật (nhưng thiếu tính chất thâm trầm thành ra ngu xuẩn), ThyLoan cay cú đấu, thêm tính chất mang đầy vẻ kết án, đến nay vẫn còn cảm thấy tự thẹn cho cung cách ngựa non háu đá. Chân thành nhận định trực diện lòng mình, ThyLoan biết được sự thể cay cú ấy chính do tâm thành bị thôi thúc bởi nỗi đau từ tâm tình cảm nhận được sự độc ác quá lớn lao như con đẻ của thiếu nghiệm chứng Phúc Âm nơi nhà đạo để rồi chỉ hiểu hoặc giải thích theo kiến thức, còn tệ hơn nữa, theo nghĩa đen của các bậc rao giảng. Xin minh chứng, nơi sách Tông Đồ Công Vụ có nhắc lại lời tiên tri Joel, “Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Thiên Chúa phán: 'Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên mọi xác phàm. Và con trai, con gái các ngươi sẽ tuyên sấm, thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các ngươi sẽ chiêm điềm mộng. Và cả trên các tôi trai, tớ gái của Ta, trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta xuống, và chúng sẽ nói tiên tri” (2:17-18). Nếu đem ráp nối câu này với kinh nghiệm hành trình nghiệm chứng nhà Phật hoặc bên Ấn học, Mật Tông Tây Tạng, Điểm Đạo Ai Cập, Thiền, Lão, Trang (ThyLoan chỉ nói trong giới hạn nghiệm chứng chứ không phải kiến thức), nó mở con đường quá rộng rãi cho con người nhận biết quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật mà nhà Phật gọi là Phật tính hay tâm Phật; Lão gọi là Tào; Ấn gọi là Atman; Điểm Đạo gọi là Nguồn Sáng. Thế mà Kitô giáo thuở xưa phán quyết, “Chúng ta phải tin với Giáo Hội” thành thử phát sinh năm bè bảy mối. Chính những vị đầy nhiệt huyết muốn canh tân, thúc đẩy Kitô giáo tiến xa hơn nơi tâm thức hay hành trình nghiệm chứng đã bị kết án nặng nề. Sau đó những người nhận thức theo các ngài thành lập Tin Lành, Protestan (được dịch Thệ Phản nên ThyLoan dùng tiếng Anh vì tiếng Việt có vẻ đố kỵ), Methodist, Later Day Saints, Anh Giáo. Dĩ nhiên có những nguyên nhân phụ thuộc đồng thời óc bè phái, quá khích và muôn sự khác nhào lộn vô khiến sự thể trở thành những nồi cám heo tâm linh khác biệt. Cái tội lỗi này còn gì cay độc hơn?
Thử xét câu, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, mọi sự sẽ tha được cho con cái loài người, mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; còn ai lộng ngôn đến Thánh Thần thì không được tha thứ cho đến đời đời; nó mắc một tội bất diệt” (Mc. 3:28-29). Tin Mừng Nước Trời chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” hoặc Nước Thiên Chúa ở trong các ông, ở giữa các ông. Vậy Thần Khí hay Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa. Cái tội vô minh, tội không suy nghĩ, không nghiệm chứng, không nhận biết Quyền Lực Tối Thượng được gọi là Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình muôn đời trói buộc tâm trí con người không thể thức ngộ, được gọi là “không được tha thứ cho đến đời đời.” Ù lỳ, ỷ lại, không chịu nhận thức thì muôn đời vẫn luẩn quẩn, chỉ chạy theo thế tục; nhà Phật gọi là trầm luân. Xét thêm câu khác, “Họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy, họ nghe lấy nghe để mà không hiểu, kẻo họ trở lại mà được thứ tha” (Mc. 4:12). Có giống mấy câu nói ba trợn của mấy ông thần nơi Phật, Lão, Ấn, không quý vị! Thế mà có vị nào thuộc về Kitô giáo nghiệm chứng đâu. Không biết gì về đạo học Đông Phương, không hòng gì hiểu được Phúc Âm bởi Phúc Âm được viết nơi miền Trung Đông.
Có viết đến mấy nữa thì cũng quanh đi quẩn lại, lòng vòng nơi giới hạn kiến thức. Câu hỏi “Tội lỗi là gì” thách đố con người nghiệm chứng. Những gì có thể giãi bày trong giới hạn kiến thức cũng chỉ là kiến thức; vì người mang mặc cảm về tội lỗi nào đó thực ra đối với biết bao người khác, hành động, lời nói, hay tư tưởng tạo nên mặc cảm tội lỗi nơi người đó chưa chắc đã được cho là đáng quan tâm bởi khác chủ thể, môi trường, căn cơ. Bạn muốn cưới hai, ba, hoặc bốn vợ, qua vùng Trung Đông hoặc Đông Nam Á mà sống. Bạn muốn có nhiều chồng, xin qua Tây Tạng. Kinh nghiệm nghiệm chứng chứng minh (quái, giống nói lặp), người nào càng thức ngộ cao, càng nhận rõ hơn những ảnh hưởng nghiêm trọng của tội lỗi (vô ý thức). Có thể đây là lý do tại sao gọi những bậc giác ngộ, thức ngộ cao là những vị thánh. Qua nhà Phật, qua Phúc Âm, ThyLoan có thể tạm kết luận trả lời câu hỏi “Tội lỗi là gì.” Xin thưa, tội vô minh, tội phạm đến Thánh Thần, tội không suy nghĩ, không nghiệm chứng, không dùng trí khôn của mình để nhận biết mình là ai, thực thể bản thể của mình là gì, vì loại tội này chính là cội nguồn của muôn thứ tội khác. Bên Kytô giáo có thể gọi là tội tổ tông.
11/ TÔN GIÁO và ĐẠO HỌC
Cho dù quan niệm được sinh ra hay bị sinh ra làm người, không nhiều thì ít, ai cũng mang nỗi lòng khắc khoải muốn nhận biết về con người của mình. Lòng khát khao nhận biết về chính mình này ẩn tàng nơi tâm trí như một bản năng và có thể nói bất khả phân ly với thân phận làm người. Nó bao gồm nhiều phương diện nên kiến tạo nhiều câu hỏi lệ thuộc chiều hướng tính chất cá nhân được sinh ra. Có thể nói, khuynh hướng sống của một người chính là phản ứng giải đáp về khúc mắc ẩn tàng nào đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống chủ thể. Người được sinh ra với lòng khát khao mạnh mẽ muốn kiếm tìm về thực thể hiện hữu của mình sẽ có khuynh hướng thiên về tâm linh. Kẻ đặt vấn đề giá trị cuộc sống sẽ mang nặng khuynh hướng kiếm tìm căn bản định giá tùy thuộc nhận thức đã đạt tới nơi lãnh vực nào đó, chẳng hạn luân lý, tôn giáo, đạo đức, khoa học, tâm lý, v.v... và đồng thời lieân heä tôùi môi trường cũng như đìều kiện sống chất chứa phần nào ảnh hưởng.
Sự khát khao tâm linh nơi một người thường được bày tỏ qua những thao thức muốn nhận biết về thực thể và giá trị đích thực của cuộc sống. Trước hết, sự nhận thức con người không phải chỉ là xác thân, được sinh ra ngoài ý muốn của mình, có những chuỗi ngày nối tiếp giới hạn trong khoảng thời gian hơn kém nào đó, nói như Nguyễn Công Trứ, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,” thúc đẩy cá nhân muốn xóa bỏ giới hạn thời gian hiện hữu, mơ ước có đời sống lâu dài. Dẫu cho rằng sợ chết hay tham vọng chống lại bản án tử đeo đẳng từ lúc mới sinh, nỗi khát khao muốn vượt thoát hay xoay chuyển, kéo dài thêm ngày tháng hiện hữu nơi cõi nhân sinh, hoặc diệt tan mầm mống sự chết, xóa đi nỗi lo sợ thân xác tàn dần theo năm tháng, đã khích lệ con người sử dụng tất cả những gì có thể để tìm tòi, nghiên cứu, với ước nguyện chẳng những đem lại ít nhất niềm hy vọng cho mình mà còn giúp đồng loại giải thoát nỗi lo âu nhiều khi đến độ kinh sợ sự chết.
Con người còn có trí khôn mang khả năng suy nghĩ, nhận biết, và học hỏi. Lẽ đương nhiên nơi cuộc sống nhân sinh, tất cả những tập tục, thói quen, thái độ, phương cách sống, phát minh về mọi phương diện thực nghiệm đều bắt nguồn bởi suy tư, öôùc muoán. Vì muốn có cuộc sống tiện nghi hơn, suy tư thực nghiệm được triệt để ứng dụng, cải biến, và phát triển. Để chống lại hay chữa lành những bệnh tật, ngành thuốc dẫn đầu. Tiến xa hơn, có những bệnh tật phát xuất từ tâm lý, ngành tâm bệnh học giải quyết khá nhiều trường hợp tưởng rằng nan y không đường chữa trị. Bên cạnh suy tư và phát triển thực nghiệm đó là suy tư nghiệm chứng về thực thể con người, suy tư tâm linh. Nơi lãnh vực này, những câu hỏi, vũ trụ tại sao mà có; con người từ đâu tới; tại sao con người có thể suy tư; sự gì hay cái gì nơi con người mang khả năng suy tư? Phần nào, chỗ nào cho bộ óc con người có thể chất chứa trí nhớ; con người có liên hệ thế nào đối với vũ trụ hoặc những thực thể tâm linh như ma quái, hồn linh bóng quế. Con người là gì? Giá trị cuộc sống của một người được đặt trên căn bản nào? Nếu con người bao gồm xác thân và thành phần tâm linh (hồn) thì sau khi xác thân chết hồn sẽ đi về đâu? Nếu hồn tiếp tục có sự hiện hữu nào đó nơi cõi giới vô hình, con người cần phải làm gì, chuẩn bị ra sao cho phần hồn sau khi xác thân chết. Nguyên nhân nào tạo nên những tai bay vạ gió? Tại sao những sự khó xảy đến với một số người có cuộc sống thực sự tốt lành? Muôn ngàn câu hỏi được đặt ra nơi lãnh vực này đã trở thành nguyên nhân thúc đẩy một số người được sinh ra với khả năng suy tư nghiệm chứng tiến sâu vào lãnh vực tâm linh. Những sách đạo học thường được gọi là kinh sách, các phương pháp tu luyện như Yoga, Thiền, phép tu tiên, phù thủy, Zen, là thành quả phát sinh từ lãnh vực tâm linh.
Trải dài theo giòng thời gian, chúng ta thấy có những kinh sách đã được viết từ hơn kém hai ngàn năm bao gồm những kinh luận, con đẻ của nghiệm chứng vẫn mang giá trị thực tiễn hướng dẫn con người trong hành trình tâm linh, chẳng hạn một số kinh sách mà chúng ta thường nghe đến danh hiệu như, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Kinh Vệ Đà (Vedas Upanishads), Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca), Kinh Thánh (Kitô Giáo), kinh sách nhà Phật hằng hà sa số đếm không xuể, kể không hết được viết thành sách từ thế kỷ thứ tư trước tây lịch, bắt nguồn bởi sự tranh luận giữa hai phái Thượng Toà và Đại Chúng của nhà Phật. “Đây là một thời thực náo nhiệt. Sau cùng, các tăng già của cả hai bên đã phân chia ra đến 20 bộ; phái Thượng tòa gồm 11 bộ, phái Đại Chúng 9 bộ” (TTÂĐ. Tr.143), Kinh Kim Cang (Cương), Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Bảo Đàn, v. v... Những kinh sách này mang đặc tính rất khó hiểu đối với mọi giới độc giả bởi chúng được viết từ kinh nghiệm thực chứng tâm linh. Hơn nữa nếu để ý, cơ cấu của kinh sách đạo học được trình bày bằng cách ráp nối những kinh nghiệm thực chứng riêng biệt từng giai đoạn nên độc giả thường cảm thấy ngỡ ngàng vì những đoạn chuyển tiếp mang đầy tính cách gò ép. Thí dụ, “Và Ta bảo các ngươi, hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho. Trong các ngươi ai là cha có con xin cá há lại lấy rắn thay cá mà cho nó ư? Hay là nó xin trứng há lại cho nó bò cạp ư? Vậy nếu các ngươi, tuy là ác, còn biết lấy của lành làm quà cho con thì huống hồ là Cha các ngươi, tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người” (Lc. 11:11; Mt. 7:10). Câu Phúc Âm đang ngọt đường giải thích một cách cụ thể bằng cách dùng rắn, cá, trứng, bò cạp, lồng vào tâm tình con người để minh chứng “xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp,” thế mà đùng một cái, kết luận, “Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người.” Mới đọc hoặc nghe thì cảm thấy ngon lành lắm; ai không cảm thấy hứng khởi! Thế nhưng, đọc xong, nghe xong, tâm trạng hụt hẫng bùng lên, chẳng lạ gì biết bao kẻ mộ mến Đức Giêsu, và hầu hết con dân đặt niềm tin tưởng nơi ngài đã không dám đá động gì tới Phúc Âm dẫu tin rằng, cho rằng đó là lời ngài rao giảng hơn kém 2000 năm về trước. Thử hỏi còn lối nói kỳ cục nào hơn câu, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Lời Chúa, ThyLoan được dạy dỗ gọi thế (con nhà đạo gốc mà), sao mắc mớ gì đến chó và “lợn,” lại còn có những câu có cày, có rượu. Thế là rối tít mù thôi! Chúa nói hãy để Chúa hiểu, lắm khi ThyLoan bí quá đành chấp nhận lờ đi cho đỡ bối rối. Kinh nhà Phật còn mạnh bạo gấp mấy lần! Thử xét mấy câu của Lục tổ Huệ Năng, “Tâm mê Pháp Hoa chuyển, Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa, Tụng lâu không rõ ý, Kinh nghiệm ấy thù ta, Không niệm, niệm mới chánh, Có niệm, niệm thành tà, có, không, đều chẳng kể, chứng Phật đạo sâu xa.” (KPBĐ. Tr .121). Thử hỏi, vậy những câu niệm, câu chú, tụng, của nhà Phật để làm gì? Những ai đã bao lần niệm, “Nam mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quan Thế Âm bồ tát” (Đẹp; Weekly Magazine; No. 479, 11/12-11/18/2000; Houston, TX; Tr. 169) cảm thấy thế nào? “Không niệm, niệm mới chánh, Có niệm, niệm thành tà,” nói như thế sao các vị khoa bảng hoặc học giả có thể giảng giải cho thiện nam tín nữ hiểu nhà Phật. Mà cho dù có hiểu cũng như cuội, “Nước đổ lá môn,” bởi Đức Thích Ca đã khuyến cáo từ thuở sơ khai nhà Phật, “Lời ta nói như chiếc bè.” Lời nói, lời dạy đã như chiếc bè đưa người qua sông thì có hiểu đến mấy cũng chẳng mang lại ơn ích, lợi lộc gì.
ThyLoan cần được chân thành minh xác không hề có một chút ý nghĩ bươi móc kinh sách mà chỉ muốn thỏa lòng khát vọng nghiệm chứng những điều khôn ngoan thực chứng được viết nơi kinh sách. Lòng tôn trọng, kính ngưỡng những lời nói của các bậc giác ngộ minh chứng điều này dẫu nhiều khi ThyLoan đã có phong thái ăn nói (viết) bạt mạng do sự mộ mến nên nhiễm tập lối nói khác thường của các bậc đáng kính ấy. Có điều chẳng hiểu tại sao ThyLoan cứ thích nghiền ngẫm những câu nói nghịch thường của các vị ấy và đã cố công tìm kiếm những công án nhà Phật dù chưa thấy được bao nhiêu. Phúc Âm thì hết chê, có những câu mới xem qua đã bị điếc tai chứ đừng nói chi tới nghe giảng giải. Tỷ dụ, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12). Tuyệt chưa, ai không thấy câu này hợp lý, hợp tình, nên thực hành, và nếu có thể khuyên nhủ hay khuyến khích mọi người áp dụng nơi cuộc đời của họ. Khổ nỗi, ThyLoan thích ăn bún bò Huếm càng cay càng đã, cay đến nỗi mắt mờ, mũi xụt xịt, mới đỡ ghiền; và giả sử ThyLoan mời bạn thưởng thức bún bò Huế kiểu ThyLoan đã nấu sẵn thì sao. ThyLoan chỉ đơn thuần áp dụng lời Chúa. Mới chợt nghĩ đến đó, câu Phúc Âm đã trở nên nghịch thường, phương chi nhà Phật. Chính bởi hiểu kinh sách theo nghĩa từ chương nên bị lừa riết, ThyLoan mới nhận ra được điều chẳng ngờ, và đó là dù kinh sách dùng những sự việc hay sự vật thường tình lồng trong sinh hoạt nhân gian nhưng mục đích lại nói lên kinh nghiệm thực chứng mà chỉ những ai đã để tâm suy nghiệm, chiêm nghiệm, thiền, phải đối diện với diễn tiến xảy đến nơi hành trình tâm linh mới có thể bắt gặp được thực trạng đã được phát biểu một cách nghịch thường được ghi chép nơi kinh sách. Chẳng hạn nhà Phật có công án, “Chứng cái Vô.” Đã là cái Vô hay cái Không thì sao mà chứng, và nếu cho rằng cái Vô có nghĩa những gì xảy đến trong vô hình khi thiền, nghiệm thì lại lọt vào tà đạo, hoặc cố kiếm cái Vô hay không nghĩ gì, thì cũng rơi vào trường hợp Lục tổ gọi là “vô ký không.” Câu nói chỉ gồm có ba “ngữ” thế mà nó khiến tâm trí ThyLoan quay mòng mòng không biết mấy tháng. Ấy, mấy tháng hãy còn là may. Ai thử dồn hết tâm trí nghiệm công án này sẽ biết, nếu ngày nào đó thấy mọi sự mờ mịt, hy vọng may ra. Con dân nhà đạo dám láu cá thách đố thiện nam tín nữ nghiệm chứng công án nhà Phật thì còn thói phép nào nữa không? ThyLoan cả gan viết như thế may ra trả được món nợ đối với nhà Phật thì tâm tư thảnh thơi biết chừng nào. Nói đơn giản hơn, có thể chỉ là ăn miếng trả miếng cho huề cả làng chứ không hy vọng gì đáp lại được ẩn ý của vị tổ nhà Phật đã ứng công án này.
Thử nhìn tổng quát sự liên hệ giữa tôn giáo và đạo học, chúng ta thấy có nhiều khác biệt nếu không muốn nói lắm khi tới độ đối nghịch. Chẳng hạn Lão học trình bày bản chất và thực thể sự việc diễn tiến nơi con người dẫn tới lối sống huyền đồng, hòa hợp cùng thực thể uyên nguyên của đất trời qua kinh nghiệm nghiệm chứng, “Người nói không biết, kẻ biết không nói,” sau này được Trang Tử khai phá và phát triển, và thế rồi sinh ra đạo thiên thai, phép luyện trường sinh bất tử. Nhà Phật đào sâu nơi lãnh vực nghiệm chứng và thực chứng tìm về bản thể tuyệt đối minh chứng thực thể tâm linh con người hòa đồng với Chân Như được gọi Niết Bàn, sơ khởi đã bị phân chia tiểu, đại thừa, những tông phái tiếp nối xuất hiện muôn màu muôn vẻ kiến tạo khu vườn nhà Phật ngào ngạt hương sắc trăm hoa đua nở. Rồi niệm, tụng, quán, thiền, cúng, tế, tất cả khơi nguồn cùng một gốc, “Sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền chớ chẳng cầu ra khỏi biển sống thác. Nếu tánh mình mê muội thì phước nào cứu được” (KPBD; Tr. 22-23). Kinh Thánh rõ ràng với lời minh xác, “Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật,” thế mà nhà thờ, đền đài mọc lên như nấm được cổ võ bằng những luật lệ, phong trào rao giảng v.v... Từ cái nhìn nơi đạo học đem so sánh với những nghi thức thực hành tôn giáo quả muôn biến chuyển, cùng mục đích nhưng lắm khác biệt. Hành trình đạo học có lẽ chẳng bao giờ gặp gỡ hành trình tôn giáo. Chúng như mặt trời và mặt trăng; mặt trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời nhẹ nhàng, êm đềm, nên thơ đầy hấp dẫn nhưng chuyển vận ảnh hưởng năng lực phù sinh thế nào thì tôn giáo, nơi hành trình tâm linh cũng thế đối với những mặt trời chói lọi đạo học.
Đạo học từ đâu ra? Xin thưa từ những vị giáo tổ (ThyLoan không biết gọi thế nào nên tạm dùng danh hiệu này để chỉ các ngài) như Đức Thích Ca, Đức Giêsu; lời dạy của các ngài được ghi chép lại gọi là kinh. Tuy nhiên, kinh lại bao gồm những sự khôn ngoan chỉ dẫn con người thực chứng hay nghiệm chứng để thăng tiến trên hành trình tâm linh; do đó kinh được ghi chép thêm những sự khôn ngoan liên hệ với mục đích giúp cho con người am hiểu lời dạy của các vị giáo tổ. Có những kinh sách được biên soạn bằng cách góp nhặt những sự khôn ngoan đã được truyền tụng töø xa xöa nơi dân chúng, đã trải qua bao thử thách nghiệm chứng, vẫn trường tồn soi sáng cho tâm trí thế nhân. Chẳng hạn như Đạo Đức Kinh, không ai biết gì về Lão Tử, danh hiệu được gán cho tác giả. “Lão học đã một thời mang vị thế huyền bí và gây chấn động cả thể nhất trong lịch sử triết học của loài người. Không ai biết được Lão học xuất phát từ đâu nhưng về sau bị coi như nguồn gốc kiến tạo phương thuật và khoa luyện đơn” (OM; Tr. 117).
Các kinh nơi đạo học rất ngắn. “Sách vở kinh điển của Đông Phương vì thế phần nhiều dùng một lối hành văn rất vắn tắt, không lý luận, không minh chứng dài dòng, cốt cho kẻ học hỏi phải vận dụng công phu suy nghĩ mà lắng nghe cái tiếng dội nơi sâu thẳm của lòng mình. Họ chỉ khêu gợi thôi, chứ không cố để truyền bá tư tưởng của họ. Dụng ý của họ là để tạo cái học bề sâu. Sự tối tăm của câu văn có cái hấp dẫn của nó là kích thích óc tò mò, sự tìm hiểu ẩn ý của người viết và nhân đó giải phóng những tiềm lực sâu thẳm của lòng mình. Không khác nào ánh thái dương giúp cho trăm hoa đua nở, nhưng cây hoa nào trổ hoa nấy” (ĐĐK; Tr. 14). Vì vậy, nếu tìm hiểu theo nghĩa từ chương, những lời dạy của các vị giáo tổ mang tính chất ngắn gọn sẽ bị hiểu đầy nghịch thường, “Đạo khả đạo phi thường đạo,” (Lão) “Kẻ lớn hơn trong các ngươi sẽ là tôi tớ của các ngươi. Kẻ nào tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống và kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Mt. 23: 11-12), “Kiến Tính thành Phật” (Huệ Năng). Viết đến đây ThyLoan tự hỏi lòng, mình đang làm gì? Kinh sách đạo học đầy rẫy cả bao ngàn năm; tôn giáo không nơi nào không có; mình muốn nổ, tỏ ra biết thứ nọ thứ kia? Không giúp được ai đâu, vì còn muốn giúp vẫn còn dục; vả lại, chưa thấy ai nơi cõi đời này chỉ nghe, đọc mà có thể trở thành ông nọ, bà kia; có chăng, chỉ người viết mới ước muốn trở thành ông nọ bà kia; rởm! Thế nên, viết chỉ để phá ngu, đem những gì đã may mắn đọc được xếp thành thứ lớp hy vọng chính mình có nhận thức rõ ràng hơn thay vì để lòng ruột xốn xang “nghe hơi, ngồi chõ” nay hùa theo nhận định này, mai lãng đãng a dua lời tuyên truyền dụ khị hay đe dọa khác. Nhớ nghe! Mi phá ngu chính mi, chớ dại chu cái mỏ lên nổ bậy sẽ bị các vị tổ chửi cho vừa ngu vừa hỗn. Xin vâng, con bé biết phận mình, nên nào dám xum xoe, phải đành tự phá ngu, đội ơn các ngài. Cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần minh xác, “Trong quyển Văn minh Đông Phương và Tây Phương tôi cũng đã có nói: “Sự hiểu biết theo người Đông Phương là sự hiểu biết do mình tìm ra, hoặc nhờ bên ngoài khêu gợi mà khải phát, và chính sự hiểu biết ấy mới thật là hiểu biết” (ĐĐK; Tr. 14). Quả thật, sự khôn ngoan nào ai có thể truyền đạt cho ai. Con chó, con mèo biết thưởng thức đồ ăn ngon bạn nấu nướng nhưng làm gì có cách nào để chỉ cho chúng nấu đồ ăn. Ah! Câu “Của thánh đừng cho chó” ám chỉ trường hợp này? Không ai chỉ dạy được ai, mà có chăng ngược lại, coi chừng lãnh đủ!
Dĩ nhiên mọi việc, mọi sự đều có nguyên nhân phát khởi hay hiện hữu. Hơn nữa, nếu không có con người, chẳng gì đáng để nói về đạo học hay tôn giáo. Đạo học cũng như tôn giáo đều bắt nguồn từ con người. Những kinh sách đạo học là con đẻ của hành trình nghiệm chứng và thực chứng của các vị giáo tổ hoặc chân nhân, giác ngộ. Có những vị chọn lối sống ẩn tu dùng trọn đời mình chiêm nghiệm thực thể con người của mình và những sự liên hệ nếu có; chẳng hạn Tiểu Thừa, các vị tu rừng thời trung cổ, các vị Yogi bên Ấn Độ, các vị tu sĩ thuộc các giáo phái Mật Tông. Có những vị sống cuộc đời bình thường như mọi người, do lòng khao khát thúc đẩy, dùng trí hiểu biết nghiệm chứng; nhà Phật gọi là con đường minh triết. Những điều ghi lại của các vị này được tuyển chọn và sắp xếp vào hàng kinh sách. Như vậy, có thể nói, kinh sách là những sách ghi lại kinh nghiệm thực chứng hay nghiệm chứng của các vị giáo tổ, chân nhân, hay giác ngộ. Do đó, muốn am hiểu kinh sách đạo học, con người cần chiêm nghiệm hay nghiệm chứng. Kiến thức đành chắp tay đứng ngoài cung kính chờ sai bảo. Nếu lỡ có ông kiến thức nào học đòi rao giảng đạo học thì chỉ có thể hợp với câu ngạn ngữ nào đó, “Chân thành, năng hoạt nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.”
Ngoài hành trình nghiệm chứng, thực chứng hoặc minh triết, hành trình sùng tín và tôn thờ đóng vai trò quan trọng nơi đời sống tâm linh con người. Hành trình này là gốc gác của mọi tôn giáo; vì tôn giáo thực hành các nghi thức thờ phượng, cúng bái, và lòng sùng tín. Dĩ nhiên, bất cứ hành vi, cử chỉ, nghi thức, hay lời nói nào đều phát xuất từ nội tâm hay suy tư của con người. Nhận ra như thế, những nghi thức thờ phượng hay lòng sùng tín của con người đều phát xuất từ nhận thức tâm linh. Từ điểm này, lòng thương xót hay khát khao muốn truyền bá “sự thật” nghiệm chứng bùng lên (Đại Thừa), những tổ chức tôn giáo được kiến tạo. Tổ chức nào cũng cần có điều lệ hoặc quy luật điều hành và phát triển; sách vở cổ võ hoặc truyền bá tôn giáo được viết để tiện phần quảng bá nơi đại chúng. Và đại chúng thì không thể có một căn bản nhận thức đồng đều; giáo lý tôn giáo lại được dịp xuất thân rao truyền đạo giáo, và cũng vì muốn cho giới bình dân hoặc tệ hơn, giới “nửa chữ nhất không biết,” những kinh sách rao giảng giáo lý đạo giáo phải được diễn giải sao cho có thể thu hút được nhiều người theo, hy vọng rằng họ được cứu rỗi khieán kinh sách bị hạ cấp. Tuy nhiên, cho dù hạ đến bực nào cũng không thể “mổ ñaàu bò mà nhét óc chó” vào được, thêm vào đó tham vọng “đa số thắng tiểu số,” cứ nhiều người tin theo thì được coi là phát triển, đi đúng đường chân thật; kinh sách lại bị hạ cấp lần nữa, bị giảng giải theo nghĩa từ chương, thế tục, miễn sao cho đại đa số dân chúng có cảm tưởng “nắm bắt “được chân lý; để rồi tôn giáo được coi như những tổ chức phụ giúp cho luân lý cộng đồng, thành ra có câu: “đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành.” Còn tín đồ thì sao? Vẫn khắc khoải vì những thái cực được rao giảng không thể nào hòa hợp, ngược lại, cứ triền miên xung đột trong lòng lắm khi khiến tâm trí con người tê liệt, mới chợt nghĩ tới đã thấy rối mù. Chúa cứu, Phật độ, ở đâu không biết nhưng viễn ảnh thiên đàng, hỏa ngục, niết bàn và cõi a tỳ vẫn không bao giờ ngưng nghỉ dấy lên không đứa nào chịu nhịn đứa nào.
Những vị chiêm nghiệm, chân nhân, hiền giả, guru, yogi, có lỡ lầm đường lạc lối thì cũng chỉ một mình lãnh hậu quả, nhưng những vị giáo chủ (vị điều hành những tổ chức tôn giáo) và các đấng bậc rao giảng nơi tôn giáo mang trách nhiệm khá nặng nề đối với hành trình tâm linh của đại chúng. Tất nhiên, nhiệm vụ chính của các bậc rao giảng (ăn cơm chúa, múa tối ngày, hoặc, chăn chiên thì uống sữa chiên) bao gồm ít nhất ba sự thể,
1/ Nghiệm chứng, thực chứng để nhận biết “Sự Thực” hay “Chân Lý.”
2/ Chia sẻ kinh nghiệm thực chứng hay nghiệm chứng hầu giúp cho tín đồ hay những cõi lòng thực sự khao khát thực hiện hành trình tâm linh; dùng kinh nghiệm thực chứng của mình giúp hành giả so sánh và thăng tiến nơi hành trình tâm linh của họ.
3/ Diễn giải hành trình nghiệm chứng, giúp cho hành giả tiến tới giòng suối tâm linh để tự hòa mình nơi ấy. Nhưng, làm thế nào, ăn nói, giải thích kinh nghiệm thực chứng ra sao cho những đầu óc chỉ muốn hiểu mà không muốn suy nghĩ, đặt vấn đề. Diễn giải cách mấy nơi trường hợp Lão học nêu lên, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Dĩ nhiên, người ta có thể dạy cho con khỉ đánh baûn nhaïc dương cầm tuyeät vôøi, nhưng không thể nào dạy cho con khỉ trở thành nhạc sĩ. Chúa đến cứu, Phật tha thiết độ nhưng con người có được sinh ra để ñöôïc độ, để được cứu, hay tại không muốn được độ, được cứu? Chẳng lạ gì, bẩy lần Phúc Âm nhắc đi nhắc lại câu nghịch thường, “Ai có tai thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9, 43; Mc. 4:9, 23; 7:16; Lc. 14:35). Ai là người không có tai?
12/ NIẾT BÀN
Cuộc đời đáng sống hay không đáng sống đối với một người, chính người đó tự biết bởi không ai có thể sống dùm cho ai, không ai chết dùm cho ai và cũng không ai yêu thương hay giận ghét dùm được cho ai. Tuy nhiên, sống như thế nào, ước mơ ra sao để dẫn dắt cuộc đời mình sẽ đi về đâu lại tùy thuộc tâm ý, quyết định, ý chí, và lòng kiên vững thực hiện mục đích mình muốn đạt tới hay không. Cho rằng cuộc đời mỗi người đã được an bài như một số phận được định sẵn trước theo một lẽ huyền nhiệm nào đó, thế sao có câu “Đức năng thắng số?” Nếu tin tưởng “Muốn là được một nửa” vậy tại sao biết bao người chăm chỉ làm lụng cực khổ, ăn chắt để dành, nghèo vẫn hoàn nghèo! Không ai muốn mình trở thành nô lệ của bất cứ quyền lực hay áp lực nào nhưng có được những ai cảm thấy thực sự tự do vượt khỏi mọi sự ràng buộc, lệ thuộc, hay chính những người hô hào cổ võ cho tự do vô tình đang là nô lệ của chính ước muốn mình cổ võ hoặc ước mộng hay ý đồ ẩn tàng phía sau những chiêu bài đầy hấp dẫn đang được phô bày? Dĩ nhiên, chỉ những ai cảm nhận thực sự bị giới hạn, kềm kẹp mới hô hào, lên tiếng hay thực hiện đòi hỏi giải phóng. Ai có thể giải phóng cho ai nếu không muốn nói chính ước mơ, lý tưởng, mục đích của mình lại đang là quyền lực mạnh mẽ nhất trói buộc, gây áp lực khiến tâm tư vùng vẫy tìm phương giải thoát. Hơn nữa, bất cứ ai thực sự cảm thấy hoàn toàn tự do, như đã có bao người cho rằng vì mình có quyền tự do hành động nên mình có trách nhiệm giải quyết hậu quả hoặc tạo nghiệp ảnh hưởng sau này, ngay khi con tim họ ngừng đập, thử hỏi họ có thể nhân danh hoặc sử dụng quyền tự do tuyệt đối mà ra lệnh cho nó hoạt động thêm dầu chỉ một nhịp đập? Nói thế nào, quan niệm, ước mơ, hay vùng vẫy thế nào chăng nữa, cuộc sống tự nó mang nhiều liên hệ, ràng buộc dẫu nhận biết hay không. Cuộc đời một người sẽ đi về đâu vẫn muôn đời thách đố tâm trí bất cứ ai, ít nhất đã có giây phút nào đó tự hỏi tại sao mình được sinh ra và giá trị cuộc đời của mình là gì!
Đối diện thực tại sự sống dẫu quan niệm và mơ ước ra sao chăng nữa, chúng ta đều có thể nhận thấy một cách rõ ràng đó là sự sống mang năng lực vô biên. Xuôi theo giòng thời gian, trải qua biết bao biến cố, muôn ngàn cảnh tàn phá kinh khủng hãi hùng, sự sống vẫn ngang nhiên tồn tại vượt trên mọi biến chuyển dù con người nhận biết hay không. Hòa nhập theo giòng sống, bao người đã có những khoảng thời gian hiện hữu nơi thế giới hữu hình và đã ra đi. Thực tại này đang hét bên tai mỗi người, đang đập vào tâm trí từng cá nhân, và cũng đang phô bày trước mắt, bắt chúng ta phải đối diện thực thể, rồi một ngày nào đó mình cũng phải ra đi, phải chết, chẳng chóng thì chầy! Cho dầu sống lâu đến mấy, cuộc đời một người chẳng khác chi nhöõng chiếc bong bóng chợt nổi, vội tắt ở mặt đường hay nơi cống rãnh khi trời mưa. Chẳng lẽ đời một người hốt nhiên hiện hữu rồi lại hốt nhiên tan biến? Vậy năng lực hốt nhiên đó gốc gác dựa trên căn bản nào? Điều gì hay động lực nào khiến cho mình biết khi đói phải lo ăn, hoặc tại sao có những nỗi đau thấu tâm can muốn dứt bỏ mà chúng vẫn dằng dai theo đuổi? Có quan niệm cho rằng sự hiện hữu của cuộc đời một người chất chứa nguyên nhân hay những động lực tạo thành giống như xoáy nước nơi giòng sông sinh hóa. “Xoáy nước tức là sự phát hiện của những trọng tâm sinh hoạt hay là sinh vật. Mỗi xoáy nước đều tồn tại lâu dài hay ngắn ngủi, rồi sau cùng cũng sẽ tan ra nước để biến mình vào sông sinh hóa” (XDNSQ; Tr. 42). Nhà Phật quan niệm những nguyên nhân hay động lực kiến tạo kiếp người được gọi là “Nghiệp,” tùy theo “Duyên” xuất hiện trong vòng “Luân Hồi” (Ấn) biến chuyển qua nhiều kiếp cho đến khi nào nhận thức được giác ngộ, vượt khỏi mọi huyền ảo (huyễn) vô thường và tất cả những chấp (nhĩ, ngã) về tự ngã để đạt tới trạng thái “Chân Như” (Đại Thừa) thì tự ngã, nghiệp sẽ vượt ra khỏi giòng sinh hóa của luân hồi tan hòa vào bản thể Chân Như. Chân Như ở đâu ra? Nhà Phật mệnh danh Chân Như bằng nhiều ám định, Phật Tính, Tâm Phật, Pháp Thân, cái Vô, cái Không, Thường, Vô Thường, Thường Hằng, Bất Biến, Thực Tại Siêu Việt, Thực Tại Bất Biến, Bất Khả Tư Nghị, vì không phải là Chân Như, không phải cái tên gọi, nên tạm gọi là Chân Như, Phật Tính. Chân Như tự hữu, tĩnh tịch, phẳng lặng, vọng tưởng phát khởi, dồn đọng, chồng chất, tạo chúng sanh (hiện hữu hữu hình và vô hình); chúng sanh (sinh) vọng tưởng tạo nghiệp; nghiệp chồng chất phát sinh tự ngã, ngã tùy duyên biến chuyển trong luân hồi. Đừng hỏi, hãy nghiệm, ThyLoan áp dụng lời Phật dạy, “Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế 'tỷ như nghĩ rằng điều nầy đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ.' Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy 'tỷ như tin lời người khác mà không suy xét.' Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình ức đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy. Không nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như chấp nhận được 'tỷ như nghĩ rằng điều này phải được chấp nhận.' Không nên chấp nhận điều gì vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra điều này đã được ta kính trọng từ trước 'và như vậy lời nói phải được chấp nhận'...” (ĐPvPP; Tr. 288).
Bởi thế, tất cả mọi sinh hoạt, hoạt động, mọi sự hiện hữu, thay đổi đều là sự biến chuyển dưới nhiều dạng thức của Chân Như, Đại Ngã (Brahma, Ấn); do đó con người hành động nhưng không phải mình hành động mà laø Pháp Thân, Tiểu Ngã (Atman, Braham nội tại) hành động vì, “Ai ý thức được hành động cũng như không hành động và không hành động cũng như hành động, người đó là bậc hiền giả và sẽ hoàn tất mọi hành động một cách hòa đồng” (CTC; Nguyễn Bình dịch; Quảng Hóa Xuất Bản; Sàigòn, VN; 1971; Tr. 45). Phỏng đây cũng là điều mà Lão học gọi là, “Vô vi nhi vô bất vi,” dường như không làm gì mà không cái gì không làm của Tào (Đạo, Lão) (ĐĐK; Quyển I, Tr. 191), hoặc là “huyền đồng” (Lão). Chu choa, mỏi miệng lẩm nhẩm, ThyLoan tóm gọn thành “Không làm gì là làm tất cả,” cho có vẻ thông minh rởm một chút bởi, nhiều chuyện càng làm ít càng tốt, càng không làm gì lại càng tốt hơn!
Nhưng lý thuyết hay ho, tuyệt vời đến mấy thì, “Mười voi cũng không được bát nước xáo.” Chẳng khác gì ThyLoan lặp lại câu nói này nổ chơi cho có vẻ dư giả văn chương chứ thực ra có bao giờ biết miếng thịt voi ngọt bùi ra sao! Cho rằng mình là thánh, là thần, là vị nọ, đấng kia, đạt tới tầng trời thứ mấy hay được liệt vào hàng ngũ nào thì đôi chân vẫn chưa nhấc khỏi mặt đất, vẫn dằng dai theo đuổi ước mơ (vọng tưởng), và vẫn ngỡ ngàng hoặc ưu tư về thân phận con người mang niềm khát vọng muốn nhận biết sau khi xác thân này qua đi, thực thể được gọi là mình sẽ vương vấn về đâu! Nhận thức hay ý niệm nào đó về thực thể hiện hữu được nhà Phật gọi là Tâm, tự ngã; Ấn học gọi Tiểu ngã, Kinh thánh gọi thần khí, linh hồn, sẽ đi về đâu và điều tạm được mệnh danh “Niết Bàn” là gì, Thiên Đàng của Kytô giáo ra sao, chắc chắn cũng phải được bắt nguồn từ những bước chân trần, chưa rời mặt đất của thân phận con người. Có thể nói tổng quát, mọi người đều ngưỡng vọng “Niết Bàn,” hoặc “Thiên Đàng,” hoặc cái gì đó được coi như thực thể hiện hữu vô hình (vì ít ra ước muốn về điều vô tưởng đã hiện hữu) một cách chí thành dẫu nhận biết nó hay không. Tất nhiên ThyLoan cũng là một trong số muôn ngàn kẻ ấp ủ trong tâm tư ước vọng này. Tuy nhiên, qua bao ngày tháng, biết bao niềm mơ, lắm thứ hy vọng đã lạnh lùng âm thầm từ bỏ tâm trí cùng lòng ruột ThyLoan không để lại dấu vết hơi hướng giã từ, ngoại trừ nỗi chán chường tự trách mình đã đặt niềm mơ không đúng chỗ! Chim bị tên thấy cành cây cong cũng sợ; ThyLoan e rằng sự ngưỡng vọng về một cõi niết bàn, hay thiên đàng nào đó sau này sẽ vác cái “mình” vô hình khập khễnh mò tới thì hỡi ôi đã quá muộn màng như kết quả bởi thêm một lần khờ dại đắm chìm mơ tưởng chiếc bánh vẽ nên quên kiểm chứng. Hơn nữa, bài học nào không phải trả giá; mộng hồng nào chẳng có lúc tàn phai; ThyLoan đành chấp nhận thà rằng ghé răng cắn miếng ớt chịu trận với nỗi đau rát phỏng lưỡi còn hơn chằm chằm chiêm ngưỡng vẻ duyên dáng đỏ mọng đầy hấp dẫn, nuốt nước miếng, và tưởng rằng nó ngon ngọt. Ah! Có phải hạnh phúc thực sự chỉ là tâm tình cảm nhận lòng thèm khát những gì mình còn đang ao ước, bởi “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.” Viết đến đây, lời hát nơi nhạc bản “Bao Giờ Biết Tương Tư” hiện ra quấy phá tâm trí, “Tôi ghé răng cắn vào, miệng môi ngọt đắng.” Hơn nữa, “Upali xin Phật cho phép nhập vào hàng đệ tử, nhưng Phật từ chối bảo: Ông phải suy nghĩ lại cho thật chính đính lời nói của tôi chứ không nên vội vã.” Lời dạy của ngài cũng chỉ như chiếc bè thì ước mơ niết bàn vẫn chỉ là chiếc bánh vẽ. ThyLoan cần phải “nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:21) may ra tránh khỏi cảnh lỡ làng khi ăn năn thì đã quá muộn.
Lấy hai miếng giấy, một miếng ghi “Niết Bàn,” miếng kia ghi “Thiên Đàng,” vo thành hai viên, ThyLoan xủ quẻ bốc thăm, thử xem nên suy nghiệm cái nào trước. Niết bàn! Nhà Phật nhanh chân hơn nhà đạo! Được, ThyLoan không thiên vị, nào, mời “Niết Bàn” lên bàn mổ, vì dao kéo đã sẵng sàng.
Ghi chú mang số 45 trong cuốn Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita) viết, “Nirvànà: Vĩnh phúc. Lúc khởi thủy của Đạo Phật thì từ ngữ này thường được phổ biến, Nirvànà được dùng trong nghĩa văn học chỉ sự dập tắt ngọn lửa dục, hay là chỉ một trạng thái đạt đạo khi lòng dục không còn nữa. Trong Chí Tôn Ca, từ ngữ này chỉ có nghĩa là vĩnh phúc hay nguồn vui đến từ kinh nghiệm tâm linh” (Tr. 29). Lục lọi mãi mới kiếm được gốc gác của danh hiệu “Niết Bàn” tự đâu ra, nhà Ấn thụi cho cái bụp, chẳng phải đời sau mà là đời này, lại còn nói “khi lòng dục không còn nữa” thì còn hứng thú chi. Nói rằng “đạt đạo” khi lòng dục không còn nữa có phải là sống cũng như chết, chỉ là một thân xác biết thở? Mèng đéc ơi! Chả thèm cưới gã đạt đạo này đâu bởi có tiếng mà không có miếng,. ThyLoan chẳng chịu. Thế là tan mộng! Nhưng, Ôh hay! ThyLoan đang “mổ” niết bàn của nhà Phật chứ có phải của nhà Ấn đâu. Cuộc đời này thiếu gì người trùng tên, và dẫu cùng tên, đôi khi cùng họ, nhưng nào có ai mang hình dáng giống ai, ấy là chưa dám nói đến tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ. Biết bao người có tên Bạch Tuyết hay danh hiệu Bạch Tuyết mà chỉ hơi trắng hơn cột nhà cháy một tí; đâu thiếu gì người mang tên “Cao” lại chỉ đo được hơn thước ta! ThyLoan thầm dặn lòng, coi chừng “lợn lành chữa thành lợn què” sẽ bị lắm người chê là dốt. Nhưng không sao, mình lầm lẫn đã nhiều, lầm thêm lần nữa để biết mình lầm còn hơn không lầm lẫn để phải muộn màng ngỡ ngàng khi hồn vương vất kiếm tìm niết bàn mộng tưởng.
The World Book Dictionary giải nghĩa, “The Buddhist idea of heavenly peace; perfect happiness reached by the complete absorption of oneself into the supreme universal spirit” (Doubleday & Company, Inc.; Chicago; USA; 1967; Vol. II; Tr. 1310). Cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần trong cuốn Phật Học Tinh Hoa phán, “Niết Bàn do chữ Phạn là Nirvâna, có nghĩa là tuyệt diệt, vẳng lặng (không còn vọng động nữa) tức là một tâm trạng giải thoát. Nhưng quan niệm về Niết Bàn của Tiểu Thừa và Đại thừa có khác nhau. Tiểu thừa phủ nhận hiện hữu, còn Đại thừa không phủ nhận hiện hữu, lại tìm giải thoát trong hiện hữu” (Dainamco; CA; USA; ?; ?; Tr. 221). Phật Giáo phát sinh tại đất Ấn Độ và giáo lý lan tràn mạnh mẽ sang các nước khác. Nền giáo lý nhà Phật phát triển mạnh mẽ vì Phật học thiên trọng về trí tuệ ít mang tính chất thờ phượng, sùng tín. Đọc về hành trình giác ngộ của Đức Thích Ca, chúng ta nhận thấy ngài đã phải traõi qua những thao thức khát vọng chân lý, xuôi ngược tìm thầy học đạo. Trước tiên, nhận thức về thực tại khổ ải của thân phận con người phải chịu phiền não, già, bịnh, ô nhiễm, chết; sau đó ngài theo học với các vị đạo sĩ, Alarama Kalama, Uddaka Ramaputta, rồi traõi qua hành trình chiêm nghiệm, tuyệt thực, ma vương cám dỗ, nghiệm chứng thực thể trói buộc con người, tham dục, bất mãn, đói khát, ái dục, hôn trầm, sợ hãi, hoài nghi, phỉ báng, cố chấp, lợi lộc, khen tặng, vinh dự, mới có thể nhận thức con đường trung đạo, cả một hành trình thao luyện tâm trí, đối diện những thực thể vọng tưởng, ước muốn để tiến tới nhận thức và từ đó dùng thiền định để nghiệm chứng thực thể tâm linh. (ĐPvPP; Tr. 29-49). Sau khi Đức Thích Ca tịch diệt khoảng hơn kém 100 năm và “sau hai cuộc khoáng đại hội nghị, trào lưu Phật giáo đã chia làm hai phái: phái Thượng tòa có khuynh hướng bảo thủ muốn giải thích các giới luật một cách nghiêm khắc, và phái Đại Chúng hay Tự Do có khuynh hướng muốn giải thích giới luật một cách khoan dung. Phật Giáo bắt đầu phân phái từ đó” (TTÂĐ; Tr. 142-143). Sau này khuynh hướng bảo thủ phần lớn chuyển sang Tiểu thừa, còn khuynh hướng tự do phần lớn chuyển sang Đại thừa.
Phương pháp Tiểu Thừa: xuất thế
Tìm cách chấm dứt nghiệp nơi giòng sinh mệnh vận chuyển không ngừng bởi nguyên nhân phát sinh giòng sinh mệnh chính là nghiệp. Nghiệp do vô minh, thế nên phải đoạn trừ tất cả những gì luẩn quẩn thuộc vòng ái dục. “Muốn được vậy, Tiểu thừa dùng đến các phép Giới, Định tức là phương pháp đoạn tuyệt với mọi vọng động và ñeå chấm dứt được mọi dục vọng” (PHTH; Tr. 222). Định hay thiền định để tri giác ly khai với ngoại giới và bước vào cảnh giới vẳng lặng của niết bàn. Cảnh giới niết bàn này bao gồm hai phương diện, tương đối và tuyệt đối. Khi thân xác chưa chết, hành giả chỉ có thể đạt tới cảnh giới tương đối, và chỉ khi đã tịch diệt, lúc ngũ căn đã bị tận diệt thì mới đạt được niết bàn tuyệt đối. Tự thiêu hay thiêu xác sau khi chết phát nguồn từ quan niệm này.
Phương pháp Đại Thừa: nhập thế
Hòa nhập nơi giòng sinh mệnh nhưng không để giòng sinh mệnh ảnh hưởng chẳng khác gì người bơi lội hòa nhập trong nước nhưng không bị nước chi phối. Sống làm một với thực tại đầy biến chuyển, chấp nhận thực tại như chính nó. Thực tại không phải là có mà cũng không phải là không; vì không dùng ý niệm để xác định thực tại bởi nếu đã có ý niệm về một điều gì tức là đã rơi vào vòng thị phi nhĩ ngã. Đại Thừa trực tiếp đối diện với thực tại bằng Trí Huệ Bát Nhã, Vô Niệm. Thực tại chúng ta đang đối diện đã bị cảm nhận qua lăng kính vô minh nên nhận thức bị rơi vào mê lầm, “Ban ngày sáng tỏ nhìn sợi dây thấy rõ nó là gai; ban đêm xem xợi dây thấy hình như con rắn. Gai mà xem ra dây đã là vọng rồi huống chi dây mà lại còn xem ra rắn” (PHTH; Tr. 223). “Bởi vậy chấm dứt đau khổ vì sợ, không cần phải chạy trốn nó mà cần thiết là nhìn nó với con mắt trí huệ thì cái sợ ấy dứt liền. Chấm dứt đau khổ trên đời nầy cũng thế, không cần trốn đời mà phải nhìn thẳng đời với cặp mắt trí huệ bát nhã vô sai biệt.” (PHTH; Tr. 224). Như vậy, người nào đã đắc đạo sẽ có được nhận thức nhất nguyên vượt lên khỏi lối nhìn sai biệt nhĩ ngã, được gọi là trí huệ hay tuệ nhãn, và có được tâm bình đẳng, thấy đúng, sai, phải, trái, như nhau vì “Vạn vật đồng nhất thể,”nói cách khác người đó đã chứng được niết bàn.
Mới chỉ phiếm diện nhận định qua quan niệm Tiểu và Đại thừa, chúng ta thấy Niết bàn là trạng thái tâm thức của một người chứ không phải nơi chốn hữu hình hay vô hình cho hồn con người bị nhốt hay an hưởng sau khi chết. Tâm thức này được mệnh danh bằng nhiều danh hiệu ám định và người đạt tới tâm thức này được gọi là giác ngộ hay Phật, hoặc Như Lai. “Không để cho tâm mờ mịt bởi ý niệm, vọng tưởng, ham muốn, đó là ý nghĩa của “như lai” (TBS; Tr. 170). Nhận thức như thế chúng ta mới có thể nghiệm được lời đức Thích Ca giãi bày, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; Tr.241). Chúng ta thường nghe nói hoặc quan niệm hay thấy những hình tượng Phật ngự tòa sen mang ý nghĩa ám định Phật nơi cõi niết bàn. Tuy nhiên, kinh Phật có câu, “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất đắc kiến Như Lai” (Chu Dịch I; Tr.414). Câu này có nghĩa, Phật lý ở bản tâm, vô thanh sắc. Thế nên, nếu ai lấy thanh âm hoặc hình sắc mà cầu ta ở thanh âm hay hình sắc, người ấy đã đi vào tà đạo, không được thấy Như Lai.” (PHTH; Tr.56). Đã bao lần nghe hoặc tự nhắc nhở câu nói, “Phật tại tâm” mà hình như chúng ta đã không để ý nghiệm chứng. Đạt Ma Sư Tổ dạy, “Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được” (GLTH; Tr. 205), nhưng chúng ta cứ tưởng hiểu về một vấn đề gì, hiểu niết bàn là gì, hiểu tu là thế nào, niệm ra sao, thiền, hành thiền, phải ngồi, đứng đi cách chi cho có vẻ tu Phật hoặc được người khác khoác cho mình những danh hiệu nọ kia, “Người đời suốt ngày miệng niệm Bát Nhã, chẳng nhận được Tự Tánh Bát Nhã, cũng như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ thuyết 'Không,' muôn kiếp chẳng được kiến tánh, rốt cuộc vô ích (PBĐK; Tr. 29). Thực ra, “Trí Bồ Đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng nên mới có kẻ ngu người trí (PBĐK; Tr. 29). Niết bàn là trạng thái tâm thức nhận chân và hòa nhập vào thực thể Phật Tính nơi mình; trạng thái này được gọi là giác ngộ.
Xuôi theo giòng thời gian, các vị tổ nhà Phật đã để lại những phương pháp huấn luyện và giúp môn sinh thức ngộ. Có điều, hành trình tu chứng và sự thăng tiến tâm linh lại tùy thuộc căn cơ của mỗi hành giả. Nơi trường hợp con người ngày nay, cũng chính bởi chỉ cố tìm hiểu kiến thức triết lý nhà Phật thay vì nghiệm chứng, chúng ta cảm thấy quá xa lạ với những lời giảng giải nơi kinh sách. Lý do, kinh sách nói về những biến chuyển tâm thức hay trạng thái tâm thức hành giả nghiệm chứng hoặc biến chuyển xảy đến khi một người ngồi thiền, hoặc hành thiền. Kinh sách nói về cảm nhận của một người thực nghiệm chứ không giải thích kiến thức. Lẽ tất nhiên, sự thể uống nước và nghe giải thích về nước không có gì liên hệ. Thế nên, muốn đạt trạng thái niết bàn, bạn cần nghiệm chứng chứ hỏi niết bàn ở đâu hoặc thế nào, có giải thích ra sao cũng chỉ hợp với câu nói nơi Lão học, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri.” Nếu bị phải giải thích về nghiệm chứng đạo học, ThyLoan nghĩ, càng nói ít càng tốt, càng không nói gì lại càng tốt hớn. Nhưng, lại chữ nhưng, có thể bạn vẫn khát khao kiến thức nên cho rằng ThyLoan viết quẩn. Đã nhiều lần đối diện với trường hợp này, mà cũng tại ThyLoan thích khoe kiến thức rởm, nên đành tự nhắc nhở nơi tâm trí lời Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Sau nhiều lần bị những vố cay cú vì mình nói một đàng, người nghe hiểu quàng một nẻo và thậm tệ lên án (họ nói ThyLoan rối đạo hoặc chống báng đạo), ThyLoan cảm nhận được tại sao những vị thức ngộ không muốn hoặc không dám trả lời. Ah! Có phải ThyLoan đang làm một việc sai lầm, viết về điều không theå vaø khÔng nên viết, hoặc tỏ ra thông minh rởm! Nếu vậy, yêu cầu bạn đừng tin những gì đọc được nơi bài viết này nhưng hãy tự nghiệm.
Thêm một vấn đề quá tự nhiên chúng ta thường vấp phải đó là cầu xin, khấn nguyện chứ không nghiệm chứng. “Kẻ mê tu phước chẳng tu đạo, nhưng cho tu phước là tu đạo” (PBĐK; Tr. 74). “Dùng trí huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là Bát Nhã Tam Muội. Bát Nhã Tam Muội tức là vô niệm” (PBĐK; Tr. 37). Chép hai câu này vô đây có thể bạn nghĩ ThyLoan khuyến khích không nên cầu nguyện. Thưa không phải thế, lối nói táo bạo, thẳng thắn, con đẻ của nghiệm chứng nhà Phật đòi hỏi hành giả thực chứng chứ không cần kiến thức mặc dầu kiến thức là tên đầy tớ ắt có và đủ. Nếu cho rằng ThyLoan dám to mồm gán ép một cách bất kính cho các vị thức ngộ nhà Phật vì ThyLoan theo đạo Công Giáo, quả là “oan Thị Kính.” Có thể đây chỉ là trạng thái bày tỏ phần nào cảm nhận đau lòng bởi thấy con người đã bị ám ảnh nặng nề về kiến thức, hình thức, khuôn phép cản trở hành trình thức ngộ tâm linh. “Các vị thừa kế trực tiếp của đức Phật đã dùng vô số qui tắc để cố gắng bảo toàn từng lời nói của thầy, cũng như cách sinh sống của các đệ tử đầu tiên, với mọi chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống của họ. Nhưng chư vị ấy đã quên hẳn cái tinh thần trong các sự việc đó, họ quên đến độ, thay vì sống một cuộc đời giản dị và vô ngã của những vị truyền giáo đã được soi sáng, họ đã thiết lập một chủ nghĩa quân chủ rất có trật tự, bằng lòng với mình và trở thành mục đích của riêng mình, trong những tu viện đầy đủ, không những xa rời mọi sự đấu tranh của cuộc đời, mà còn đóng kín đối với sự sống thế tục (MGTT; Tr.55). Phỏng sự thể này đã là căn nguyên phát sinh Tiểu, Đại thừa?
Giác ngộ, đạt tới tâm thức ở trạng thái niết bàn không lệ thuộc kiến thức nhưng cần thiết kinh nghiệm thực chứng. Thế nên, điều kiện cơ bản cho thực chứng chính là sự rộng mở tâm hồn để đối diện với thực tại nhưng không phân biệt hoặc định giá chúng theo quan điểm hữu vi. “Bất cứ giá trị nào cũng thay đổi theo thời gian vì tất cả đều chỉ là những ước lệ tương đối, những ảo ảnh. Thiện cũng như ác, tốt cũng như xấu và chính cũng như tà, đều là hai bề mặt của một sự kiện tuy mâu thuẫn nhưng không hề rời nhau. Trong thế giới tương đối nhân sinh, chẳng có sự kiện gì hoàn toàn rõ rệt, muốn hiểu thấu nó thì phải vượt lên trên những tranh chấp nhị nguyên, đối đãi mới có thể đạt tới giải thoát” (ĐMQXT; Tr.173), vì “Con người có phần thân xác, bản năng, dục vọng không khác chi loài thú nhưng ngoài ra nó lại sở hữu một phần tinh thần đồng thể với những động lực thanh cao trong vũ trụ. Nếu con người để thể xác làm chủ thì những ham muốn sẽ phát sinh, họ sẽ bị lôi cuốn vào vòng luân hồi. Nếu biết chủ trị thân xác, hướng dẫn nó bằng phần tinh thần, con người sẽ quán triệt được những chân lý của vũ trụ và vươn lên cao hơn, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. (ĐMQXT; Tr.236). Khởi thủy từ lúc sinh ra, không ai có một thứ si mê nào. Nhưng vì giáo dục, ảnh hưởng môi trường sống, chúng ta đã chuyển tâm Phật bẩm sinh thành một chúng sinh mê muội thượng hạng, bắt chước và thâu nhận vào đủ loại đam mê chung quanh mình, tập tành những thói hư tật xấu được gọi bằng những danh hiệu đẹp đẽ, lừa đảo. Sự ảnh hưởng này nặng nề đến nỗi có muốn là chính mình cũng không thể nhận ra chính mình được; vì căn bản nhận thức đã hòa nhập với những quan niệm thế tục không sao tách ra được. Chính vì không thể nhận ra sự quí giá cao cả của tâm Phật nên xem những thứ si mê đang làm hại mình là quí báu do đó đã trở thành vô minh. Nếu nói theo lý lẽ mơ hồ hiểu biết về nhà Phật để cho rằng tại nghiệp mình phải trả nên đành ỷ y chấp nhận, con người tự đã đóng kín nhận thức. Nghiệp dẫu không có tự tánh cũng như vọng tưởng nhưng nếu không có cái tạm gọi là chủ thể tạo nghiệp sao có thể biết nó là huyễn. Thực ra, “Các đức tính cao siêu nhất đều có mầm trong các đặc tính thấp kém nhất, thiện và ác, thánh và phàm, tâm và vật, tại thế và xuất thế, vô minh và giác ngộ, sanh tử và niết bàn v.v... không phải là những khái niệm tuyệt đối và riêng rẽ, mà đúng đắn là hai mặt của cùng một thực tại” (MGTT; Tr.145). Như vậy, vô minh là không nhận ra thực thể tâm Phật, Tự Tánh nơi mình, không nhận ra thực thể sự thể biến chuyển nơi mình. Thế nên thực chứng, nghiệm chứng, suy nghiệm v.v... pháp này, phương thức kia là phương tiện cho con người chứng ngộ cũng như kiến thức. “Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Hãy tìm lại chính mình rồi sẽ thấy sự giải đáp cho mọi việc. Biết chính mình tức là chân lý và khi đã thấy được chân lý chúng ta sẽ biết chúng ta phải làm gì để phụng sự nhân loại và sẽ có không thiếu gì phương tiện. Nếu một bông hoa chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó giữa tất cả những hoa khác. Khi một người đã đạt được sự minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự đến tìm y. Hãy lo tìm lại chính mình đó là điều duy nhất cần phải làm và không cần theo một giáo lý nào khác. (ĐPHB; Tr.109-110). Nơi Kinh Lăng Già, thiền sư Hàm Thị viết, “Bởi không giác ngộ tự tâm nên tùy sự tu tập mà sanh ra các thừa, mỗi thừa tự thành chủng tách. Chẳng phải không có Phật tánh, Phật thừa thần lực nhiếp hóa chúng xiển đề, ắt cũng có nhơn duyên. Cho nên, biết mê ngộ đồng duyên mà tâm biết mỗi người có khác. Thánh và phàm đồng một chơn thật, bởi giác và tưởng mà có phân chia” (K LGTẤ Tr. 19).
ThyLoan chép lòng vòng từ các kinh sách với chủ ý minh chứng “Phật tại tâm,” niết bàn là trạng thái tâm thức, và phương pháp cốt tủy để thức ngộ, giác ngộ, đạt tới tâm thức niết bàn đó là nghiệm chứng, thực chứng, suy nghiệm; nói cách khác cho có phần hoa mỹ, đó là minh triết, dùng lý trí suy và nghiệm về những gì đang diễn tiến, hoạt động nơi chính mình. Trạng thái đạt tới nơi hành trình tri thức, minh triết này được gọi là chứng ngộ, giác ngộ, kiến tính. Chứng ngộ bao gồm hai diễn tiến: đốn ngộ và tiệm ngộ. Con nhà đạo nhào vô nhà Phật nên loay hoay vậy đó!
Phát sinh từ đặc tính minh triết, nhà Phật có nhiều pháp tu, lắm phương thức nghiệm, muôn vàn cách chứng, muốn kể ra thành lời cũng không bao giờ cùng (Có thể câu “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa” mang nghĩa này). Chỉ mới định nghĩ đến chúng đã cảm thấy ruột gan rối như rợ vô rừng; do đó ThyLoan nào dám suy về những luật điều cấm kỵ phương chi nói tới thực hành. Hơn nữa, mỗi người được sinh ra với thể chất khác nhau, ấy là chưa dám nói tới điều hiển nhiên hình dạng không giống, thêm vào đó căn cơ nào ai giống ai, tất nhiên sẽ không có một pháp nào chung cho mọi người. Kiến tính nào phải công thức khoa học hay công thức toán rõ ràng một cộng với một là hai, thế thì sao có thể nói về pháp tu đại chúng. Hơn nữa, cũng chính bởi ThyLoan suýt nữa bị khốn khổ vì lòng cảm mến thực nghiệm Yoga, nói cho đúng có lẽ ham danh tiếng “thiền sư,” mắt nhắm mắt mở nhào vô thực tập ngồi luyện công, hít hít, thở thở, dùng tư tưởng dẫn khí chạy lòng vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (Từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên, để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Đạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (tiểu vũ trụ)” (XPHB; Tr.4). Cũng may trời ban cho ThyLoan bản tính vốn lười ỳ nên (hơi có chút da chút thịt, mới gần trăm năm chục cân Anh, không đến nỗi ốm quá) chẳng thiền được bao nhiêu. Một hôm nhờ được con bạn lắm mồm lắm miệng la hoảng lên bởi vô tình nói chuyện, khoe dấm khoe mẻ với nó, nếu không ThyLoan chỉ còn nước ngồi xe lăn, sống dở, chết dở. Sợ rồi, ThyLoan chỉ âm thầm cảm phục, kính ngưỡng các vị chân nhân đã ròng rã tiêu hao bao năm tháng, người luyện Hatha Yoga, đấng thiền Kriyâ, ông theo giới Tiểu thừa, bà mường tưởng Zen. Rồi nào Qui Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.
Điểm cuối cùng là ngộ hay kiến tính, “Kiến Tính thành Phật,” Lục tổ Huệ Năng bảo thế, đâu cần phải theo pháp nào vì pháp nào thì cũng đều là pháp thứ hai, pháp không cần thiết. Đàng khác, đạo Phật là đạo minh triết thì cứ minh triết mà theo cần gì phải ngồi, phải tọa; “Ngồi nhiều sinh bệnh,” Lục tổ cũng nói thế. Điểm đáng nói đó là không tổ nào chê minh triết mà còn phải sử dụng nếu không muốn nói là cổ võ. Hơn nữa, minh triết tức là dùng trí để suy nghĩ và dùng trí để nghiệm, để chứng những điều đã nghiệm được. Thế thì hành thiền hay minh triết nào có khác chi nhau. Suy nghĩ và thực chứng được nhận định tiệm và đốn do lệ thuộc căn cơ từng người. Người thông minh, nghe một suy luận ra mười chắc chắn ngộ nhanh hơn kẻ nghe mười nhận biết một. Trường hợp này được gọi tiệm ngộ. Đốn ngộ thì bất chợt, chẳng khác gì cá chép vượt vũ môn hóa rồng. Có sách giảng về tiệm ngộ là hành trình đốn ngộ trong khoảng thời gian lâu dài. Thí dụ, đứa bé từ khi được sinh ra đã là người (căn cơ) nhưng cần thời gian phát triển để trở thành một người trưởng thành (ngộ), chứ không phải, nói theo ngài Bankei, nuôi con dê lâu ngày rồi nó ngộ thành con sư tử. Con sư tử vừa được sinh ra đã là sư tử. Trường hợp đốn ngộ, trong cuốn Phật Học Tinh Hoa, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu truyện được trích từ Truyền Đăng Lục như sau: “Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi: “Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!” thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho kỳ được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: “Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!” Nhiều lần ông khất cầu tổ Huy Sơn nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, “Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!” Hương Nham tức mình, đem tất cả kinh luận ra mà đốt hết rồi qua đất Nam Dương học nơi Tuệ Trung quốc sư. Ông khổ công nghiên cứu lâu ngày chầy tháng. Một hôm đi phát cỏ chặt cây, vô ý liệng một miếng miểng sành đánh trúng vào thân cây trúc, liền nghe phát ra một tiếng ngân lạ lùng, bỗng liền khoát nhiên tỉnh ngộ! (PHTH; Tr.80-81).
Kiến Tính thành Phật là pháp độc nhất vô nhị; tất cả các pháp khác đều là pháp thứ hai. “Dùng trí huệ chiếu soi trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm” lại vướng vấp nơi trí huệ, chiếu soi thế nào, trong ngoài sáng tỏ nghĩa là làm sao. Nghe nhà Phật nói thì không khó nhưng ngôn từ quả không tổ nào nói giống tổ nào, và thế là hành giả muôn đời cứ bị luẩn quẩn bởi ngôn từ không biết đường mô để “hành thật.” Vậy thế nào là minh triết, sự áp dụng của pháp vô nhị “Kiến Tính thành Phật” sao cho vừa dễ, vừa chắc ăn, tránh “tẩu hỏa nhập ma,” vừa tiện, thuận lợi cho mọi người thuộc mọi giới, ở mọi thời và mọi nơi?
Xin thưa, rất đơn giản, chỉ gồm có hai chữ “Công Aùn.” Công án là một trong những kỹ thuật các vị tổ thiền sau thời Huệ Năng áp dụng giúp môn đồ định tâm trong haønh thieàn và thai nghén sự chứng ngộ cho các môn đồ. Cũng xin nhắc lại, vì căn cơ khác nhau nên các vị tổ dùng các kỹ thuật khác nhau đối với từng môn đồ nên ThyLoan chỉ viết về công án còn những kỹ thuật khác, nếu bạn nào muốn thử, xin đọc nơi cuốn Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa do cụ Nghiêm Xuân Hồng biên soạn nơi những trang 245 - 283.
Nhà Phật có hơn 1700 công án; cố suy nghĩ sao cho cảm nhận được ý nghĩa của công án một cách hợp tình hợp lý trong mọi trường hợp, và nếu không thể chấp nhận ý nghĩa ám định, luôn luôn cố tìm kiếm cho ra. Hôm nay không được, mai; tháng này không xong, tháng tới; năm này không hài lòng, thêm năm nữa, rồi sẽ biết. Có những công án sẽ không thể nào giải quyết được nhưng điều đó mới tuyệt vời vì nó là phương tiện cho tâm trí mình ngưng đọng không bị dao động bởi những toan tính huyễn. Điều gì cũng muốn biết nhưng cái biết tầm thường chỉ làm loạn trí, vô minh. Biết đủ mọi sự nhưng điều cần biết lại không biết chỉ luôn luôn gặp khốn khó. Thêm vào đó, cũng phải chấp nhận, chúng ta quả thực mang bản chất thông minh nên mới được sinh vào thời đại này; tuy nhiên, có những công án hôm nay cảm thấy đã có được câu trả lời, ngày mai thấy câu trả lời không ổn, suy nghĩ lại, mai có câu trả lời khá hơn nhưng mốt thấy không thể áp dụng trong mọi trường hợp, suy nghĩ thêm. ThyLoan biết chắc bạn sẽ ngỡ ngàng, và có được niềm vui cũng như nỗi an bình đồng thời bổn tâm tự tại không thể chia sẻ được với ai, mà nhiều khi vì lòng ruột bồng bột vô tình nói ra, coi chừng bị nhìn như kẻ ngây. Đặc biệt những bạn còn trẻ, cha mẹ bạn không trẻ đâu, hãy tránh bị cho là hỗn xược, bởi chỉ bạn biết. Nào, xin mời vào cuộc.
1/ Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng. 2/ Người biết không nói, kẻ nói không biết (Lão). 3/ Cái cực lớn nhỏ hơn cái cực nhỏ. 4/ Cái không chiều dày thì không chồng chất lên được nhưng nó cao không biết tới đâu. 5/ Trời với đất đều thấp như nhau; núi và chằm đều cao bằng nhau (Huệ Thi). 6/ Mặt trời vừa mọc đã bắt đầu xế; vật vừa mới sinh ra thì đã bắt đầu tiến đến chỗ chết (Huệ Thi). 7/ Xét chỗ giống nhau lớn với chỗ giống nhau nhỏ thì hai chỗ giống nhau đó có khác nhau, đó là những chỗ giống nhau, khác nhau nhỏ. Vạn vật hoàn toàn giống nhau và hoàn toàn khác nhau, đó là những chỗ giống nhau, khác nhau lớn (Huệ Thi). 8/ Phương nam vô cùng mà lại hữu cùng (Huệ Thi). 9/ Trứng có lông (Huệ Thi). 10/ Gà có ba chân (Huệ Thi). 11/ Ngựa có trứng (Huệ Thi). 12/ Con ễnh ương có đuôi (Huệ Thi). 13/ Núi từ trong miệng mà ra (Huệ Thi). 14/ Bánh xe lăn không chạm đất (Huệ Thi). 15/ Mắt không nhìn thấy (Huệ Thi). 16/ Tai không nghe. 17/ Rùa dài hơn rắn (Huệ Thi). 18/ Cái củ không làm được hình vuông; cái quy không làm được hình tròn (Huệ Thi). 19/ Cái lỗ mộng không ôm được cái mộng (Huệ Thi). 20/ Khi con chim bay cái bóng nó không hề nhúc nhích (Huệ Thi). 21/ Mũi tên bay thật nhanh mà có lúc nó không bay và có lúc nó không ngừng (Huệ Thi). 22/ Con chó con không phải là con chó (Huệ Thi). 23/ Một con ngựa vàng và một con bò đen cộng là ba (Huệ Thi). 24/ Con ngựa mồ côi chưa hề có mẹ (Huệ Thi). 25/ Cái gậy một thước, mỗi ngày chặt lấy một nửa, vạn đời cũng không hết (Huệ Thi).
Trích Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa:
26/ Tôi dạo bước, hai bàn tay trống trơn nhưng chiếc guốc trong bàn tay tôi. 27/ Tôi đi chân, nhưng ngồi ở trên lưng con bò. 28/ Tôi qua một chiếc cầu nhỏ. Ô kìa! Hãy nhìn xem, giòng nước đâu có chảy mà chính chiếc cầu chảy. 29/ Nếu các ngươi có một chiếc gậy, ta sẽ cho các ngươi chiếc gậy. Nếu các ngươi không có chiếc gậy, ta sẽ lấy chiếc gậy của các ngươi. 30/ Một vị tổ thiền lên thuyết pháp, giơ chiếc gậy lên nói: “Cái này là cái gì? Nếu các ngươi bảo là chiếc gậy, ta sẽ đánh cho 30 trượng. Nếu các ngươi bảo không phải là chiếc gậy, ta cũng đánh cho 30 trượng. Hãy nói đi! Nói đi! 31/ Một vị tổ thiền nhận được một tấm gương do người ta gửi biếu. Ông lên thuyết pháp, giơ tấm gương nói: “Chiếc gương này là của ai? Của ta hay của người biếu ta? Nói là của ta, thì ta vừa mới nhận được nó xong. Nói là của người biếu ta, thì tại sao giờ đây nó lại ở trong tay ta? Các ngươi hãy trả lời đi! Trả lời đi! 32/ Có người hỏi Huệ Năng, “Ai là người đã thấu triệt bí quyết trong nền giáo lý của đức Hoàng Mai (Hoàng Nhẫn)?” Huệ Năng trả lời, “Kẻ nào hiểu được giáo lý nhà Phật thì thấu triệt được bí quyết của đức Hoàng Mai.” Người ấy lại hỏi, “Thế hòa thượng có thấu triệt được bí quyết ấy không?” Huệ năng nói, “Ta không thấu triệt được. Tại sao thế? Vì ta không hiểu nền giáo lý của Phật.” 33/ Có người hỏi một vị tổ thiền: Cái gì là đạo? Vị tổ thiền trả lời: Cái tâm thức thông thường của ngươi là đạo. 34/ Vị tổ thiền nói: hạt cát này chứa đựng ba ngàn thế giới. Vòm trời kia nằm ở trong bông hoa dại này. Ta nắm trong tay cõi vô cùng, và thời gian vô tận ở trong khoảng sát na này. 35/ Huệ Khả tới cầu đạo đức Đạt Ma, quỳ mọp trước sân chùa. Giờ lâu, Đạt Ma mở mắt hỏi, “Ngươi muốn gì?” -”Đệ tử muốn đức Đạt Ma an tâm cho.” -”Ngươi hãy đem tâm ra đây để ta an cho.” Giây lâu Huệ Khả thưa, “Đệ tử tìm mãi không thấy tâm đâu cả. -”Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.” 36/ Đạo Tín đến xin thụ giáo Tăng Xán. Đạo Tín bạch, “Xin Hòa thượng chỉ dạy cho con về pháp môn giải thoát.” -”Cái gì trói buộc ngươi?” Hồi lâu Đạo Tín đáp, “Không có gì trói, gì buộc hết. -”Vậy thì việc gì phải đi tìm giải thoát.” 37/ Một người đệ tử tới xin thụ giáo Huệ Năng. Ngài hỏi, “Ngươi ở đâu tới?” -”Thưa tôi ở Hồ Nam tới.” -”Cái người tới đó là ai vậy?” 38/ Một vị tăng ngồi niệm Phật, chuyên chú vào việc tụng niệm. Một vị tổ thiền tới gần hỏi, “Ai là người niệm Phật?” 39/ Có người hỏi Vân Môn Văn Yến, “Khi không còn một ý nhiệm nào hết ở trong tâm thức thì còn có sự sai lầm không? -”Sai lầm lớn như núi Tu Di.” 40/ Có người hỏi Mã Tổ Đạo Nhất, “Tôi tìm kiếm mãi mà không hiểu Phật tính là gì? Xin Hòa thượng chỉ giáo.” Mã tổ trả lời, “Cái tâm thức không hiểu ấy chính là Phật tính.” 41/ “Tôi lận đận tìm kiếm Phật lâu rồi nhưng không thấy. Mà bây giờ không biết kiếm đường nào nữa. Xin Hòa thượng chỉ giúp cho.” Bách Trượng bảo, “Nhà ngươi tương tự như người đương cưỡi bò mà lại đi tìm bò.” Vị tăng thưa, “Nhưng một khi tìm thấy rồi thì phải làm gì?” -”Tương tự như người cỡi con bò trở về nhà mà thôi.” Vị tăng lại hỏi, “Trong tất cả những việc đó, tôi phải lưu tâm làm gì?” -”Tương tự như anh chăn bò, phải lấy cây gậy lùa bò đừng cho nó đi ăn mạ của người khác.” 42/ “Thế nào là nhẹ nặng chia làm sáu nẻo?” -” Chúng sanh chẳng rõ chánh nhân, mê tâm tu thiện, chưa thoát ba cõi, thác sanh ở ba nẻo tội nhẹ.” -”Thế nào là ba nẻo nhẹ?” -”Ấy là mê tu mười điều thiện, vọng cầu vui sướng, chưa thoát cõi tham, thì sanh ở nẻo trời; mê giữ năm giới, vọng lòng thương ghét, chưa thoát cõi sân, thì sanh ở nẻo người. Mê chấp hữu vi, tin tà mong phước, chưa thoát cõi si thì sanh ở nẻo a tu la.” (SCTT). 43/ Tâm đục ắt chúng sanh đục; tâm tịnh ắt chúng sanh tịnh. (SCTT). 44/ Sự tức là pháp, pháp tức là sự. (SCTT). 45/ Đốt hương cúng Phật có lợi chăng? Lợi; lợi cho người bán hương. (SCTT). 46/ Mượn nơm đơm cá, được cá cần quên nơm. Mượn lời cầu ý, được ý quên lời. (Trang Tử). 47/ Người tuyệt khéo như vụng. (Lão). 48/ Người có tài ăn nói, thì lắp bắp. (Lão). 49/ Đức Giêsu nói, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai con gái hơn ta không đáng là môn đệ ta.” 50/ Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết. (Lão). Những công án nơi www.koans.com <http://www.koans.com> .
13/ THIÊN ĐÀNG
ThyLoan chưa chết cũng chưa bao giờ nhìn thấy hồn của mình. Nói như vậy, ThyLoan phải sơ lược nói lên quan niệm liên hệ về câu vừa viết gồm có chỉ 10 tiếng (ngôn từ). ThyLoan chỉ là bút hiệu của một người đang gõ những hàng chữ này trên bàn chữ điện toán. “Mình” hay ThyLoan đồng nghĩa nhưng khác chữ, chỉ con người gồm hai thành phần, tâm linh và thân xác. Hồn là thành phần tâm linh. ThyLoan chưa bao giờ nhìn thấy cái hồn của mình hình dáng ra sao; có cánh hay đuôi hoặc không có, màu sắc thế nào. Nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí, lạt ma Lobsang Rampa cho biết, “Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thực ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hề hay biết, còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn, nhờ đó họ có thể nhớ rõ tất cả những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở Phương Tây, bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đã trải qua một giấc mộng” (Nguyễn Hữu Kiệt dịch; Xuân Thu; CA; USA; 1988; Tr. 171). Tất nhiên, “Đố ai nằm ngủ không mơ,” văn chương nhân gian còn ghi lại thế. ThyLoan đã mơ khá nhiều nhưng mơ thì mơ vẫn chưa bao giờ nhận biết được hình dáng hồn mình ra sao. Cũng bởi chưa chết lại không biết thuật xuất hồn, ThyLoan chưa bao giờ có được khái niệm nơi phương diện hình ảnh về thiên đàng hoặc niết bàn. Thế nên, viết về thiên đàng (Kytô giáo) và niết bàn (Ấn và Phật giáo), ThyLoan chỉ thử dùng sự suy tưởng hòa hợp với phần nào nghiệm chứng từ những ý niệm được trình bày nơi một vài cuốn kinh sách. Hơn nữa, nói về những gì chính mình đã thực nghiệm còn khó thay, phương chi dám ba hoa chích chòe về thực thể hay vấn đề chỉ mới nhá lên trong ý niệm. Nói cách khác, ThyLoan uống cà phê thay nước nhưng sao có thể giãi bày hay diễn tả bằng chữ viết để độc giả cảm thấy nơi miệng mình vị đắng hay hơi chua của cà phê thường được bán nơi các tiệm tạp hóa của Mỹ, đem về nhà pha bằng máy pha cà phê bình thường cũng được mua ở tiệm Mỹ (điều này có nghĩa vị của nó tệ hơn cà phê phin). Có vị nào cảm thấy hơi đăng đắng nơi miệng khi đọc đến đây chưa? Trật lất, ThyLoan uống chè cà phê, nên rất ngọt, hà hà. Chỉ đơn sơ đưa lên thí dụ đơn giản về cà phê, quý vị thừa hiểu những gì ThyLoan viết đều thuộc về suy luận. Chớ dại mà hỏi ThyLoan trên thiên đàng bông hồng có nở quanh năm không, hoặc nơi niết bàn có thấy vị bồ tát nào không! Đơn giản thôi, ThyLoan vẫn đang có thể uống chè cà phê.
Vì theo đạo Công Giáo, ThyLoan quá quen thuộc với danh hiệu thiên đàng, do đó thử suy niệm điều gì dễ trước, hy vọng những gì đã nhận biết sẵn dẫn dắt tâm trí chiêm ngưỡng những phần chưa được biết nơi điều ít quen biết. Bình thường, danh từ thiên đàng được chỉ về “mơ ước” của những người theo Kytô giáo như là phần thưởng dành cho linh hồn của họ sau khi đã trải qua cuộc sống cùng với thân xác nơi thế trần này trong khoảng thời gian nào đó. ThyLoan dùng ngôn từ “mơ ước” ám chỉ tâm tình cảm thấy không đáng được hưởng. Thực ra, nếu chúng ta đã có được gì, chúng ta không cần mơ ước nó nữa vì chúng ta đã có. Nơi phương diện tiền bạc hay tình cảm, danh vọng, nếu mơ ước, chúng ta mơ ước có thêm chứ vẫn không mơ ước những gì đang có (quý vị có gia đình nên để ý điểm này). Ngày còn nhỏ ThyLoan thường đến nhà ông quản học kinh bổn nên thuộc lòng được định nghĩa đơn sơ về thiên đàng như sau: Thưa thiên đàng là nơi Chúa thưởng công cho các linh hồn được hưởng mặt Thiên Chúa, sống vui vẻ, thanh nhàn, mát mẻ, hạnh phúc đời đời chẳng cùng amen. Không hiểu có mát bằng chiếc tủ đá đựng thực phẩm hay không và hạnh phúc thế nào, có hồi hộp như tâm tình nam nữ nơi những cuộc hẹn hò mới quen hay chăng; bổn đồng ấu không có câu giải thích, và ông quản cũng bí tịt bởi ông có bà vợ quá dữ dằn, hay ghen tương lung tung. Viết đến đây, ThyLoan chợt nghĩ, có lẽ hạnh phúc của ông quản dạy bổn cho ThyLoan ngày đó đơn giản chỉ là có được ngày nào vắng mặt bà quản một buổi tối tha hồ kề cà uống rượu một mình với đậu phọng rang mà thôi. Như thế sao ông có thể giải thích về hạnh phúc thiên đàng!
Nơi Phúc Âm, thiên đàng còn được mệnh danh bằng Nước Thiên Chúa, Nước Trời. Thực thể nước trời như thế nào theo quan niệm Công Giáo, ThyLoan thấy không cần thiết phải nói tới. Lý do, ThyLoan đã phải mò vào thư viện của địa phận Công Giáo lật nơi bốn cuốn, Catholicism (Richard P. McBrien; Winston Press; MN; USA; 1981), cuốn The New Dictionary of Theology (Michael Blazier xb; Delaware; USA; 1988), The New World Dictionary Concordance to the New American Bible (C.D. Stampley Enterprises, Inc; 1970), Encyclopedia Britannica Vol.11; USA; 1973), nhưng những gì kinh viện nhà đạo quan niệm chỉ giống như bánh vẽ chẳng thể nào nghiệm được, chép lại e độc giả mắng cho là vô tích sự, mất giờ đọc, nên ThyLoan không quan tâm tới. Uổng mất một buổi chiều! Phần lớn các ghi chú đều chỉ về những câu Phúc Âm. do đó ThyLoan thử lục lọi xem lời Đức Chúa nói gì về chốn con dân ngài mơ tưởng. Hơn nữa, nơi Kinh Thánh, ThyLoan thích nhất một câu và một đoạn của PhaoLô (St. Paul), “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8); “Đừng dập tắt Thần khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5: 19-21). Lý do, trong Kitô Giáo, không ai hơn được PhaoLô... mà ngài đã phải nói lên những điều này. Nào có khác chi “Lời ta nói như chiếc bè,” hoặc, “Kinh điển của Phật nói như ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu thấy được mặt trăng thì rõ biết ngón tay chỉ kia cứu kính không phải là mặt trăng. Tất cả những ngôn thuyết của Như Lai để mở bày cho Bồ Tát cũng lại như thế. Đây gọi là Bồ Tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên Giác” (KVG. Tr. 117). “Nghiệm xét mọi sự” là phương thức ThyLoan áp dụng để giãi bày qua những hàng chữ này.
Viết đến đây, ThyLoan xin được tạm gọi là “nguỵ biện” đôi điều. Trước hết, mở rộng tâm hồn như mọi người đón nhận sự khôn ngoan tâm linh và thế tục, ThyLoan viết để phần nào nghiệm chứng, biến những cái biết vương vãi vô tổ chức, cái nọ chống đối cái kia không căn cơ, để có được lòng tin chân thành hướng dẫn đời mình. Thứ đến thực tế minh chứng, không ai có thể ăn dùm cho ThyLoan, chẳng ai uống dùm được thì ThyLoan có bổn phận nghi ngờ những suy tư hoặc phát biểu ngoài da. ThyLoan không muốn chống đối hoặc đụng chạm đến bất cứ ai, ngược lại tôn trọng niềm tin của họ dẫu thế nào. Đúng với họ, hay với họ, tuyệt vời với họ nhưng phỏng ThyLoan có chấp nhận được không, có áp dụng nơi cuộc đời được không mới là điều quan trọng. Người ta bay được như chim, nhưng đôi chân ThyLoan vẫn chưa rời khỏi mặt đất thì sự bay như chim dẫu tuyệt vời, đáng chiêm ngưỡng. Tuy nhieân, sự thể mang đôi guốc lê lết trên mặt đất vẫn đáng được sử dụng, dẫu nó mất thời giờ; vì ThyLoan không được sinh ra để bay, mặc dù cố tìm cách bay, có thể cho tới chết. ThyLoan có được cơ hội trực tiếp nói chuyện với hai người đã thực sự đối diện với thực thể bên kia sự chết. Một bà theo Methodist, bà được đưa vào bệnh viện cứu sống. Hồn bà trong lúc ấy nhìn rõ mọi việc, thấy rõ gia đình nhà chồng (Công Giáo) đọc kinh cầu nguyện cho bà. Bà vẫn còn sống. Một ông khác thuộc hội Knights of Columbus, trong khi thân xác ñang được baùc só vaø y taù cứu sống, hồn ông gặp lại ông nội, chết đã 29 năm, bố của ông ta chết 7 năm, và thaáy ñöôïc nguồn sáng tuyệt vời. Lúc bác sĩ, y tá cứu thân xác ông sống lại, ông ta rất bực bội, nói rằng cướp mất của ông niềm hạnh phúc tuyệt vời; bà vợ của ông chứng thực điều bất thường, thích được chết hơn sống này. Cả hai đều là người Mỹ hiện còn đang sống với gia đình họ, coi tất cả những danh vọng, quyền hành, giầu có như không, một tại Columbus, một tại Tyler Town, MS. So sánh những gì họ kể lại với những gì được viết do bác sĩ giải phẫu Melvin Morse trong cuốn Transformed by the Light quả là hợp lý, hợp tình nhưng họ không thể kể rõ ràng chi tiết như những gì bác sĩ Melvin Morse đã viết. Xét thế, người khác được có cơ hội, ThyLoan không “bị trải qua” những trường hợp đó (thích nhưng sợ) nên giữ trong lòng, nghiệm chứng. Vì vậy, viết về thiên đàng, dẫu theo đạo Công Giáo, dẫu được dạy dỗ giáo lý Công Giáo, ThyLoan vẫn cần nghiệm chứng thực thể nó như thế nào bởi không có kinh nghiệm đổi đời như những người khác. Thế nên, ThyLoan chỉ suy nghiệm những gì được Phúc Âm công bố; bởi những ai đã nghiệm được câu “Người biết không nói, kẻ nói không biết” nơi Lão học, hoặc “Hãy nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:20) nơi Kinh Thánh, hay “Nước nóng lạnh người uống tự biết” ở nhà Phật; cái mỏ thực thể quý giá nhất, gần mà cũng xa mình nhất, lại là chính cõi lòng của mình mà chúng ta đã vô tình không để ý. Kinh sách, kinh nghiệm, kiến thức, chỉ là phương tiện. Phật tại Tâm; Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Vũ trụ đồng nhất thể; Tào như nước; ai không thừa biết những lời phát biểu này, thế nhưng sao vẫn bị khắc khoải, vẫn cúi đầu khiêm nhận mình vô minh! Có thể rằng chúng ta đã thừa phương tiện và nhận thức để sống theo huyền đồng, niết bàn, thiên đàng, nhưng cắc cớ thay, từ ngữ “thân” được viết trước khi có được chữ “thần” và dĩ nhiên, chữ thần bao gồm trọn vẹn chữ thân. Có phải do một lý biến dịch nào đó, tiếng Việt cũng là phương tiện minh chứng sự huyền nhiệm nơi mỗi người chúng ta.
Nơi Phúc Âm, chúng ta đọc được, “Hãy tìm kiếm Nước trước đã và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33); nơi sách các bài đọc được đổi thành, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Người và mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi.” Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu đơn giản chỉ là, “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Viết đến đây ThyLoan cần phải mở dấu ngoặc. ThyLoan dùng bản dịch Kinh Thánh của Nguyễn Thế Thuấn, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế; phát hành năm 1976; được duyệt xét năm 1975). Mới có hai câu, đã được nghe đến độ nhàm tai, mà ThyLoan đã thấy nhiều điểm cần được minh định về tính chất phát biểu hơi khác thường chứa đựng nơi chúng nếu đem so sánh với toàn bộ bốn cuốn Phúc Âm: “Trước đã hay tiên vàn” “Nước hay Nước Thiên Chúa,” “Thời giờ đã mãn,” “Gần bên,” “Hối cải,” “Tin Mừng.” Thöû hoûi ThyLoan có “thừa giấy vẽ voi” hay quen thói “bới bèo ra bọ” không; tuy nhiên, chúng cứ cố tình đánh động tâm trí như thách đố. Hừ, muốn chơi thì chơi, thử thì thử, mời lên diễn đàn ngôn ngữ!
“Trước đã hay tiên vàn.” Ai là người không cảm thấy lộn ruột khi đọc, “Vì thế Ta bảo các ngươi, chớ lo cho mạng sống mình, các ngươi ăn gì, hay về thân xác, các ngươi mặc gì. Há mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy coi chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao? Ai trong các ngươi chỉ lo mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa? Còn về áo mặc, các ngươi lo làm gì? Hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng xem chúng lớn lên thế nào? Không nhọc nhằn, cũng chẳng canh cửi! Nhưng Ta bảo các ngươi, Salômôn trong tất cả vinh hoa đời ông cũng không ăn mặc sánh tày một đóa hoa đó. Nếu cỏ đồng nội, nay còn, mai sẽ quăng lò, mà Thiên Chúa còn mặc cho như thế, thì huống chi là các ngươi, hỡi quân yếu tin! Vậy các ngươi chớ lo mà rằng, ta sẽ ăn gì, ta sẽ uống gì, ta sẽ lấy gì mà mặc. Các điều đó dân ngoại kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi, Đấng ở trên trời biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy. Hãy tìm kiếm Nước trước đã và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt.6: 25-33). Chắc có lẽ những người theo Kitô giáo đều cúi đầu chấp nhận ngoại trừ ThyLoan cần phải nghiệm chứng. Sống ở đời, biết bao kẻ tay lấm chân bùn, làm ăn cực khổ mà miếng cơm manh áo vẫn luôn luôn là mối lo lắng. Nào có ai được thuê ngồi chơi xơi nước bao giờ đâu, có chăng ngược lại, có làm mà không được trả công nên thường được nói là “Ăn cơm nhà, vác ngà voi.” Dĩ nhiên, chúng ta không phải là chim chóc hay cây cỏ nên phải kiếm miếng cơm manh áo; bởi đâu ai muốn trở thành gánh nặng cho những người chung quanh, cho xã hội. Tức vì thấy phi lý nên càm ràm mấy câu làm bẩn tai quý vị. Điểm ThyLoan muốn nêu lên đó là Phúc Âm nói cho chúng ta biết sự tìm kiếm Nước Thiên Chúa, Nước Trời quan trọng hơn bất cứ gì nơi cuộc đời. Thực ra, nếu ThyLoan có được tâm tính hiền hòa, nhẫn nhục, bảo sao biết vậy thì mọi sự đều êm xuôi, tâm trí không nhảy choi choi lên vì những lời lẽ hữu lý nhưng nghịch thường nơi Phúc Âm, và như thế cũng sẽ không bao giờ thèm để ý đến Phúc Âm viết gì hay muốn nói gì, dạy gì. Thêm nữa, nhân gian có câu, “Có thực mới vực được đạo.” Thử hỏi, với chiếc bụng trống rỗng, hai ngày không có gì ăn, ai là người có thể vác xác tới nhà thờ, khiêng xác thì có, khiêng đi chôn! Đàng khác, ngoại trừ Phúc Âm Luca có đoạn nói tương tự đoạn Phúc Âm Mt., không một phần nào của bốn Phúc Âm nói về điều quan trọng bậc nhất này, quan trọng hơn cả của ăn, áo mặc. Phúc Âm nói cho chúng ta biết sự tìm kiếm Nước Thiên Chúa là việc quan trọng và khẩn cấp nhất đối với đời sống của một người. Vậy Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì?
Theo danh hiệu hay danh xưng “Nước Thiên Chúa” gồm hai phần, Nước, bản tiếng Mỹ dịch là “Kingdom” và Thiên Chúa. Chúng ta thừa biết Thiên Chúa là danh hiệu chỉ quyền lực tối thượng, gốc gác phát sinh mọi tạo vật. Phúc Âm Gioan xác định rõ một đặc tính của Thiên Chúa, “Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Gn. 4:24). Đạo học Đông Phương nói cái có bởi, hay phát sinh từ Cái Không; Phật học thách đố “chứng cái Không, cái Vô” cũng ở điểm này. Thấy chưa! Nói thế thì bố ai hiểu được, hỡi những nhà học giả, học thật; mà nào còn cách chi nói hay dịch khác hơn. Thôi thì cứ để học giả làm việc của học giả, học thật đấu trí với học thật. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha; Ngài cũng dạy các môn đồ gọi Thiên Chúa là Cha, “Lạy Cha chúng con ở trên trời.”
ThyLoan không muốn bàn thêm về “trời” nơi câu cầu nguyện này nên chỉ nói gọn nó có nghĩa “vô hình.” Theo lối suy luận bình thường của những người được coi là tin vào Thiên Chúa, hay tin vào Đức Kitô, Thiên Chúa được nhân cách hóa và được gán cho những đặc tính giống như con người hữu vi, “Thiên Chúa thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ.” Ngược lại, Phúc Âm nói, “Ta bảo các ngươi, hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm đối nghịch với quan niệm về Ngài của dân Ngài, nhưng mấy ai để ý! PhaoLô xác quyết, “Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em? Ai hủy hoại đền thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ hủy hoại người ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là vật thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cor. 3:16-17). Ô hay, nếu thế ThyLoan cóc sợ cái hỏa ngục nữa vì chẳng lẽ Thiên Chúa dám quăng Thần Khí của Ngài xuống đó; mà Thần Khí của Chúa chính là Thiên Chúa. Có ai phản đối lối lý luận cù nhầy này không? Nơi 2Cor. PhaoLô cũng nhấn mạnh, “Hòa hợp thế nào được giữa đền thờ Thiên Chúa và tà thần? Vì ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (6:16), nghe phê thì thôi!
“Thiên Chúa là Thần Khí; Thiên Chúa cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác; Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thiên Chúa ở nơi mọi người; Thiên Chúa hoạt động nơi mọi loài, mọi vật; thế nên con nhà có đạo nói Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, và dân New Age gọi Thiên Chúa là Energy; vì khoa học minh chứng tất cả mọi sự, mọi vật, hữu hình và vô hình đều là những sự kết hợp của energy dưới những dạng thức khác nhau. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, hoạt động nơi mọi loài thì Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Luận chứng này giải thích câu Gioan 1: 1, “Và Lời là Thiên Chúa. Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì đã thành sự.” Lời nói hay lời phát biểu phát xuất từ tư tưởng, ý nghĩ. Đức Giêsu được gọi là Ngôi Lời vì Ngài rao giảng ý của Thiên Chúa Cha. Đây là lý do tại sao Đức Giêsu công bố “Nếu Ta không làm các việc của Cha Ta, các ngươi đừng tin Ta” (Gioan 10:37). Công việc của Đức Giêsu chỉ là, “Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43). Vậy sự công chính của Thiên Chúa như thế nào? “Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên ngươi ngay và kẻ ác.” Chúa không phân biệt đứa con nào đúng, đứa nào sai, Chúa phù hết. Quý vị đã thấy ThyLoan có vẻ con nhà đạo nằm ngửa đầy gốc gác Kinh Thánh, lại thêm chút kinh viện chưa?
Thử tổng hợp những ý nghĩa lang thang thuộc về câu “Hãy tìm kiếm Nước trước đã và sự công chính của Người” ThyLoan chỉ dám thử thôi chứ không dại gì “vác ngà voi” bởi dẫu thậm phục Đức Giêsu thức ngộ cao nhưng, lạy Chúa tôi, sợ cây thánh giá lắm! Thiên Chúa ngự trị nơi mình, Thiên Chúa hoạt động nơi mọi tạo vật. Bởi vậy, “Hãy tìm kiếm Nước trước đã và sự công chính của Người” mang nghĩa, việc quan trọng nhất đối với một người đó là nhận biết Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu, quyền lực tối thượng đang hiện hữu nơi chính mình, đồng thời phải có cái nhìn vượt hẳn lên khỏi lối suy luận thị phi, nhĩ ngã.” Ah ha! Thế là Kinh Thánh lôi ngay Phật Tính, Tâm Phật, và Tâm bát nhã của nhà Phật ra làm điều kiện tiên quyết. Uûa, Phúc Âm viết lộn hay ThyLoan rối đạo? Hô la la! Công việc vác ngà voi này coi bộ nguy hiểm, lỡ bị rút phép thông công thì tàn đời con nhà có đạo.
Lỡ rồi! Ai bảo con bé dám ba hoa chích choè múa gậy vườn hoang “thử thì thử” nên đã lỡ phóng lao phải theo lao, đành nhắm mắt phóng bừa. “Thời giờ đã mãn,” tới giờ rồi, gấp lắm rồi, lửa cháy đến nóc nhà rồi. “Gần bên,” tiếng Mỹ dịch là “at hand” đã có sẵn, đang hiện diện, đang có. “Hối cải,” được dịch từ động từ “Metanoia” nơi ngôn ngữ Hy Lạp mang khá nhiều nghĩa: nhìn vượt lên, thay đổi chiều hướng, suy nghĩ khác thường, tẩy não, xoay ngược trở lại, vất bỏ quá khứ, cải thiện, canh tân, hối cải, ăn năn, sơ sơ mới có vậy. Phiền hà nhất lại là “Tin Mừng.” Bình thường, đi nhà thờ được nghe các cố đạo công bố và rao giảng Tin Mừng nhưng ai thì không biết mà quả khốn khổ thay cho ThyLoan. Đếm từng bước chân đến nhà thờ (cho có vẻ dư giả văn chương), lòng mừng khấp khởi vì sắp được nghe Tin Mừng; nhưng khi bước ra khỏi cửa nhà thờ để trở về lòng ThyLoan buồn rười rượi vì lo sợ. Tin Mừng đâu không thấy mà chỉ nào là Chúa phạt, nào phải thế này, phải thế kia. ThyLoan đã bao lần tự hỏi, cái tội tổ tông kinh khủng gấp bao nhiêu lần tội lỡ bỏ lễ ngày chủ nhật mà chỉ bị phạt không “bị” ở vườn địa đàng buồn tênh, chẳng gì hấp dẫn để rồi được quăng xuống hỏa ngục trần gian này tha hồ vui thú, sinh con đẻ cái, rồi nào nay “birthday,” mai dạ vũ, mốt nhậu, sáng là đà, trưa xỉn, chiều say, tối lăn quay, quên cả bà xã, thế mà cố đạo cứ tuyên xưng Chúa như lão già phù thủy thần thông có cả muôn tỷ con mắt dòm chừng hăm he phạt, phạt. Thành ra, những ngày còn nhỏ không đi nhà thờ bố mẹ đánh phải sợ nên đi. Lớn lên, mang danh nghĩa Công Giáo, không đi nhà thờ thì người này xì xèo tội lỗi, kẻ khác khuyên nhủ chẳng nên khô khan; lại còn lắm người ra lườm vào nguýt vì, có đạo mà như vô thần, nên ế chỏng ế chơ! Giời ơi! Vậy Chúa Giêsu có đôi đâu! ThyLoan thầm nghĩ, nhưng cũng đành đi cho giống như mọi người. Lẽ tất nhiên, “Không mợ thì chợ vẫn đông. Không mợ chợ chẳng bỏ không ngày nào,” ThyLoan biết thế, mà đi thì rõ là rầu thúi ruột. Lời Chúa gì kỳ cục, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta.” Cố giảng, Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu Chúa hơn cha mẹ! Oái giời ơi là giời! Giảng thế thì chết con nhà người ta rồi. Thế rồi nào phải mến Chúa, phải yêu người. Đáng chán, ThyLoan yêu người nhưng người không yêu lại chẳng lẽ quỳ gối chắp tay thưa, “Lạy anh xin thương xót mà cưới tôi về làm bà cố nội anh!” Hừ! Giảng về yêu thương thế nào với câu, “Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình.” Không cố nào dám tự đặt mình vào giới rao giảng ngày xưa để giảng câu, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13).
Vậy Tin Mừng là gì? Thế Tin Mừng đang được rao giảng hay tin buồn? ThyLoan cảm thấy, quả thật tin buồn đang được rao giảng thay vì tin mừng! Cứ theo hai câu Phúc Âm Marcô 1:14-15, “Sau khi Gioan đã bị nộp thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: 'Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng,'“ Tin Mừng ở đây có nghĩa những lời dạy của Đức Giêsu vì lúc đó chưa có ai ghi chép thành sách. Vậy Đức Giêsu giảng gì lại cả là một vấn đề, thôi thì hãy lờ đi.
Đại khái, câu Phúc Âm, “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” có nghĩa, “Đã đến lúc các ngươi nên vứt bỏ những quan niệm cũ, vứt bỏ hết kiến thức xưa mà nhận ra rằng Thiên Chúa đang ngự trị, hoạt động nơi mỗi người và hãy tin vào lời Ta rao giảng.” Lỡ có cố đạo nào chẳng may đọc được những hàng chữ này xin thử xét xem con chú giải có rối không ạ?
Danh xưng thiên đàng thường bị hiểu lầm. Nơi Mt. 11:11 được viết, “Quả thật Ta bảo các ngươi, trong những kẻ sinh ra bởi người nữ, chưa một người nào lớn hơn Gioan Tẩy giả đã chỗi dậy, nhưng người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông” (Lc. 7:28). Có lẽ chính bởi câu này Nước Trời, Nước Thiên Chúa thường được hiểu là thiên đàng (hữu vi) vì lời văn ám định sự so sánh về chức tước hay quyền uy. Thế rồi câu, “Trời và đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi!” (Mt. 24:35; Lc. 21:33) nhảy vô tâm trí nhào nháo tạo thành một thiên đàng có thể tưởng tượng được và được đồng hóa với Nước Trời, Nước Thiên Chúa nơi bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ. Đại khái, nếu dùng Phúc Âm để phân định sự liên hệ hay khác biệt giữa quan niệm về thiêng đàng và thực thể được Phúc Âm gọi là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa, bài viết sẽ trở thành quá dài. Thế nên, ThyLoan chỉ muốn nói về thực thể Nước Trời, Nước Thiên Chúa, đã bị hiểu là nơi chốn nào đó trong cõi vô hình được quan niệm ngắn gọn Thiên Đàng. Cũng một danh xưng nhưng hai thực thể khác biệt, thuộc tâm linh, và theo sự suy nghĩ bình thường của con người.
Vị trí của Nước Trời được rõ ràng xác định, “Biệt phái thỉnh vấn Ngài, bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói, 'Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền; người ta sẽ không nói được, này ở đây hay ở đó, vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20). Nơi câu khác, Đức Giêsu trả lời với những người cho rằng Ngài dùng chúa quỉ Beelzebul để đuổi quỉ, “Ví bằng Ta thờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỉ thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28; Lc. 11:20). Cả hai câu này đều chứng tỏ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa là thực thể hiện diện ngay nơi và bao trùm mọi người. Quan niệm kinh viện cho rằng Nước Trời là thực thể sinh hoạt của con người trong xã hội; một xã hội yêu thương, an bình, và hy vọng. Dùng suy luận nhận định, quan niệm này không thể nào giải thích dầu gượng ép minh chứng có sự liên hệ ám định với câu, “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Nhìn vào thực tại kể từ ngày Đức Giêsu rao giảng nơi mặt đất, bao nhiêu cố gắng, công sức, tiền bạc, của con dân Nước Trời kiến tạo một xã hội theo quan niệm kinh viện, mà thực tế đang minh chứng sự thể cuộc sống ra sao nếu đem so sánh với lý tưởng được đề ra, hy vọng, yêu thương, và an bình. Như vậy giải thích làm sao hai chữ gần bên cho phù hợp. Đã bao nhiêu hy vọng nơi cuộc đời một người tan như mây khói. Đàng khác, chúng ta có thể hy vọng một cách sai lầm, và đã có thể sai lầm một lần, chắc chắn có thể sai lầm nhiều lần. Suy thế, chính hy vọng đã tự mang tính chất nghi ngờ và thất vọng. Những ai đặt cả cuộc đời vĩnh cửu của mình nơi canh bạc hy vọng tất nhiên đang chạy trốn nhận thức, suy tư, chạy trốn nỗi e sợ thất vọng bằng cách đặt niềm tin tưởng vào lời rao giảng của các thày bói tâm linh. Thày bói tâm linh mang trách nhiệm quá nặng và đã được nhắc nhở, “Khốn cho các ngươi ký lục, và biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13).
Phúc Âm nhiều lần nói về điều kiện tâm trí một người cần phải có để tìm kiếm, suy tư, nói cách khác nghiệm chứng thực thể Nước Trời. Tất cả những điều kiện được nhắc tới này, có thể gom tóm vào chỉ một động từ nơi ngôn ngữ Hy Lạp, “Metanoia” thường được dịch sang tiếng Việt một cách hạn hẹp, hữu vi, “Cải thiện,” “Hối cải.” ThyLoan ghi nơi đây những câu Phúc Âm ám định về điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm nhưng không muốn giải thích bởi bài viết đã quá dài ngoài dự định. Có điều, nếu hiểu những câu này theo nghĩa hữu vi, con người sẽ muôn đời tự nhốt mình trong vòng luẩn quẩn thế tục. “Không ai lấy mụn vải sống mà điền vào áo cũ, vì mảnh điền thêm sẽ co lại và rách càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bì cũ; chẳng vậy, bì toạc ra, rượu thì đổ mà bì cũng hư. Nhưng rượu mới người ta phải đổ vào bì mới thế mới giữ được cả hai” (Mt. 16-17; Mc. 2: 21-22; Lk. 5: 37-38); “Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; xong ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:60; Mt. 8:22); “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lại sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62); “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ không vác khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại” (Mt. 10: 37-39); “Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn laợi cho ngươi hơn cả toàn thân bị sa hỏa ngục” (Mt. 18: 8-9; 29-30; Mc. 9:43-48).
Nước Trời, Nước Thiên Chúa, hay Thiên Đàng chính là thực thể tâm linh đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. PhaoLô minh xác, Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em; anh em chính là đền thờ của Thiên Chúa. Nói cách khác, mỗi người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Muốn nhận ra thực thể này, tâm trí một người cần có nhận thức khác thường, vượt hẳn lên để nghiệm chứng những lời dạy nơi Phúc Âm. Viết đến đây, ThyLoan chợt có ý nghĩ, nếu xét theo lối nói thường dùng, “lên thiên đàng,” có nghĩa đường dẫn tới thực thể tâm linh (đàng: đường; thiên: thực thể tâm linh). Một sự trùng hợp lý thú của ngôn ngữ.
Nơi cuốn Sáu Cửa Thiền Thất có viết, “Thánh nhân vốn không tâm nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng khác. Vì sao? Vì tâm là niết bàn. Nếu ngoài tâm thấy có niết bàn đó là mắc phải tà kiến. (SCTT. Tr. 94). Thần Khí Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người; chúng ta là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức con người. Chúng ta tưởng mình suy nghĩ, nhưng, chính thực thể tối thượng suy nghĩ nơi mỗi người. “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này, xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 23-24). ThyLoan có câu hỏi cắc cớ; Đức Giêsu chỉ nói riêng với người Công Giáo hay nói với hết mọi người?
14/ Tin Mừng Nước Trời là gì?
Trả lời câu hỏi của Ha Thanh Nguyen,
1/ Trước hết, cảm ơn bạn Ha Thanh Nguyen đã nêu lên câu hỏi mà hai ngàn năm qua người ta chỉ dám âm thầm sống để dạ, chết đem đi vì e ngại người khác lên tiếng cho rằng mình theo đạo nhưng không biết Tin Mừng Nước Trời là gì. Sách vở viết hết cuốn nọ đến cuốn kia không thư viện nào có thể chứa cho hết mà Kytô hữu vẫn cứ ậm ờ không biết thế nào hoặc cái gì là Tin Mừng Nước Trời. Đâu đó cả chục năm về trước có đức thầy nào nhắc đến một thực tại nào đó. Ngài viết, giúp người ta thì chẳng được bao nhiêu mà đòi hỏi lại quá nhiều và như vậy thì thay vì rao giảng Tin Mừng lại rao giảng Tin Buồn.
Đi nhà thờ, nhà thánh (nói cho có vẻ con nhà có đạo), nơi mỗi thánh lễ, trước và sau khi linh mục đọc một đoạn Phúc Âm đều nhắc đến, “Bài trích Phúc Âm hay Tin Mừng thánh ... và kết, Tin Mừng hay Phúc Âm của Chúa...” và thường thì nghe hết cả bài giảng cũng chẳng biết được tin mừng thế nào. Đâu phải chỉ một bài giảng, nói theo Nguyễn Công Trứ, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,” cộng tất cả những ngày trong bụng mẹ cho tới giờ, ThyLoan mới hơn nửa thế kỷ dăm năm, tính hơn bù kém, từ ngày có trí khôn để ý nghe giảng, giỏi lắm đôi ba chục năm, thì cứ gọi là ba chục năm, ngày nào cũng tham dự thánh lễ, nếu tính cạn tàu ráo máng mới có 10950 thánh lễ, tức hơn kém một phần ba cái ba vạn sáu ngàn mà cũng bù trớt. Nghe thì nghe vậy, nếu bảo tóm gọn lại một câu tổng kết những lời khôn ngoan của các đấng làm thày giảng giải về Tin Mừng để có được định nghĩa của nó là gì, ThyLoan đành cứng họng vì không biết và cũng chẳng hiểu các ngài nói gì.
Ngày còn nhỏ, ThyLoan thích đi đọc kinh xóm nhất là đi chầu lượt vào mùa chay để được cùng mọi người ngân nga kinh cầu chịu nạn. Là con gái nhưng ThyLoan thích đàn đúm với mấy đứa con trai cùng lứa tuổi; hơn nữa, ThyLoan là con ông trùm nên đâu biết kiêng nể gì mấy đứa nhóc nghịch ngợm có lẽ hơn cả mình. Không hiểu chúng học đâu được hai câu kinh, chắc của người lớn hoặc mấy người anh nghịch như giặc của chúng và thế là hai câu kinh cầu được chúng thích chí lặp đi lặp lại, “Chúa Giêsu soi đèn thánh Phêrô phét cắp cá lóc thương xót chúng con; Chúa Giêsu nhìn con le le chảy nước miếng ra thương xót chúng con.” Sao mà hai câu ấy dễ nhớ lại dễ thương, hay hay một cách lạ lùng. Và thế là ThyLoan nhập tâm cứ ngâm nga tới lui, cảm thấy thích chí lắm. Vô tình có lần mẹ nghe được, ThyLoan lãnh một bạt tai mắt nổ đom đóm kèm theo câu mắng, “Mày học đâu được những lời phạm thượng như thế.” Mẹ ThyLoan hieàn thật là hiền, ngày trước cũng như sau này, không bao giờ ThyLoan bị mẹ la bao giờ dẫu nghịch ngoäi và ương bướng như giặc cái; thế mà chỉ hai cái câu cà chớn đó đã làm bà thịnh nộ, lại còn bắt ThyLoan đi xưng tội phạm thượng nữa chứ. Mẹ nói không bao giờ sai.
ThyLoan vô tòa cáo giải xưng tội, trình với cha rằng mình đã lập đi lập lại hai câu đó; gặp ngay ông cha phó măng sữa đi tây mới về và chịu chức cũng chỉ mới được mấy tháng. Ngài cười ầm lên trong tòa giải tội, không giải thích, không quở phạt, khiến sau đó những người đứng chờ nhìn chằm chằm ThyLoan chẳng khác gì thấy quái thai. Mấy thằng quỉ ngày xưa rõ là phá như quỉ vậy mà sau này có đứa đi tu làm linh mục. Không biết tên ấy sau khi làm linh mục rồi có còn phá phách ngang bướng nữa chăng. ThyLoan định bụng nếu lỡ may gặp lại, ThyLoan sẽ hỏi hắn Tin Mừng Nước Trời là gì xem hắn ngọng ngoẹo thế nào. Hắn mà không trả lời được, ThyLoan sẽ thẳng thừng đề nghị hắn ra quách cho rồi. Làm linh mục mà không biết Tin Mừng là gì thì chỉ lừa dối người ta mà thôi. (ThyLoan chỉ nói đến thằng bạn giặc giời ngày xưa chứ không dám đụng chạm đến bất cứ đấng làm thầy nào. Mong các đấng hiểu cho!)
Ấy, viết vòng vo tam quốc 800 (tám trăm) chữ rồi mà vẫn chưa thèm vô đề tài chính, ThyLoan nghe giảng về Phúc Âm nhiều quá nên học theo; ai muốn hiểu sao thì hiểu. Nghe trên radio, các bậc rao giảng nói rằng Chúa Giêsu xuống thế chuộc tội cho mọi người giống như kinh cầu chịu nạn, “Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế, thương xót chúng con.” Mấy vị giảng viên Tin Lành còn đương đường công bố rằng chỉ cần tin và chấp nhận Chúa Giêsu Christ đã chết để chuộc tội cho mình là đã được phần rỗi. Nghe thì cũng thấy phấn khởi ra phết vì không phải lo sợ bị phạt nữa bởi đã có Chúa Giêsu chuộc tội cho mình. Cái chết của Ngài bảo đảm phần rỗi của mình. Chỉ dễ dàng thế, ThyLoan tự nghĩ, hay là mình theo quách cái Tin Lành này cho xong và rồi muốn làm gì thì làm, muốn sa đọa ra sao cũng được bởi đã có Chúa Giêsu chết để chuộc tội cho mình. Ngài đã chết để chuộc tội cho mình hai ngàn năm trước. Ngài chết chuộc tội cho mình trước khi mình được sinh ra. Ngài chết chuộc tội cho mình trước khi mình phạm tội. Như vậy cái chết của Ngài là bảo hiểm cho mình tha hồ phạm tội vì dẫu mình phạm tội hay không hoặc phạm tội đến thế nào thì Ngài cũng đã chết, nào thua thiệt, mất mát chi. Mới nghĩ tới đã thấy phê!
Thế nhưng, cái chữ nhưng kỳ quái phát xuất từ sự e sợ bị phạt, bị quăng xuống hỏa ngục cứ ngày đêm, từng giờ từng phút ám ảnh tâm trí. Cũng những ngày còn nhỏ, có ma soeur dạy rằng, ngay nơi cửa lớn hỏa ngục có chiếc đồng hồ khổng lồ liên tục kêu tích tắc đời đời, đời đời tích tắc nên chúng ta phải ăn ngay ở lành, sống đạo đức mới được Chúa chuộc tội cho. Có lẽ ma soeur cho rằng ơn cứu độ của Chúa phải trả bằng cuộc sống tốt lành chăng. Tuy nhiên, nếu đã sống tốt lành thì lấy gì để Chúa cứu chuộc, mà không có gì lầm lỗi để Chúa cứu chuộc có phải là khinh chê ơn cứu độ của Chúa! Suy nghĩ như thế thì những em nhỏ mới lọt lòng mẹ hoặc mới bốn hoặc năm tuổi chưa có cơ hội lầm lỗi đều mắc thêm tội khinh chê ơn cứu độ của Chúa. Ôi cái vòng luẩn quẩn suy tư đã khiến tâm trí ThyLoan khắc khoải bao lâu nay. Ý nghĩ này cứ như hạt bụi bay vô mắt dụi thế nào cũng không lọt ra ngoài cho đỡ nhức nhối. Thế nên, đành liều vậy bởi ThyLoan cũng như bao người, cho rằng đã biết Tin Mừng Nước Trời nhưng không giải thích được maø nghĩ rằng chỉ cần tin những điều được dạy dỗ và tuân theo các lề luật Công Giáo là đủ cho phần rỗi linh hồn vì nơi kinh đọc ngày chủ nhật rằng, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn, mà linh hồn là tính thiêng liêng.” Thôi thì bắt cá hai tay cho chắc, dẫu tốn ít công sức nơi thế trần này mà ngày sau không bị mất linh hồn thì lời chán. Và giả sử không phải vậy thì cũng chẳng thiệt thòi là bao bởi lỡ ra không thông công vào hội thánh mà mất linh hồn thì lỗ to, mất cả chì lẫn chài; ở đời này đã khốn khổ, nhiều thứ không vừa lòng, chẳng đẹp ý, đúng, lỡ ra lỗ muôn đời muôn kiếp, chả dại gì. Ôi, quả là đáng sợ! Nhưng sao lòng ruột vẫn thấy e ngại gì đâu ấy do cứ áy náy, lỡ ra thì sao, cho nên gặp được câu hỏi Tin Mừng Nước Trời là gì, ThyLoan cũng đành nhắm mắt uống thuốc liều, thử lật Phúc Âm xem sao. Nghe hơi ngồi chõ để rồi tin theo khiến lòng dạ bất ổn bao nhiêu năm tháng qua, đúng là chỉ vì lười nên sinh ra muôn thứ tội mà gốc gác lại do thiếu tự học hỏi, suy tư. Nghe giảng giải của các đấng thì lúc này các ngài phán rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi nên hy sinh, bắt tội Con Một Ngài chịu khổ hình chết nhục nhã trên thập giá, bị thiên hạ nhạo cười. Khi khác, cũng các đấng ấy lại dạy phải ăn năn đánh tội, phải hy sinh hãm mình, phải tham dự lễ chủ nhật, phải xưng tội, rước lễ, dốc lòng chừa không được phạm tội. Ơ hay, Chúa đã chết cho tội lỗi của mình từ ngàn xưa, tất nhiên mình đã được ơn cứu chuộc sao lại cứ phải thế nọ, phải thế kia. Mình sạch ngay từ ngày Chúa chết cơ mà. Đàng khác, không có gì cho Chúa chuộc, Chúa cứu, có phải là khinh chê ơn cứu chuộc chăng? Quả là bối rối như bố vợ bị đấm!
Có điều kỳ lạ là khi lật Phúc Âm, rõ ràng như một cộng một là hai, mục đích cuộc đời của Đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Sự thể này được chứng thực nơi Luca “4:42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 4:43 Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” Nơi Phúc Âm Marcô cũng ghi, “1:35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 1:36 Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. 1:37 Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” 1:38 Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 1:39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. “ . Chẳng những chính Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, (Lc. 8:1; Mt. 4:23; 9:35). Ngài cũng sai các môn đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, (Lc. 9:2).
Một điều hiếm thấy các đấng rao giảng nhắc tới đó là đối với Đức Giêsu, công việc tìm kiếm Nước Trời, Nước Thiên Chúa phải là điều quan trọng nhất, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài và các sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33; Lc. 12:31). Sự tìm kiếm, nhận biết về Nước Trời quan trọng hơn cả việc tang ma cha mẹ, “Và Chúa Giêsu nói với anh ta, hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:60). Nơi Phúc Âm còn đưa ra một loạt điều kiện để nhận biết Nước Trời; ai muốn biết, chịu khó lật Phúc Âm, ThyLoan chỉ nhớ, vì lười nên không ghi đoạn và câu cũng như Phúc Âm nào. “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ... Chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ... Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa... Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta... Kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta... Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi... Nếu tay, chân các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi... Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng, còn ngươi đi rao giảng Nước Thiên Chúa... Dụ ngôn mười nàng trinh nữ, năm nàng không suy nghĩ, bảo sao nghe vậy bị cho là ngu muội; năm nàng suy nghĩ, tính toaùn trước việc có thể xảy đến được gọi là khôn ngoan. Ba người làm công được trao 5 nén, 2 nén, và một nén vàng. Người e sợ lỡ ra thất bại bị kết án là lười biếng.
Vậy Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì mà Chúa Giêsu được sai đến để rao giảng? Đức Giêsu dùng các dụ ngôn để ám chỉ sự tự lớn mạnh của Nước Trời (Mt. 13:31). Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé, và sẽ phát triển sau này đến nỗi chim trời có thể làm tổ nơi cành lá; hoặc như men dậy nơi bột (Mt. 13:33); hay như hạt giống được gieo nơi ruộng, chủ ruộng chỉ biết chuẩn bị đất đai và hạt giống sẽ tự chúng mọc lên và sinh sôi nảy nở (Mt. 4:26; 13:24; Mc. 4:26). Ngài so sánh giá trị của Nước Trời đối với loài người quí giá như kho tàng dưới đất, ai đó biết được thì dốc sức dồn hết tài sản để tậu thửa đất ấy cho được (Mt. 13:44), hoặc như viên ngọc quí mà người buôn ngọc nhận biết nên bán hết mọi sự mình có để mua cho được (Mt. 13:45). Ngài cũng nêu lên thái độ của những người không nhận biết giá trị của Nước Trời nên thờ ơ, không để ý (Mt. 13:19), hoặc chỉ chuyên chú vào những sự việc thế tục thành ra lỡ tầu (Mt. 22:2), hay vì lý do gì, hoặc e sợ, hoặc coi thường (Mt. 25:24-26); cũng thế những người không chịu suy nghĩ mà chỉ biết bảo sao làm vậy sẽ không thể nào nhận biết được Nước Trời (Mt. 25:1).
Dùng nhiều dụ ngôn để ám chỉ về Nước Trời nhưng khi được hỏi thời điểm nào Nước Trời xuất hiện, Đức Giêsu đoan chắc nơi Phúc Âm Luca, “17:20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 17:21 Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại, Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Những câu khác nơi Phúc Âm được ghi lại gần bên (Mt. 3:2; 4:17; 10:7; Mc. 1:15). Đọc nơi bản dịch New American Bible, gần bên được dịch là “at hand” có nghĩa ngay tại, sẵn tại nơi mình. Đồng thời, Ngài lên án rất nặng đối với những ai vì lý do hay ý đồ nào đó qua bất cứ hình thức nào ngăn cản người ta nhận biết Nước Trời, “Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Chẳng những các ngươi không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13). Thử hỏi còn lời lên án nào nặng hơn chăng?
Lật Phúc Âm mà lòng ruột cứ rối tung lên vì Phúc Âm ghi lại Đức Giêsu nói Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông, nơi thì ở trên các ông, lúc lại ở trong các ông, ở tại các ông, ThyLoan đành ngưng lật, suy nghĩ thử xem ở trên, ở trong, ở tại là thế nào. Nước Trời, Nước Thiên Chúa, nơi bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của 14 soạn giả ở Sài Gòn dịch là Triều Đại Thiên Chúa đã ở nơi mình thì phải tính sao đây? Chẳng lẽ vô nhà thương nhờ bác sĩ, y tá mổ xẻ lung tung để tìm cho ra Nước Thiên Chúa chốn nào nơi thân xác mình ư! Coi chừng lại bò meï chửi đồ ngu! Thì ngu thật! Nước Thiên Chúa nơi mình mà không biết thì tìm kiếm chỗ mô! Người nào, kinh sách nào, lời giảng giải nào chỉ rõ được chốn nào nơi cơ thể mình? Vậy mà Đức Giêsu lại phán cũng nơi Phúc Âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa,” lại còn bật mí, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền.” Ah! Không nhìn thấy được, thì cũng không cần mổ, khỏi phải xẻ. Bác sĩ, y tá không có công ăn việc làm nơi sự việc tìm kiếm Nước Trời. Cho họ thất nghiệp với Nước Chúa! Ha ha, đỡ tốn tiền lại không đau đớn, chắc ăn; bởi lỡ họ bỏ quên con dao, cái kéo trong người e xấu lão đi thì biết ăn nói sao với mẹ. Tự diễu vậy cho vui! Mấy người dịch truyện Tầu gọi là tự sướng. Ồ, nghe tục tằn xấu cả mặt! Nhưng, thế nào là “at hand,” thế nào là ở trong, ở trên, ở tại, cứ như là nói lặp. Tức lây cả tới Ha Thanh Nguyen đã cả gan nêu lên câu hỏi. Bí dzồi, đồng bào ơi! Đành chấp nhận, ThyLoan đi cầu nguyện xin Thánh Thần soi sáng. Nếu Thánh Thần chẳng thèm soi thì cam chịu tối um. (Sẽ viết tiếp sau khi may ra được Thánh Thần soi sáng. Nếu không, bí! Ôi! Nước Trời, Nước Thiên Chúa, Triều Đại Thiên Chúa. Ấy, lại còn Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa! Không biết Nước Thiên Chúa là gì sao có thể biết Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa!
2/ Không hiểu sao Kinh Thánh Tân Ước 1994 dịch câu Lc. 17:20-21, “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 17:21 Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại, Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông,” trong khi bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn lại viết, “Biệt Phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói: “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, Người ta sẽ không nói được, 'Này ở đây' hay 'Ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông.” Dẫu biết rằng “Được ý quên lời,” nhưng “ở giữa các ông” và “ở trong các ông” có sự sai biệt lớn lao nơi ý nghĩa. Ý nghĩa “Ở trong các ông” dẫn đến mức độ nào đó đồng ý nghĩa với câu nói nơi thư thứ nhất thánh Phao Lô gửi tín hữu Corintho, “Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em? Ai hủy hoại đền thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ hủy hoại người ấy. Vì đề thờ Thiên Chúa là vật thánh. Và đền thờ ấy chính là anh em!” (1.Cor. 3:16-17). Rõ ràng hơn, Phao Lô minh định, “Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em; anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa và anh em không còn thuộc về mình nữa” (1Cor. 6:19-20). Lật cuốn Holy Bible cổ lỗ sĩ, có lẽ tuổi của nó gấp đôi ThyLoan, cuốn này được viết nơi Luca 17:20, “And being asked by the Pharisees when the kingdom of God should come, he answering them and said: The kingdom of God cometh not with observation. 17:21 Neither shall they say: Behold here, or behold there. For lo, the kingdom of God is within you.” Ngó đến cuốn New American Bible, câu này dùng chữ “Among you” có nghĩa ở giữa các ông giống bản KTTU 1994. Thử xem nơi cuốn The New Oxford Annotated Bible được in năm 1977 thì lại được viết, “Being asked by the Pharisees when the kingdom of God was coming, he answered them, “The kingdom of God is not coming with signs to be observed; nor will they say, 'Lo, here it is!' or 'There!' for behold, the kingdom of God is in the midst of you.” Dẫu thế, nơi thư thứ nhất gửi Corintho, hai bản New American Bible và The New Oxford Annotated Bible dùng cùng hai chữ “within you” được dịch là ở trong các ông. Nước Trời, Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Anh em không biết sao! Thân mình anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em! Thiên Chúa ở nơi mình; Thần Khí Chúa nơi mỗi người; Quyền Lực Tối Thượng ở nơi mình; Quyền Lực Sự Sống ở nơi mình; Thượng Đế nơi mọi người; Phật Tính, Phật Tâm. Có sự gì nhào lộn lung tung nơi những ngôn từ, những phát biểu này đã bao ngàn năm.
Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật. Nước Thiên Chúa, Nước Trời, nước Thần Khí. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Thiên Chúa nơi mọi người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Quyền lực hiện hữu nơi mọi người; Quyền lực hiện hữu ở khắp mọi nơi. Nước Trời ở giữa các ông. Nước Trời ở trong các ông. Nước Trời, Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền và người ta không nói được này ở đây hay ở đó vì này, Nước Thiên Chúa ở giữa các ông; Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Nước Quyền Lực Hiện Hữu ở trong các ông. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Quyền Lực Hiện Hữu ở khắp mọi nơi. Ah! Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu thì Nước Trời, Nước Thiên Chúa là chính Ngài; vì Ngài ở khắp mọi nơi nên Ngài ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel! Ở đâu nơi Phúc Âm?
3/ “Nước Trời không đến một cách nhãn tiền” thì dứt khoaùt tin mừng Nước Trời sẽ không đá động chi tới những chuyện hữu vi. Thế sao Phúc Âm Marcô được viết, “Sau khi Gioan bị nộp, thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.'“ Câu Phúc Âm kỳ cục. Một đàng thì giới thiệu, nói về Đức Giêsu, “Đến xứ Galilê giảng Tin Mừng của Thiên Chúa,” đàng khác lại ghi Đức Giêsu nói, “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Vậy tin mừng Đức Giêsu muốn nói tới là gì? Phúc Âm nói Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng; Đức Giêsu giảng hãy tin vào Tin Mừng! Ối giời! Giống như nói lặp; vác bùn đổ sang ao, rồi lại đào ao lấy bùn để rồi lại đem bùn đổ sang ao, chẳng khác chi nhân gian nói chuyện gãi ghẻ, càng gãi càng raùt, càng rát càng sướng, càng sướng càng gãi.
Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên, ở trong các ông, ở giữa các ông, ở trên các ông. Ôh la la! Nước Thiên Chúa gần bên, ở trong các ông, ở giữa các ông. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa! Phúc Âm Matthêu có câu, “Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng, 'Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con và gười ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'“ (Mt. 1:22-23). Người con trai được sinh ra từ trinh nữ có tên là Giêsu, người ta gọi Ngài là Emmanuel? Như vậy Emmanuel là danh hiệu của Đức Giêsu. Dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Nước Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có sự gì loanh quanh luẩn quẩn, rắc rối, lôi thôi như rợ vào rừng nơi sự liên hệ của những phát ngôn này?
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Thiên Chúa ở trong các ông. Thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa. Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, ở trong các ông, hãy hối cải. Đức Giêsu rao giảng, “Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải.” Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải; Thiên Chúa ở trong các ông, hãy hối cải! Tại sao Thiên Chúa ở trong mà còn hối cải? Hối cải điều gì, sự gì?
Kinh Thánh Tân Ước 1994 có lời chú giải về hối cải. Hối cải được dịch từ tiếng Hy Lạp, “Metanoia.” “Từ Hy lạp metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận” (KTTƯ Giáo Phận TP. HCM; VN; 1994; tr. 184). Như vậy có thể nói, Đức Giêsu rao giảng, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy nghĩ khác trước, hãy đổi ý, hãy thay đổi tâm tình, thay đổi não trạng và tin vào lời ta nói. Và cũng có thể nói cách khác, Thiên Chúa ở trong các ông, hãy suy nghĩ khác trước. Tại sao phải suy nghĩa khác trước? Khác về điều gì, quan niệm nào, chủ trương ra sao, hoặc điều luật nào?
Nơi Cựu Ước, Thiên Chúa bênh vực đám dân Do Thái “Sớm đầu tối phản” mà trừng phạt bất cứ kẻ nào dám đụng đến họ. Họ phải giữ muôn thứ điều luật, phải giữ ngày Sabbat, luật nhơ uế. Đức Giêsu bị họ lên tiếng phản đối vì chữa lành trong ngày Sabbat và Ngài trả lời, ngày Sabbat được lập ra cho con người, không phải con người được sinh ra vì ngày Sabbat. Nơi dụ ngôn người Samaritanô tốt lành Ngài chỉ trích vị tư tế và vị giáo luật đã vì luật nhơ uế nên không dám nhúng tay cứu giúp người sắp chết mà phải đi tránh qua bên kia đường. Người ta kết án Ngài phạm thượng vì dám gọi Thiên Chúa là Cha! “Làm sao các ông lại bảo tôi: 'Ông nói phạm thượng!' vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'? 10:37 Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. 10:38 Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Gioan 10:36-38). Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa ở trong các ông, Nước Trời ở trong các ông; hãy suy nghĩ khác trước! Hãy thay đổi não trạng và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng, Nước Trời đã gần bên, ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel. Ngưng, chuẩn bị đi lễ.
4/ Chẳng biết tìm hiểu Tin Mừng Nước Trời được lợi lộc gì mà cái đầu ThyLoan cứ quay quay như đứa ngớ ngẩn; xuýt nữa khóa cửa khi xe còn đang nổ máy và chùm chìa khóa còn ở trong xe. May quá, mãi suy nghĩ mấy câu Phúc Âm, ThyLoan phải thắng gấp bởi chiếc xe phía trước bất chợt thắng vội để quẹo, thêm một lần vượt đèn đỏ, và một lần không dừng tại bảng stop, may không có ông bà bạn dân nào quanh đấy. Giờ lại gần như khóa chốt và giập cửa xe trong khi xe đang còn nổ máy. Mà sao mấy câu Phúc Âm cứ luẩn quẩn nhai đi nhai lại trong đầu óc làm phiền hà tâm tư. Còn một chuyện nữa quên khuấy đi mất, không bỏ gói thịt ra ngoài cho tan đá đợi khi lễ về sẽ kho tộ. Đã định bụng từ sáng mà rồi tâm trí cứ quanh quẩn nơi mấy câu Phúc Âm thành ra lắm sự lỡ làng.
Hôm nay nhà thờ có cha khách về giảng phòng mùa chay nên người tham dự khá đông. Giáo dân lần hạt, đọc kinh từ 6giờ 30 chiều, bẩy giờ rưỡi cha bắt đầu giảng, rồi lễ, rồi chầu mình thánh, có về tới nhà cũng 9 rưỡi, 10 giờ đêm. Trưa đã gặm đại bánh mì và miếng chả thành ra bây giờ thấy đói mà mấy câu Phúc Âm thì cứ lung tung, rối tùng phèng. Lên net tìm mấy bài giảng của các đấng lại thấy càng lung tung. Ai đời nào lại cho rằng Tin Mừng Nước Trời là lòng thương yêu, nhân hậu của Thiên Chúa Cha trong khi Phúc Âm nói, “Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải.” Lòng thương yêu của Chúa Cha nào ở lời công bố này? Đúng là “lấy râu ông cắm cằm bà” thay vì lấy dâu ông ném tằm bà! Nước Thiên Chúa đã gần bên Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; hãy ăn năn hối cải, hãy suy nghĩ khác thường; hãy thay đổi suy tư. Thay đổi suy tư thế nào để nhận ra được Tin Mừng. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa; tiên vàn hãy nhận biết Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông. Tìm kiếm Nước Trời, Nước Thiên Chúa ở trong các ông là nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, được dịch là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ở trong các ông.
Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải, hãy thay đổi suy tư, thay đổi não trạng và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng là gì mà phải thay đổi suy tư, thay đổi não trạng mới nhận biết được. Nước Thiên Chúa đã gần bên; Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa đã gần bên; Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Emmanuel. Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. The Kingdom of God is at hand; God is at hand; God is with us. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thầm nghĩ, có lẽ ThyLoan khùng rồi. Mấy câu Phúc Âm làm tâm trí ThyLoan rối loạn nên cứ luẩn quẩn như người điên. Có lẽ cũng mấy câu này khiến những người quyền hành của đám dân Do Thái hai ngàn năm trước phát khùng nên chúng giết Đức Giêsu cho lòng thanh thản bởi ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào mấy câu nói thần thánh này cũng cứ khiến tâm trí họ luẩn quẩn. “Thôøi buổi đaõ maõn, Nưôùc Thieân Chuùa đaõ gaàn beân, haõy hối cải.”
Cha giảng gì chẳng biết vì tâm trí ThyLoan vẫn còn bị quay mòng mòng với mấy câu Phúc Âm “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” và hối cải, thay đổi não trạng, thay đổi suy tư. Đức Giêsu rao giảng một Thiên Chúa hầu như hoàn toàn đối nghịch lại với quan niệm của dân chúng thời đó. Người ta nghĩ rằng, cho rằng Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ; Ngài rao giảng Thiên Chúa yêu thương, “Cho mặt trời mọc soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác.” Người ta theo luật mắt đền mắt, răng đền răng. Ngài rao giảng hãy yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những ai làm khốn mình. Người ta chăm chăm chú chú giữ luật ngày Sabbat, không dám dẫu nhóm bếp nấu ăn vì làm như thế là phạm luật; Ngài nói, ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được sinh ra vì ngày Sabbat. Ah! Quả là ngang ngược trước mắt người đời! Dám chống báng những quan niệm, truyền thống của cả một dân tộc ưu đãi của Thiên Chúa mà lại cả gan xưng mình là Con Thiên Chúa. Con mà ngang bướng tuyên truyền chống báng điều luật dân của Cha tuân giữ? Nhưng, ThyLoan theo Đức Giêsu hay theo người Do Thái? Mới tự đặt câu hỏi để trả lời, ThyLoan cảm thấy hình như mình cũng ngang ngạnh giống Đức Giêsu; lại nghĩ đến nếu dám cả gan tuyên truyền, chắc thiên hạ quăng vào cối xay bột mì xay nghiến ra chứ không thèm đóng đanh. Như vậy, Đức Giêsu còn may mắn hơn trong khi lỳ hơn. Đức Giêsu may mắn hơn vì ngày ấy chưa có máy móc tối tân xay bột mì tự động như ngày nay nên không thể xay Đức Giêsu được. Đức Giêsu lỳ hơn ThyLoan vì Ngài dám đương đường rao giảng điều chống nghịch với truyền thống, giáo lý, luân lý, quan niệm của dân Do Thái thời ấy. Nơi thế kỷ 21 bây giờ, nếu ThyLoan dám nói lên quan điểm hay nhận định chứ chưa dám nói đến nhận thức tâm linh của mình, coi chừng nát nước, yên nghỉ ngàn thu dưới ba tấc đất đã từ lâu. Nếu đem so sánh thì ThyLoan thua đậm, Đức Giêsu thắng lớn, nhưng chưa chắc thắng đã hay hoặc thua đã dở. Đức Giêsu thắng lớn nên chúng đóng đinh Ngài trên thập giá cho thiên hạ nhạo cười. ThyLoan thua đậm nên còn cơ hội gõ bàn phím computer lúc này. Thế mà Tin Mừng Nước Trời chưa biết, ôi quả nhục nhã.
Cha ngưng giảng lúc nào ThyLoan cũng không biết, chỉ bị giật mình khi tiếng chuông vang lên cắt đứt ý nghĩ. Thế ra mình đến nhà thờ để suy nghĩ chứ không phải đi nghe giảng, ThyLoan tự nhận định. Thôi, dành cho Chúa đôi phút, tỉnh táo lại tham dự thánh lễ. Và bài hát được cất lên khi tiếng chuông thông báo. Cha giảng phòng bái quỳ, tiến lên hôn bàn thờ, đoạn làm dấu “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.... và đưa hai tay như chào hỏi, cất tiếng, Chúa ở cùng anh chị em...” và mọi người thưa, “Và ở cùng cha.” Chợt tim ThyLoan như ngừng đập; một cảm giác nào đó bùng lên; nhà thờ chợt như bừng sáng. ThyLoan thầm kêu, lạy Chúa tôi, đoạn hai bàn tay bụm chặt lấy mặt cố nén tiếng khóc. ThyLoan thèm khóc; ThyLoan sợ quá; ThyLoan sợ Chúa của ThyLoan. Ôi! Ngài cao cả và huyền nhiệm, đầy bí ẩn, tại sao, tại sao. ThyLoan không nghĩ được gì nữa, lòng cứ thổn thức muốn khóc.
5/ Chúa ở cùng anh chị em, và ở cùng cha. Thiên Chúa ở cùng chúng ta! ThyLoan ráng sức đè nén tâm tư để khỏi bật lên tiếng khóc trong khi lòng ruột vô cùng thổn thức. Một cảm giác lạ kỳ như có dòng điện tràn ngập toàn thân và hình như có động lực nào đó áp đặt lên cơ thể đè xuống bắt phải quỳ, nhưng ThyLoan nín thở dứt khoát không cử động vì mọi người đang đứng đọc kinh cáo mình mà quỳ coi chừng xảy ra điều tiếng chẳng nên chăng do bởi thái độ của mình không giống người chung quanh. Phải đè nén tâm tư trong khi hai tay bụm mặt quả là khó chịu. Một đàng phải cố nín thở, gồng người tránh những cử động thất thường, đàng khác, đầu óc phải đối diện với một khung trời dày đặc những câu Phúc Âm, những nhận thức khôn ngoan được ghi trong sách vở ThyLoan vô tình hay hữu ý đặt vấn đề. Tất cả chúng lần lượt hiện về, câu nọ móc nối câu kia lộn xộn, không theo bất cứ thứ tự suy diễn nào.
Chúa ở cùng anh chị em, và ở cùng cha. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Trời không đến một cách nhãn tiền, và người ta không nói được này ở đây, hay ở đó, vì này, Nước Trời ở trong, ở giữa các ông. Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng. Và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật. Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao? Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên Chúa là nghệ sĩ tuyệt vời, Ngài đóng vai trò của mình nơi tạo vật ngài đã dựng nên. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta nói về Chúa đều là tưởng tượng. Mọi sự, mọi vật đều là hiện thể của Quyền Lực Tối Thượng, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống qua những dạng thức khác nhau. Con người là hiện thể của Thượng Đế nơi dạng thức nhân sinh. Tội lỗi bởi sự ngu dốt, thiếu suy nghĩ, thiếu hiểu biết mà ra. Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Tâm Phật, Tính Phật. Ngươi hãy nhìn lên đám mây to lớn kia xem thế nào nhưng cũng không thể so sánh được với sự bao la của Tâm Phật nơi ngươi. Con người không phải thánh, chẳng phải thú nhưng đáng thương thay, những ai muốn làm thánh lại biến thành thú. Muốn nhìn cho rõ, hãy nhắm mắt lại. Muốn nghe cho rõ, hãy bịt tai lại. “You are much more than all that you can think of yourself.” Những kẻ tin vào Ta thì làm được những việc ta đã làm và còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa. Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản. Cho nó nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu e rằng nó nhìn mà thấy, nghe mà hiểu và nó ăn năn trở lại, ta sẽ cứu nó. Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. Metanoia, suy nghĩ khác thường, thay đổi não trạng, thay đổi chiều hướng suy tư. Cái bóng của Thượng Đế là quỉ vương. Thượng Đế và quỉ vương là một. Thượng Đế nơi mảnh sành vỡ. Thượng Đế nơi đống phân trâu. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Kiến tính thành phật. Thiên Chúa không kiến tạo sự chết. Nơi Thiên Chúa không có sự chết. Ta và Cha Ta là một.
Lấy câu “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” làm trung tâm, hình như có sợi giây liên hệ nào đó ràng buộc, nối kết những câu thaùch thöùc thức ngộ mang đầy tính chất ngang ngược xoay vòng vòng. Tâm trí ThyLoan chìm nơi viễn ảnh này và tất cả như một đám mây vần vũ được ánh sáng cảm nhận chiếu lên từng câu, từng lời phát biểu soi rõ ẩn ý chứa đựng nơi chúng. Có câu nói nào đó gợi về, niềm vui của kẻ trí làm bực mình người ngu, nhưng niềm vui của người ngu khiến kẻ trí xót thương, ngược lại, câu Phúc Âm trờ tới, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng hay thương xót vì Người cho mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ và làm mưa rơi trên kẻ ngay cũng như người ác.”
Tiếng chuông rung báo hiệu đến lúc truyền phép kéo tâm trí ThyLoan thoát khỏi đám mây những câu nói nhận thức ngang ngược. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; ThyLoan chợt nhận thấy tất cả mọi sự, mọi nơi, mọi lúc đều chỉ là tiến trình biến chuyển của thực thể Tin Mừng Nước Trời. Cha dâng mình thánh mà tâm trí ThyLoan đâu đâu để rồi ý tưởng, Thiên Chúa làm người được nhận biết rộng rãi hơn. Ai cũng là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh; ai cũng là Thiên Chúa làm người. Một Thiên Chúa hoạt động nơi Đức Giêsu cũng chính là Thiên Chúa hoạt động nơi mọi người, và cũng chính là Thiên Chúa đang hiện thể nơi vũ trụ, nơi từng gốc cây, ngọn cỏ, nơi từng viên sỏi, hạt bụi. Ôi! Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hai ngàn năm qua, bao công sức rao giảng, bao mồ hôi nước mắt hy sinh, bao tiền của công đức mà Tin Mừng Nước Trời vẫn như một mầu nhiệm, mầu nhiệm vì thiếu suy tư. Bao người đã ra đi! Bao hồn vẫn triền miên khắc khoải theo đuổi những tin buồn muôn thuở.
Thánh lễ đã hoàn tất, mọi người lĩnh phép lành mà ra về lòng dạ Thy Loan vẫn mông lung.
15/ KHÔNG BIẾT NÓI SAO
Câu hỏi này được gửi đến từ “Nguyen, Maria (M.T.)” hơn kém mười năm về trước. Thấy nhiều vấn đề cần được minh định nên ThyLoan ngại ngùng cứ lần lữa đình lại để suy nghĩ cũng như thu thập tài liệu đồng thời mong ước gặp được bài viết nào đó thảy đại lên trả lời cho qua. Giời! Nó cứ như là hòn sỏi nhỏ lọt vô chiếc giầy trong khi ThyLoan lại cứ lỳ lợm coi nó như một thách đố suy nghĩ may ra có thể nhìn rõ sự vật, sự việc cho thỏa lòng khát vọng hầu phần nào quán triệt suy tư hơn một chút. Nào ngờ, hơn kém mười năm trôi qua, thôi cũng đành nhắm mắt đưa chân giải thoát nỗi nhức nhối tâm tư.
Thiển nghĩ, câu hỏi bao gồm nhận thức về ít nhất mấy vấn đề,
-Tại sao tin vào Thiên Chúa
-Phát biểu, Thiên Chúa tạo dựng
-Thieân Chuùa chuộc tội thiên hạ
-Không có bằng chứng tạo dựng
-Họ tin vào thuyết tiến hóa (evolution)
-Không biết nói sao
1/ Tin, mang nghĩa thế nào nơi tâm trí con người.
Chúng ta thường nghĩ / nói, tin mặt trời soi sáng. Vậy nếu nói rằng không tin mặt trời soi sáng thì mặt trời có trở nên tối đen hay chăng? Như thế, theo nghĩa bình thường, nói rằng tin hay không tin nơi thực thể hiển nhiên không mang nghĩa nào hết, chẳng ảnh hưởng chi đến người nói, không thay đổi bất cứ gì nơi thực tại, họa chăng chỉ để người nghĩ rằng mình tin may ra được yên lòng.
Bình thường, khi nói đến tin có nghĩa cho rằng điều gì đúng, hiện thực, dẫu mình thích, đồng ý hay e sợ, hoặc chán ghét cho dù mình đã có kinh nghiệm về sự việc đó hay không. Thế nên nói rằng tin mặt trời soi sáng có nghĩa nghiệm chứng, chứng thực qua kinh nghiệm cuộc sống của mình sự thể mặt trời soi sáng, mà đã thực chứng mặt trời soi sáng thì đâu cần tin hay không. Tuy nhiên, nói tin một người nào đó là người tốt khi chưa có cơ hội giao tiếp, hiểu biết về người đó cũng chỉ mang nghĩa nghĩ rằng, cho rằng đó là người tốt bởi nghe, hoặc đọc về người đó. Học được điều gì lợi ích hoặc chẳng nên từ người đó để áp dụng nơi cuộc đời mình lại tùy thuộc chính mình. Tin theo nghĩa này thường được chấp nhận một cách rộng rãi. Nơi trường hợp khác, chẳng hạn khi phải đối diện với mối thất lợi hoặc sự e sợ nào đó mà lòng mình không muốn, hoặc ước mong chuyện đó không xảy đến với mình, hoặc chuyện, sự việc nào đó mình ước muốn nên cầu mong tất nhiên mình cố gắng, dùng mọi phương cách, cơ hội, từ ý nghĩ, tính toán đến hành động, thái độ để đạt được hoặc tránh né điều mình e sợ, loại tin này thực sự ảnh hưởng tùy theo mức độ của lòng mình thế nào. Xét thế, chỉ một chữ “Tin,” tùy người, tùy trường hợp, lại tùy tâm tính, điều kiện, căn cơ của người đó được áp dụng hoặc giãi bày như thế nào.
Câu hỏi tại sao tin vào Thiên Chúa có thể ẩn chứa tâm trạng nào đó của người hỏi, hoặc là bày tỏ nỗi khát khao như một bẩm sinh nơi mọi người muốn nhận biết về thực thể chính mình, những liên hệ của mình với thực tại hữu hình cũng như vô hình. Nếu ai đó đã vô tình có lần nghĩ đến sự thể, sự việc nào đó dẫu chưa bao giờ đối diện có thể xảy ra hoặc một tư tưởng nghịch thường đối với quan niệm bình thường của những người đương thời để rồi e sợ đôi khi khiến ăn không ngon, ngủ không yên, sẽ nhận biết rõ ràng nỗi khát vọng nhận biết chính mình, tại sao mình được sinh ra đời vào thời điểm này mà không được sinh ra ngàn năm trước hay ngàn năm sau; mình sẽ đi về đâu sau khi chết; mục đích cuộc đời mình là gì; trước khi được sinh ra mình thế nào v.v...
Thiển nghĩ, có lẽ nên đặt vấn đề tin vào Thiên Chúa như thế nào; như vậy cần biết Thiên Chúa ra sao, mình cảm nhận hoặc nghiệm chứng được những gì, thực thể được gọi là Thiên Chúa có liên hệ gì với con người trước khi giải nghiệm sự thể “tin vào Thiên Chúa.” ThyLoan đặt vấn đề đến đây chẳng khác gì bới bèo ra bọ nhưng không bới lại cứ khơi khơi ù xọa, nói, quan niệm điều mình không biết, chưa nghiệm chứng cho qua chỉ khiến lòng dạ thêm bối rối, nhức nhối. Chân thành hồi tâm nghiệm chứng lòng dạ nơi mình mới thấy thẳng thắng đối diện với nhưng khúc mắc, từng vấn đề được nêu lên hoặc nghĩ tới chưa được rõ ràng, phân định mới là lối giải quyết tuyệt vời nhất. Những thao thức chẳng khác gì hạt bụi lọt vô tròng mắt hoặc viên sỏi chui vô trong giầy, không giải quyết chúng, không bới chúng ra, muôn đời khắc khoải để rồi chúng đeo đẳng khiến mình chỉ còn nước sống để dạ, chết đem đi như bao người đã qua, có cuộc đời, đến gần cuối cuộc sống lại sợ chết, cố bám víu vào hy vọng kéo dài thời điểm chết được giây phút nào hay giây phút ấy dẫu muôn vàn khốn khổ đang đè nặng nơi thân xác và lòng ruột triền miên e sợ bởi chẳng biết mình rồi sẽ ra sao sau khi thân xác qua đi.
Tại sao nói đến yên lòng? Điều gì khiến con người e ngại đến nỗi lý thuyết, chủ thuyết có thể lay động tâm hồn khiến họ cảm thấy bất an. Tại sao sợ chết dẫu biết rõ đã được sinh ra thì phải chết, vừa được sinh ra đã mang án tử. Chưa cần biết tại sao mình được sinh ra thì đã sợ chết. Một cuộc đời bao gồm thời gian sáu, bẩy mươi năm, có khi tới hơn kém trăm năm để làm gì đến nỗi chưa chết đã e sợ không biết mình sẽ ra sao? Đã được sinh ra thì phải sống, cũng như đã được sinh ra thì phải chết, có e sợ cũng phải chết thì e sợ mang lại ích lợi gì, có chăng chỉ làm mất vui cuộc sống; mà cuộc sống đã chắc gì vui, thế nên cứ khắc khoải tại sao tin vào Thiên Chúa bởi nghi ngờ tất cả những gì mình có thể bám víu có thể là hoang tưởng dẫu chỉ trong tâm tưởng, và bởi thấy chẳng còn gì để bám víu đành tuyên xưng mình vô thần, tin vào thuyết tiến hóa để có thể tạm gọi là có niềm tin nhưng lại chẳng có gì để tin. Nếu thuyết tiến hóa là một thực thể đang diễn tiến thì đâu cần gì phải tin. Dĩ nhiên, theo thuyết tiến hóa, dòng sinh mệnh đào thải, thoái hóa những gì không cần thiết và phát triển những gì ít nhất có phần nào tiếp tục thăng tiến. Như thế những ai còn tay chân, còn miệng mũi chưa tiến hoùa mấy. Những người tiến hóa chỉ cần cái đầu to đùng, may ra chỉ cần có hai ngón tay để chọc những nút điện tử. Mới phác họa như thế, ThyLoan đã không dám nghĩ đến tiến hóa nữa nhưng nghĩ thà chết sớm đỡ sợ hơn tiến hóa thành quái thai không chân, không mình mẩy chỉ có hai ngón để chọc nút này, ấn nút nọ.
Bình thường, mỗi khi nghe thấy ai đó nói tin thế này, không tin thế kia, ThyLoan cảm thấy hình như họ dùng sai ngôn từ bởi nhận ra hoặc họ nghĩ rằng, cho rằng sự việc đã, sẽ thế này hoặc thế kia dẫu có bằng chứng hay không. Nếu có một phần nào minh chứng thì phải dùng ngôn từ, noùi leân những lý do, sự kiện nào đó, sự thể tiếp nối sẽ xảy ra thế này hay thế nọ. Trường hợp này có nghĩa nghĩ rằng, cho rằng suy luận để nhận thức về sự vật sự việc được phát biểu thành “Tin” dẫu ảnh hưởng hoặc không đến người nói. Nơi trường hợp điều gì mang mối đe dọa nào đó tới người nói khiến họ e sợ sẽ xảy đến có lẽ nên dùng tiếng “E ngại,” nhưng lại cũng dùng chữ tin. Ai cũng thế, trong lòng đều có niềm ước mơ, thao thức, hoặc e ngại về bất cứ việc hay vấn đề nào. Thế nên ai cũng nhận thấy câu nói, “Không thể sống mà không tin.” Nơi trường hợp này, niềm tin, điều ước mơ đem lại cho người mơ sức mạnh thúc đẩy bổ xung ý chí tạo thành niềm vui cũng như năng lực tạm gọi là hy vọng dẫu niềm mơ có thể là không tưởng. Hình ảnh ám định của người tin, mang niềm mơ không hiện thực theo thế tục hay mơ tưởng theo ước vọng do bất cứ lý do gì đều được gọi là người ngủ biết đi.
Trường hợp khác cũng được dùng ngôn từ tin như chỉ hùa theo cho giống mọi người chung quanh mới đáng sợ. Trạng thái này chẳng khác gì câu nói của người Nga, “Chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Người nơi trạng thái này rất e sợ người khác biết được tẩy ngu ngơ của mình nên dễ liều mạng kiến tạo chiến tranh đối nghịch với những ai không phát biểu giống họ. Họ giống như chiếc thùng rác chỉ biết chấp nhận những gì người khác quăng vô bằng cách này hay bằng cách khác, cố sức nuốt xuống bằng mọi cách dẫu phải hy sinh, hãm mình, chịu khốn khổ bởi luôn luôn e sợ; sợ bị phạt, sợ mất gốc, sợ rối đạo, sợ trở thành con chiên ghẻ, sợ những ánh mắt lườm nguýt, những lời nặng tai nói ra nói vô của những người chung quanh. Tuy vậy, lâu dần rồi đời cũng quen; gãi ghẻ riết cũng trở thành một loại thú đau thương; càng ngứa càng gãi, càng gãi càng rát, và càng rát càng sướng; bỏ thì thương, vương thì tội, chỉ đáng ngại cho tâm hồn luôn ray rứt, thao thức mãi không thôi bởi không dám đối diện cõi lòng đành hy vọng được giải thoát để rồi bày ra những tập tục, thói quen chịu đựng dễ học nên khó chừa và chết đi như muôn muôn người đã qua dẫu vẫn sợ chết mà cũng chẳng thoát. Ôi! Tin bởi e sợ mà ra; quả đáng tội cho những tâm hồn này!
Thế rồi, bởi nặng mang niềm tin mù mờ bởi không biết mình tin gì, dẫu được gọi chung là tin, người ta phải hùng hổ tìm kiếm đồng bọn để trấn an nỗi thất vọng do e sợ vu vơ đành bám víu vô quan niệm “Đa số thắng tiểu số,” cứ cho rằng nhiều người nói lên nơi miệng tin giống mình thì niềm tin mông lung nơi mình được coi như đúng đắn hầu an lòng, và sẵn sàng lên án bất cứ ai không nói giống mình, không nói giống những gì mình đã phải cố gắng nuốt vô bởi những tư tưởng, lý thuyết, quan điểm của họ phần nào đe dọa lật tẩy ngu ngơ của mình. Tất nhiên, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Bất cứ ai dám đối diện với lòng, lục tung nó lên và dám cả gan phơi bày thực trạng thao thức nơi họ, chắc chắn sẽ được chụp mũ rối đạo chẳng những lên đầu lên cổ mà coi chừng cha mẹ, anh em họ hàng cũng bị đoàn lũ không dám suy nghĩ, nhận thức lên án. Ôi, kẻ dám nhận thức, suy tư nơi trường hợp bị chụp mũ này chẳng khác gì chiếc lưỡi giữa hai hàm răng. Hàm trên chính là nỗi thao thức gậm nhấm nơi trận chiến nội tâm, khao khát tìm hiểu, nghiệm chứng nhận biết chính mình để thỏa mãn động lực nào đó thúc đẩy khát vọng thầm kín của thân phận nhân sinh. Hàm dưới chính là những kẻ sống chung quanh đang nơi cảnh chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết. Người Mỹ có câu, “Damn if you do; damn if you don't.” Nơi tiếng Việt có lẽ phải dùng hai câu nói gom lại, “Nói ra thì bảo rằng ngoa, không nói lại bảo người ta là đần,” và câu khác, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Viết đến đây, ThyLoan nghiêng mình cảm phục những vị bạo phổi dám chân thành thật lòng đối diện với chính mình đồng thời liều mạng khuyến khích cũng như chia sẻ giúp người khác đối diện tâm hồn họ với ước vọng may ra họ thỏa mãn niềm khát vọng tiềm ẩn nhận biết chính mình, biết mình tin gì để có niềm an bình của Đức Giêsu hứa ban.
2/ Tin, phát biểu mơ hồ nếu thiếu nghiệm chứng
Đối diện với lòng, chỉ một tâm tình được gọi là tin chúng ta đã thấy mông lung vì chưa bao giờ đặt vấn đề, hoặc có ý nghĩ, suy tư nào tự hỏi mình tin gì nên đã không biết sao thực sự trả lời phương chi nói đến tâm tình, trạng thái được gọi là tin. Nói rằng tin theo đức Phật, đức Chúa lại càng mông lung hơn bởi mình đã không có ý nghĩ, suy tư về đức Phật, đức Chúa mà cứ học theo hoặc nói theo những truyền thuyết, những suy luận của người khác. Nhận thực như thế, ThyLoan phải đặt lại vấn đề. Thường nghe thiên hạ nói về tin đức Phật, câu hỏi đầu tiên đến với ThyLoan đó là đức Phật là ai, thế nào; tin đức Phật ra sao, được lợi ích gì. Ôi muôn thứ truyền thuyết rối tung lên, nào tam bảo, cúng dường, hỉ, nộ, ai, ưu, ái, ố, dục, nào pháp, nào thuyết, nào thiền, nào quán, nào định, nào bè nọ, phái kia, Nam tông, Bắc tông, rồi Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Bà Quan Âm, nào Đạt Ma Sư tổ, nào tổ Lâm Tế, ngũ tổ Hoàng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng, rồi tiệm, rồi ngộ, rồi minh, lại có cả vô minh, thuyết nào cũng hay, thuyết nào cũng truyền bá đúng đắn, đúng đến độ đối nghịch nhau. Thế rồi phương pháp ngồi thiền, ngồi thế này, ngồi thế kia, rồi lại cũng “Ngồi nhiều sinh bệnh” nên phát sinh hành thiền, kiến tính thành Phật.
Quái, đã kiến tính thành Phật sao còn tin Phật! Có đức Phật nào bảo mình cúng, kiếng không mà cúng dường, xây bậc phù đồ. Phù đồ là chùa đó quý vị ạ! Đạt Ma Sư Tổ hô lên, chỉ có một tội độc nhất là tội vô minh vì nó cầm giữ con người luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được, trong khi bao nhiêu sách vở nhà Phật nhan nhản truyền bá diệt dục. Cố gắng diệt vô minh đã là dục thì diệt dục cứ nên vô minh; trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đã kiến tính thành Phật mà tổ Lâm Tế lại phán, gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, không tin ai hết, không để ai lừa dụ. Trời đất quỉ thần ơi, gặp Phật giết Phật thì khi trở thành Phật coi chừng là lúc tự tử ư? Thích Ca dạy rằng, lời ta nói như chiếc bè; ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng; đặc biệt hơn nữa, ngài cũng phán, trong 49 năm truyền đạo, ta chưa nói câu nào. ThyLoan chân thành xin các vị thức ngộ nhà Phật thông cảm đã nêu lên những sự thể theo nghĩa từ chương trong nhận định phiến diện thế tục với mục đích đặt vấn đề khuyến khích suy tư nếu độc giả nào đó có ý muốn tìm hiểu thêm về Phật học. Vẫn biết chỉ nêu lên những danh hiệu một cách mơ hồ đem lại lợi ích tuyệt vời đối với những hành giả Phật tử như một cơ hội áp đặt suy tư thúc đẩy thức ngộ, riêng đối với những đầu óc chỉ trích, ThyLoan sẽ bị mang vạ ngạo ngược, đem của thánh cho chó, tất nhiên sẽ bị nó quay lại cắn xé, thì cũng đành chịu. Có lẽ ThyLoan bị ảnh hưởng bởi mấy vị thức ngộ nhà Phật nên tiêm nhiễm thói ăn nói ngổ ngáo, ngạo đời của họ chăng, nhưng dẫu thế nào, ThyLoan luôn ghi ơn các vị ấy và cũng nhờ họ ThyLoan nghiệm được những công án, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,” (Lão) hoặc “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng,” (Huệ Thi) cũng như công án thách đố của ngũ tổ Hoàng Nhẫn, đứng trước ba ngàn môn đồ, giơ lên cây gậy đánh chó ngài nói, “Cái này là cái gì, nói đi. Nếu nói nó là cây gậy ta đánh ba mươi hèo; nếu nói nó không phải là cây gậy, ta cũng đánh cho ba mươi hèo. Nói đi! Nói đi!”
Nói tới nhà Phật lắm tông, nhiều phái không thể kể xiết. Kinh sách lại tùy thuộc chẳng những môi trường, tâm tính, và chủ đích Phật gia, mà còn lệ thuộc ngôn từ được dùng để diễn tả nên hành giả cứ rối tung lên. Tuy nhiên, khi nói tin vào Thiên Chúa, dẫu chỉ một cuốn Kinh Thánh, suy tư, nghiệm chứng lại càng khó hơn. Đàng khác, đặc biệt Phúc Âm được sinh sau đẻ muộn gom góp sự khôn ngoan đạo học trãi dài từ bao đời đạo học Đông Phương nên diễn trình khôn ngoan nơi Kinh Thánh coi bộ dễ hiểu mà thật ra hiểu không dễ phương chi thức ngộ. Có điều, không hiểu về đạo học Đông Phương, muốn thức ngộ về Phúc Âm có thể sẽ là điều mộng tưởng. Vị nào thực sự thao thức muốn nhận biết về Thiên Chúa, chắc chắn tâm trí sẽ rối tung lên với câu nói của Thomas Aquinas, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Ngài; những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Nhà thơ Robert Browning lại viết, “Thượng Đế là một nghệ sĩ tuyệt vời, Ngài đóng vai trò của mình nơi tạo vật Ngài dựng nên,” thế thì còn phép tắc nào nữa không? Vậy tin vào Thiên Chúa thì tin thế nào, rồi lại đức tin là thứ gì mà dân Chúa khi nói về tin cứ ậm ừ như gà mắc dây thung. Các đấng rao giảng về Chúa bao công sức tu đức mà chẳng bao giờ thực hiện lời Phúc Âm, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi, chân các ngươi là cớ cho ngươi vấp phạp thì chặt mà quăng chúng đi.” Chẳng lẽ các vị rao giảng không bao giờ vấp phạm nên thấy ai cũng lành lặn, chẳng ai bể đầu sứt trán?
Nếu ThyLoan không lầm, bất cứ ai cũng được sinh ra với lòng thao thức, khát vọng muốn nhận biết về thực thể chính mình, mình là ai, sau khi thân xác qua đi mình sẽ thế nào, về đâu, ra sao. Đây là gốc gác của sự suy tư, tìm hiểu dù bằng phương thức nào của một người và khi đã nhận biết được thực thể đời mình thì được gọi là thức ngộ. Rảo qua các đạo học Đông Phương, ThyLoan thấy tất cả đều ấp ủ một điểm chung và đó là có một quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật. Quyền lực tối thượng này được diễn tả bằng nhiều danh hiệu khác nhau, chẳng hạn Thượng Đế, Thiên Chúa, Chân Như, Tào, Brahma. Tùy theo sự nhận thức và phát biểu cũng như ngôn từ tùy thuộc các vị trước tác kinh sách đạo học, những giãi bày muôn màu, muôn vẻ mang những trình độ khác nhau. Như thế, kinh sách đạo học là sản phẩm của các vị thức ngộ; những vị thức ngộ này cũng được gán cho những danh hiệu khác nhau chẳng hạn phật, chân nhân, thánh nhân, thức ngộ (phật).
Do lòng thao thức và nỗi khát khao muốn thỏa mãn lòng thao thức, tuỳ hoàn cảnh, thể lý, và điều kiện sống ảnh hưởng tâm trí, mỗi người mơ hồ nhận thức một hình ảnh hay sự thể, hoặc khuôn mẫu nào đó đang cách nào đó áp đặt toàn bộ cuộc đời mình. Đạo học được sinh ra từ đây và dẫn đến nghiệm chứng cho hành giả, cũng như sự thực hành bày tỏ lòng thao thức nhận biết quyền lực tối thượng này được gọi là tôn giáo. Như vậy, tôn giáo là tổ chức nhân sinh diễn tả lòng khát vọng cũng như tìm hiểu, học hỏi về thực thể tâm linh qua những trước tác hoặc chủ thuyết của các nhà rao giảng tạm gọi là giáo lý và nhấn mạnh nơi sự tin tưởng và thờ phượng. Thế nên, khi nói đến tin, người ta thường hiểu lầm về giáo điều, tín lý, mà giáo điều cũng như tín lý lại lệ thuộc tiến trình suy tư, nghiệm chứng của con người tùy thuộc tổ chức tôn giáo và thời gian tiến triển. Con người thăng tiến, chủ thuyết cũng phát triển. Dĩ nhiên, những chủ thuyết đâu được viết cho giới bình dân am hiểu. Giới bình dân chỉ biết nghe mõ, bỏ tiền, chỉ vì đồng tiền liền khúc ruột; đóng tiền hay cúng dường được coi như đóng góp công sức cho sự thức ngộ, được cứu rỗi, và như thế, theo Đạt Ma Sư tổ, vẫn luẩn quẩn trong vòng vô minh; vì sự thức ngộ không học được, không mua hay bán được; dẫu thế vẫn có những quái thai không biết từ đâu mọc ra thứ được gọi truyền tâm ấn như đã xảy ra tại Mỹ mấy năm nào để rồi phát sinh ra sự việc uống nước tắm vô thượng sư khiến tan nhà nát cửa chẳng biết thăng hoa đi đâu khi vô thượng sư trở thành vợ một người nào đó.
Nơi Thiên Chúa Giáo, Quyền Lực Tối Thượng được gọi là Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đông người, nhiều ý nên phát sinh lắm chiều hướng, quan niệm, cảm nghiệm về cũng một Đấng và thế rồi muôn sự rắc rối phát sinh tạo dựng lắm bè, nhiều tổ chức đã lắm phen đấm đá qua nhiều kiểu, nhiều sách lược. Không dám bàn đến chủ thuyết vì sợ cảnh, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết.” Đàng khác, như Thomas Aquinas nhận định, không thể dò thấu Thiên Chúa và tất cả những gì chúng ta nói, quan niệm về Thiên Chúa đều là tưởng tượng; đồng thời, thực tế minh chứng, mỗi người nơi tâm tư do thao thức, khát vọng nhận biết về cuộc đời, về chính mình nên tự đã kiến tạo một hình ảnh, khuôn mẫu, hay viễn tượng về Thiên Chúa. Bởi vậy, khi bàn luận, hay nhận định, cũng như diễn giảng, giải thích, hoặc truyền bá, cũng chỉ một danh hiệu Thiên Chúa nhưng quan niệm, nhận định mỗi người khác nhau phát sinh nhiều cảnh trớ trêu, bất đồng. Sự thể này chẳng khác gì nơi một gia đình gồm đôi vợ chồng và mấy người con; nếu nói những đứa con nhận định về bố hay mẹ chúng, sự khác biệt được diễn tả của chúng tất sẽ không giống nhau. Vấn đề thường được nhận định đó là ai đúng ai sai theo lối nhìn thế tục. Thực ra nhận định của mấy người con không ai đúng, chẳng ai sai vì mỗi nhận định của họ tùy thuộc chẳng những kinh nghiệm liên hệ thân tình gia đình, tâm tính của bố hay mẹ cộng hưởng với tâm tình và tính chất cũng như kinh nghiệm sống, không quên ảnh hưởng bè bạn và quan niệm xã hội nơi mỗi người con. Có lẽ chính bởi những khác biệt quan niệm suy tư do ảnh hưởng quá nhiều yếu tố tâm lý, thể lý, xã hội, môi trường, điều kiện nhận thức v.v... đã phát sinh những bè phái và những sự chẳng nên xảy ra giữa những thao thức của con người chăng. Nhận định như vậy, ThyLoan tạm dùng danh hiệu Quyền Lực Tối Thượng (QLTT) để chỉ về Tào, Chân Như, Brahma, Thượng Đế, Thiên Chúa, Ông Xanh. QLTT cũng đồng nghĩa và là một với Quyền Lực Sự Sống, Quyền Lực Hiện Hữu. Nơi bài viết này, vì câu hỏi dùng danh hiệu Thiên Chúa nên ThyLoan cũng dùng danh hiệu này.
ThyLoan chỉ thử nêu lên một vài cảm nghiệm, nhận định cá nhân về Thiên Chúa từ danh nhân hay đạo học. Nơi Đạo Đức Kinh có câu, “Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Tạm hiểu, trời đất coi con người như chó rơm (con chó làm bằng rơm, trước khi được dùng để cúng thì được nâng niu, trang hoàng lộng lẫy và quý giá, nhưng khi đã cúng xong, người ta đem quăng thùng rác.) QLTT không thiên vị ai và cũng chẳng làm khó ai; tất cả đều là sự tuần hành, hoạt động phải xảy ra. Samuel Butler nêu quan điểm, “Thiên Chúa mà không có quỷ vương là một thiên chúa chết. Samuel đồng thời cho rằng sự khác biệt giữa vô thần và hữu thần chỉ là vấn đề tên gọi, gọi QLTT là Thiên Chúa hay gọi bằng tên khác. Dietrich Bonhoeffer bày tỏ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa nơi những hiểu biết của con người chứ không phải nơi những điều chúng ta không biết, cũng không phải nơi những phiền hà khốn khó mà nơi những sự việc chúng ta đã thực hiện. William Arrowsmith nhận thức, nếu Thiên Chúa thực sự là toàn hảo, Ngài không thiếu sót sự gì. Max Lenner cho rằng, Thiên Chúa chính là thiên tính con người nhận biết nơi mình. Thiên Chúa hiện thể nơi đường hướng tuyệt vời nhất con người hành xử trong cuộc sống thường ngày và ước vọng cao xa nhất con người cố gắng đạt tới.
Lật Phúc Âm, Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng lại hoàn toàn đối nghịch với những gì mà ThyLoan được dạy dỗ. Chúng ta được dạy dỗ và thường quan niệm, Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Phúc Âm lại viết, hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Phỏng nói như thế, Thiên Chúa của Đức Giêsu công bình nhưng không công thẳng! Nơi Ca Dao có ghi lại câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Tiền nhân dân Việt dùng câu này diễu cợt những ai tuyên dương, rao truyền điều chính họ không biết. Có lẽ ThyLoan đã được dạy dỗ những điều chính người dạy cũng không biết họ dạy gì vì quá đối nghịch với lời dạy nơi Phúc Âm! Đức Giêsu rao giảng một đàng, người ta tuyên truyền một nẻo thì nói rằng tin vào Thiên Chúa, tin một Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ gốc gác phát xuất tự đâu? Cũng phải thậm phục tiền nhân đã có bậc thức ngộ để lại câu nói như đùa mà quá thâm trầm, nhắc nhở người nghe nên đặt lại mọi vấn đề.
Sự thể vốn như thế trong khi chúng ta thường vội chấp nhận nên lại cũng thường rơi vào thực trạng Đạt Ma sư tổ gọi là vô minh. Như một lẽ tự nhiên, chúng ta thích và dễ dàng chấp nhận những câu trả lời hoặc giải thích ngắn gọn, dễ hiểu nếu không muốn nói là có thể sờ mó được giống như mì ăn liền không khác gì câu hỏi tại sao tin vào Thiên Chúa, hoặc minh xác, tin vào thuyết tiến hóa. Câu nói đã xác định rõ chỉ là lý thuyết mà chấp nhận tin vào thuyết ấy thì tin thế nào? Thuyết tiến hóa chỉ là một giả định, giả tưởng nên được gọi là thuyết. Thế thì tin vào thuyết tiến hóa tất nhiên tin vào giả tưởng; vậy cũng gọi là tin? Họ nói gì vậy? Họ có biết họ nói chi, nghĩ gì khi dùng chữ tin chăng? ThyLoan có cảm nghĩ họ vô tình lặp lại câu ca dao về con ba ba ở đầu ngòi!
ThyLoan thử phân tích chứ không chỉ trích bởi mọi người cũng như ThyLoan từ ngàn xưa tới giờ vẫn vội tin vào những giảo biện hay những nhận thức sai lầm như thế. Chớ vội nóng tính cho rằng ThyLoan vơ đũa cả nắm. Ừ thì chấp nhận bạn là con người có suy tư, không chấp nhận những gì khoa học không chứng minh được và rất e dè khi nhận định đồng thời cẩn thận nghiệm chứng cũng như thực chứng mọi sự trước khi tin tưởng. Tuy nhiên, chúng ta thường nói và chấp nhận như một thực thể tự nhiên chẳng hạn đôi mắt nhìn, cặp tai nghe, chiếc miệng nói và bộ óc suy nghĩ. Các nhà khoa học cũng nói như thế. Nơi mục khoa học nhân thể của chương trình truyền hình Discovery được một số hoa học gia chuyên biệt giải thích về hoạt động của não bộ liên hệ tới sáng kiến, tư tưởng phát hình và giải thích rằng những tư tưởng mới, sáng kiến được phát sinh nơi những giây thần kinh não bộ. ThyLoan vô tình tự hỏi, thế sao biết bao người có những đôi mắt tốt lành, cặp tai tinh tường, chiếc miệng ăn nói dễ thương, và những bộ óc siêu việt nhưng khi cái gì đó nơi nội tại, tạm gọi là linh hồn thoát ra khỏi xác thì đôi mắt coøn có thể nhìn, tai coøn có thể nghe, miệng coøn có thể nói, và bộ óc coøn có thể nghĩ được nữa chăng?
Mọi người, ai cũng thực chứng được mắt, tai, miệng, óc, tự chúng có thể tự hoạt động được hay không, thế sao chúng ta nói, nghĩ, chấp nhận con mắt nhìn, lỗ tai nghe, chiếc miệng nói, và bộ óc suy nghĩ? Phải chăng con người tự thuở tạo thiên lập địa tới giờ, thế kỷ 21, đã không chịu suy nghĩ mà chấp nhận một cách bừa bãi, thiếu nhaän thöùc daãu ñang thực chứng như thế. Chính ngay nơi mỗi người, trãi qua bao thiên niên kỷ, bao người đã ra đi, đồng thời tất cả mọi người thời bây giờ đã không để ý khả năng tự chín chắn nhận định, tránh hùa theo chấp nhận! Nói gì và nói sao? Đã nhận định sai lầm về chính con người của mình thì sao có thể nói đúng đắn về thực thể tối thượng là Thiên Chúa, phương chi nói về tin. Nơi Kinh Thánh được viết, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài mới chỉ nhận thức căn bản về mắt, tai, miệng đã không chỉnh thì nhận thức, suy nghiệm nào toàn hảo? Cứ theo lý luận, một tâm hồn không nhận biết mình thế nào, mình là ai sao có thể suy nghiệm, nhận thức về Thiên Chúa phương chi nói đến tin! Thiển nghĩ, hình như chúng ta không dám nói thật bởi e nói thật sẽ không được người chung quanh chấp nhận nên cứ tự lừa dối và đồng thời lừa dối mọi người để được họ xếp chung cá mè một lứa. Người dạy không biết mình dạy gì; người rao giảng chẳng biết mình quảng bá chi nên người nghe, đọc, đành tuyên xưng tin, tin bừa bởi không biết mình tin gì! Quái!
3/ Tin vào Chúa, tin đức Kitô
Theo đạo Công Giáo dầu không biết mình có ước muốn tin theo Đức Kitô và Thiên Chúa lúc được chịu phép rửa tội hay không; thiển nghĩ, ThyLoan nên tìm hiểu xem Thiên Chúa như thế nào. Dĩ nhiên, tài liệu đầu tiên phải là cuốn Kinh Thánh. Có điều, chuyeän rất bình thường nhưng thường thì lại được coi là khác thường nếu không muốn nói hoặc bị cho là nghịch thường đó là dẫu tuyên xưng mình là Kitô hữu, người ta lại ít để ý đến Đức Kitô dạy thế nào mà gom góp, nghe hơi, ngồi chõ những gì đâu đâu rồi hô lên phải tin thế này, phải tin thế kia rối tung lên; rối đến nỗi chính người tuyên xưng tin vào Chúa cũng chẳng biết mình nói gì hoặc tin gì, rất hợp với câu ca dao về con ba ba đầu ngòi.
Đọc Phúc Âm, ThyLoan nhận ra một điều khác lạ hơn đó là Phúc Âm nói những câu rất khó hiểu hoặc có thể hiểu được cũng chẳng thể nào áp dụng được và trình bày về một Thiên Chúa của Đức Giêsu hầu như đối nghịch với những sự giảng dạy của mấy ông trùm, mấy dì phöôùc, hoặc mấy cố đạo. Chẳng hạn Phúc Âm được viết, “Còn những thành khác nữa ta phải loan báo tin mừng nước trời, vì đây là mục đích Ta được sai tới” (Lc. 4:43). Cứ theo câu này thì mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là loan báo, rao giảng tin mừng nước trời. Không hiểu sao, người ta lại cứ hiển nhiên công bố Chúa Giêsu đến để chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Chẳng lẽ Phúc Âm viết sai, viết rối vì “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết,” đa số thắng tiểu số mà; hầu hết người ta nói Chúa chết để chuộc tội cho thiên hạ; chỉ có Phúc Âm viết Chúa đến để rao giảng tin mừng nước trời. Phỏng như vậy, dưới mắt người có đạo, Phúc Âm rối?
Qua Phúc Âm, Đức Giêsu gọi và dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và như đã được nhắc phía trên, ngài dạy, các ngươi hãy trở nên thiện hảo như Cha các người trên trời là Đấng thiện hảo vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ và làm mưa xuống trên kẻ ngay cũng như kẻ ác; trong khi mấy người dạy giáo lý lại phán, Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Hừ, mấy con bạn tốt lành, chỉ hơi tinh quái, dám nghịch ngợm mà bị phạt, bị quất roi mây vô đít khóc hu hu, chẳng ác, chẳng dữ cũng bị phạt, không biết Thiên Chúa yêu thương biến đâu mất! ThyLoan sợ mấy ông chúa trời ngôi thứ tư này nên tránh càng xa càng tốt. Ấy, các cụ hay lặp lại câu chữ nho, kính nhi viễn chi có lẽ mang ý nghĩa như thế.
Hình như người ta thường hay có thói quen lấy chính mình làm khuôn mẫu để nhìn nhận hoặc xét đoán sự việc. Thế nên cũng quen thói lấy nhận thức của chính mình về Thiên Chúa rồi bắt cóc Đức Giêsu ráp vào, không cần biết Đức Giêsu đã dạy gì qua Phúc Âm. Chẳng phải một người quen thói mà cả tổ chức lên án những người không quan niệm về Thiên Chúa giống mình thế là ngôn từ rối đạo, phá đạo được phát sinh. Ai sợ chứ ThyLoan tôi không sợ; không sợ bởi vì không dám nói ra nên chưa bị kết án chứ không phải dám bạo phổi nói ra. Ôi! Nếu nói không giống họ thì chỉ có mà loãã vốn, thiệt mình là một, hại làng là hai; chỉ những con mắt lườm nguýt đã bào mòn cả thân xác, lỡ thành con mắm khô thì sao. Bố mẹ biết được thì lại bị chửi con này ngu.
Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu rao giảng về một Thiên Chúa rất thân thiết với mọi người, ngự trị nơi bất cứ ai, dẫn đàng dắt lối, cũng như thấu hiểu và thực hiện những gì con người thật lòng cầu khẩn, “Thiên Chúa là Thần khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Jn. 4:24) vì, “Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Jn. 6:45). Nghe và học nơi Thiên Chúa có nghĩa phải suy nghĩ, suy nghiệm, nghiệm chứng sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi cuộc đời của mình và có như thế mới hiểu được những lời giảng dạy của Đức Giêsu. Ngay như Phêrô trước khi chối Chúa cũng đã được minh định nơi Mt. 16:17 “Đáp lại, Đức Giêsu nói với ông: 'Simon, Baryôna, ngươi có phúc, vì không phải thịt, máu, đã mạc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời!” Câu này chứng tỏ Thiên Chúa ngự trị ngay nơi cõi lòng mọi người. Hơn nữa, Ngài còn khuyên, “Hãy coi chừng mà tránh men của Biệt Phái và bè Sađóc!” (Mt. 16:7) Như vậy chúng ta nên tránh giáo lý của biệt phái và Sađóc, giáo lý dựa theo suy nghĩ thế tục; giáo lý của Đức Giêsu thuộc về tâm linh, không thuộc về tôn giáo hay luân lý. Như vậy, câu hỏi được nêu lên để chúng ta suy nghĩ; mình thế nào; mình theo ai, theo Đức Giêsu hay cứ giống như năm cô trinh nữ khờ dại chỉ biết bảo sao làm vậy! Thật rõ ràng, Ngài dạy, “Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt. 7:21). Cả cuộc đời Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nước Thiên Chúa và đöôïc ghi cheùp lại nôi Phúc Âm; như thế, ý của Thiên Chúa chính là Phúc Âm. Thiên Chúa của Đức Giêsu ngự trị nơi cung lòng mỗi người nên cần đọc và nghiệm chứng Phúc Âm bởi, “Ai mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó, và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó. Ai không mến Ta, thì không giữ các lời Ta. Mà lời các ngươi nghe đây không phải là của Ta, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ta” (Gioan 14:23-24).
Tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu mang nghĩa nhaän thöùc, nghieäm chöùng vaø tuÂn giữ, aùp duïng những lời Ngài giảng dạy nôi cuoác soáng. Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời “Còn những thành khác nữa ta phải rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì đây chính là mục đích Ta được sai đến” (Lc. 4:43). Vậy tin mừng nước trời là gì, thế nào theo Phúc Âm?
4/ Đức tin
Cao điểm của bốn Phúc Âm chính là đức tin, lòng tin. Lòng tin con chữa con, cứu con, và là ơn cứu độ của con. Một câu Phúc Âm khiến cho ThyLoan lục lọi trên internet hoài mà không thấy nơi đâu dám viết như thế; tất cả những sách nọ, truyện kia ThyLoan đã đọc cũng không có và cũng chẳng thấy ai dám nói như thế đó là, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì chuyện sẽ thành cho nó” ( Mk:11:23). Kẻ nào có nghĩa bất cứ ai. Khi mình bảo núi này có nghĩa mình bày tỏ ý định, ước muốn của mình đối với ngonï núi. Như vậy, ý định, ước muốn của một người tự mang quyền lực nào đó mà chúng ta chưa nhận biết; quyền lực này nơi mọi người.
Xét thế, muốn biết đức tin, lòng tin cần phải biết Tin Mừng Nước Trời. Muốn biết tin mừng nước trời cần biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì. Muốn biết Nước Thiên Chúa lại cần phải biết Thiên Chúa là gì, thế nào. Muốn biết Thiên Chúa ra sao, cần phải biết hình ảnh của Ngài bởi Kinh Thánh viết, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Dẫu hành trình vạn dặm cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Bước khởi đầu cho hành trình nhận biết Thiên Chúa để tin vào Ngài, cần phải biết hình ảnh của Ngài, mình là ai, thế nào. ThyLoan bạo phổi đề nghị, lấy một tời giấy trắng kẻ một vạch ở giữa từ trên xuống dưới, một bên viết xuống tất cả những sự thánh thiện, tốt là của mình từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Phía bên kia, viết xuống tất cả những điều chẳng nên của mình từ tư tưởng, lời nói cũng như việc làm. Cất nơi kín đáo không cho ai biết; hôm sau đọc lại và mở rộng lòng chấp nhận sự thể được viết xuống chính là mình, không bào chữa, không lý luận, thiếu bất cứ điểm nhỏ nào đó thì mình sẽ không phải là mình. Nơi thư thứ nhất gửi tín hữu Corintho, thánh Phao Lô đặt vấn đề, “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần sao” (1Cor. 6:19). Nơi nào có Thánh Thần, nơi đó có Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con ngự trị.
Như vậy, tin vào Thiên Chúa tức là nghiệm chứng và nhận thực sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, đang hoạt động nơi mình. Cũng từ khởi điểm này sẽ nghiệm ra Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời, và cuối cùng là đức tin.
16 Chúa Giêsu bị rửa tội gì?
Vô tình lạc vào forum này và theo dõi đã hơn tuần nay, tôi (nick timhoc) có nhiều khúc mắc khi đọc Phúc Âm mà đi nhà thờ nghe cha giảng (xin đừng hỏi cha nào) thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.
Hôm nay chủ nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, nơi nhà thờ cha giảng cha nghe. Phần tôi đầu óc cứ quay cuồng những câu hỏi lỡ nói ra e bị chụp mũ rối đạo.
Chợt nhớ cái forum này, tôi mạo muội dán lên điều khúc mắc lỡ ai đó có chụp mũ thì cũng chỉ chụp cái nick. Chúa có quăng cái nick này xuống đáy mười tầng địa ngục cũng chẳng phiền đến ai. Có cơ hội xả hơi những gì ấm ức may ra lòng ruột thanh thản, vì thế, tôi thành thực cảm ơn người tạo ra forum này. Cầu Chúa và Mẹ gìn giữ kẻ làm ơn đẹp mãi nơi hồng ân nước trời.
Tôi xin được nêu những điều khúc mắc.
1/ Theo Phúc Âm, phép rửa thánh Gioan Tiền Hô thực hiện chỉ là nghi thức bày tỏ lòng thống hối, ăn năn lầm lỗi của con người. Chúa Giêsu thống hối, ăn năn lỗi lầm nào mà phải chịu phép rửa?
2/ Tôi theo đạo Công Giáo. Vừa mới sinh ra chưa kịp phạm tội đã bị chịu phép Rửa Tội thì lấy gì ăn năn, khóc lóc. Dĩ nhiên, khóc thì có nhưng ăn năn thì không!
3/ Ai rửa tội cho thánh Gioan Tiền Hô mà tôi là người được rửa tội Công Giáo phải gọi ngài là thánh?
4/ Tôi không thấy nơi nào trong Phúc Âm nói đến Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai. Ngài không thực hiện việc này. Ngài không rửa tội cho thánh Giuse hay bất cứ môn đồ, tông đồ nào, sao lại có câu ra lệnh cho các tông đồ rửa tội cho người ta “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”?
5/ Ngày xưa còn bé được mấy ông trùm, bà quản dạy giáo lý và nghe các cha dạy rằng “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi,” hoặc “Không được rửa tội không được vào nước thiên đàng.” Thế những ông thánh Gioan Kim, bà thánh Anna (phụ mẫu đức Mẹ), thánh Giuse, và các thánh tông đồ không vị nào được rửa tội và cũng không vị nào theo đạo Công Giáo thì bây giờ họ ở cái thiên đàng nào trong khi tôi được dạy phải kính các ngài là thánh, thánh ngoài Công Giáo?
Nếu có ai giải đáp dùm những khúc mắc để tôi cảm thấy an bình tâm tưởng, xin nhận nơi tôi lòng cảm ơn trước.
timhoc
Trả lời, Nhà bác mang nick “timhoc” thân mến.
Nhà cháu loanh quanh trên net giải trí tìm vui, vớ ngay được mấy điều khúc mắc nhà bác dám cả gan dán lên net giữa chốn quần vương “Đức Chúa Trời Ngôi Thứ Tư” nên chân tay ngứa ngáy cũng liều đánh trống trước cửa nhà sấm thử ngấp nghé chia phần lời cảm ơn của nhà bác và ước mong nhà bác thông cảm nếu đầu óc nhà cháu lỡ có điều gì lệch lạc không thuận với lối suy tư kinh thiên động địa của nhà bác.
Trước hết, nhà cháu thử gieo quẻ bói Mai Hoa về thân phận nhà bác. Trúng, sai đều sai nhưng nhà cháu tạm dùng nó để áp dụng lời thánh Phao Lô (quân vô đạo vì chưa được rửa tội nên bị phạt ngã ngựa), “Nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:19). Dĩ nhiên, một khi đã nghiệm xét mọi sự, nhà cháu cũng chẳng tin gì chính mình phương chi thành quả quẻ bói. Ngược lại, nó đã lỡ nhảy đến trong đầu thì cứ coi nó như là thành tố mang phần nào ảnh hưởng đến những khúc mắc may ra gỡ được mấy đoạn nhợ nơi rừng rú cây cỏ lẫn lộn.
Qua ngôn từ nhà bác sử dụng, tuổi tác nhà bác có lẽ xấp xỉ “Cổ lai hy,” thiếu chăng chừng dăm bảy năm. Sở dĩ nhà cháu dám mạo muội bói mò như thế vì nhà bác dùng ngôn từ “các cha” dẫu phần nhập đề tránh lách, chặn trước đón sau, nhà bác viết “các ngài.” Ngày xửa ngày xưa có lẽ trước thời nhà bác đã lâu, người ta hay dùng thành ngữ “Đi ở nhà thầy” để rồi sau này hay sử dụng tiếng “Các thầy.” Nhà cháu mê mẩn với lối dzăng chương “Trạng Quỳnh” nên cứ mỗi lần nghe thấy, đầu óc lại cứ tưởng tượng đến món quốc hồn quốc túy thành ra trộm nghĩ coi chừng nhà bác cũng có những liên hệ dây dưa với nhà thầy ít nhiều.
Nói rằng nhà bác có ít nhiều liên hệ với nhà thầy bởi bác đã dám đọc Phúc Âm một cách kỹ lưỡng, điều này được minh chứng với câu, “Tôi không thấy nơi nào trong Phúc Âm nói đến Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai. Ngài không thực hiện việc này. Ngài không rửa tội cho thánh Giuse hay bất cứ môn đồ, tông đồ nào.” Quả là nhà bác quá thông thuộc và để ý Phúc Âm nói những gì lại còn có phần bới bèo ra bọ. Tất nhiên, chắc chắn vẫn còn nhiều chuyện về Đức Giêsu thực hiện đã không được nhắc tới. Chính Ngài cũng bảo các môn đồ, “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Gioan 16:12). Thì cũng đành chấp nhận Thánh Thần của Đức Giêsu làm việc và thúc đẩy nhà bác xốn xang, quay quắt vì Phúc Âm; và cũng có lẽ chính bởi lý do này những đầu óc kinh viện thế tục không kham nổi luồng thần khí nơi nhà bác nên lỡ chẳng may nhà bác tham dự đoàn quân đi ở nhà thầy nơi đất nước Việt Nam thời thập niên năm mấy sáu chục cũng chẳng ma dại nào dám chấp nhận, chứ chưa nói tới đề nghị đặt tay phong chức cho bác được vào hàng ngũ “Đức chúa trời ngôi thứ tư.” Và giả sử cũng chẳng may Thánh Thần liều mạng xúi bẩy thiên hạ làm như thế, nhà bác sẽ vì Phúc Âm mà bị kết án là thuộc bè rối và bị đuổi ra khỏi hàng lớp vương giả trong hệ thống thần quyền các ñaáng laøm thầy. Nếu không thế, nhà bác sẽ dùng Phúc Âm phá tan hoang tổ chức được gọi là Công Giáo của họ. Ha ha... lại thêm một “Martin Luther Việt” thì coi chừng giờ này có thêm cả đám con, cháu, chắt “Phản Giáo” người Việt. Loạn to!
Bói về nhà bác mà không tự giới thiệu sẽ trở thành bất kính bậc trưởng thượng, lạc khỏi phong hóa dân tộc. Nhà cháu đành trình bày thân phận. Nhà cháu tuổi trời đến nay vừa qua khỏi hàng lớp ngựa chứng đồng thời cũng vượt qua cửa hồi xuân nếu tính theo Kinh Dịch, mỗi con vật chịu trận năm năm. Nhưng số trời đã định cho bất cứ ai, lớp tuổi động cỡn họ hàng nhà ngựa vừa qua đã vội vã tới thời con dê tâm tình “lactose intolerant” xao xuyến để rồi tập tành học đòi giới “Monkeys see, monkeys do” nên sinh ra ngứa chân, ngứa tay nhào vô gõ bậy. Bởi vậy, chụp được khúc mắc nhà bác, nhà cháu chịu không nổi đành thử múa gậy trước cửa Lỗ Ban. Vẫn biết rằng nơi cái diễn đàn này ai làm người nấy chịu, ai viết kẻ đó mang tai tiếng và có thể bị kết án như nhà bác đã sợ bị đày xuống mười tầng địa ngục dẫu chỉ là cái nick, nhà cháu thực sự thông cảm nỗi lo âu của nhà bác. Đồng thời nhà cháu hoan nghênh sự bạo gan xuất phát từ lòng ấm ức đã bao lâu nay nhà bác đã và đang phải mang. Người xưa có nói, “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” Nhà cháu cảm thấy phấn chí lắm; không hiểu nhà bác nghĩ sao. Thế nên, dẫu vô tình viết mà quên lách, mong nhà bác chớ vội vàng nóng bậy phang bừa phang bãi do còn lắm kẻ dòm, người ngó, cười mình thiếu phần lịch thiệp, chưa biết phép lễ độ cuộc đời.
Xét về những khúc mắc của nhà bác, nhà cháu cũng tự đặt vấn đề từ bao lâu nay nhưng chẳng có cơ hội nào phát tiết; chẳng lẽ tự biên, tự diễn lẩm bẩm một mình giống như kẻ điên hoặc mua dàn máy karaoke ồn ào độc thoại, lại chẳng dám uổng tiền tốn phí mua đồ ăn thức uống mời khán thính giả tham dự và cuối cùng sẽ bị họ mắng té mắng tát vào mặt là dám phạm thượng, dám cả gan suy luận Lời Chúa, dám tự cho mình là hay, là giỏi tạo thành bè rối. Nhà cháu không thuộc bè nào trong các thứ bè trên, bè dưới, hoặc bè ngang nơi các tổ chức nhà dòng Công Giáo mặc dầu con nhà có đạo. Nhà cháu chỉ biết mọi bè phái Thiên Chúa Giáo đều được đặt trên căn bản Phúc Âm; thế mà, bè nào cũng chẳng chịu bè nào; mỗi bè một cõi, lại còn cố xâm lấn anh em với chiêu bài truyền giáo, kêu gọi trở lại, kết án trở đi. Dùng chung danh hiệu “Đức Tin,” tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, nhưng bè nào cũng đều khinh thường lời giảng dạy của Ngài qua Phúc Âm.
Nhà cháu nói có sách, mách có chứng. Nhà bác lục lọi, bới móc Phúc Âm chắc có lẽ khỏi cần nhà cháu thanh minh thanh nga. Nhà cháu chỉ nhắc lại một điều hiển nhiên ai cũng nhận thấy đã khiến nhà bác la lên, “Tôi (nick timhoc) có nhiều khúc mắc khi đọc Phúc Âm mà đi nhà thờ nghe cha giảng (xin đừng hỏi cha nào) thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.” Nhà bác không bới bèo ra bọ là gì? Các cha nói gì, giảng gì thì đó là chuyện của các ngài. Nhà bác nghe hay không là quyền của mình nào có bị ốm bớt hay mập phì thêm đâu mà phiền lòng. Ông bà mình có câu, “Ăn cơm chúa, múa tối ngày.” Các cha phải giảng, không giảng không được. Giáo dân có bổn phận đi nhà thờ thì phải nghe, không muốn nói phải nghe thì bị nghe, không được có ý kiến; đó là truyền thống Công Giáo. Các cha bảo con bò là con chó, thì nó là con chó. Các cha bảo Chúa phạt, thì Chúa phạt. Các cha bảo linh mục có quyền hơn Đức Mẹ thì linh mục có quyền hơn Đức Mẹ, mắc mớ gì nhà bác kêu ca, so sánh về chuyện các ngài giảng gì, nói chi. Nhà bác không muốn nghe mà phải đi nhà thờ, không đi nhà thờ sẽ bị Chúa phạt thì cứ ra chợ mua ngay một đôi “Ear plug” bịt kín cặp tai lại và nghiễm nhiên ngồi nơi ghế nhà thờ ngủ gật. Cha chưa kịp giảng đã đồng ý thì ai dám kết án nhà bác là rối đạo, nghịch đời. Coi chừng nhà bác còn được ban khen là con chiên ngoan đạo, biết vâng lời các đấng cho thuận câu “Vâng lời trọng hơn của lễ.”
Nhà bác nói các cha không giảng về Phúc Âm hoặc có nhắc đến Phúc Âm thì giải thích theo nghĩa đen. Bác quên lời tiền nhân để lại, “Muốn nói ngoa làm cha mà nói” sao! Dân ta ngàn xưa đến ngày nay tiến từ thời đồ đá, vượt qua đồ đồng, đến đồ đểu; nhà bác thử rở đủ mọi các sách vở nơi tất cả các bè phái, kể cả Công Giáo xem có sách vở nào bới móc chuyện Đức Giêsu không rửa tội cho bất cứ ai chăng? Đàng này, nhà bác bới thêm vợ chồng thánh Gioan Kim, thánh Anna, đến thánh cả thợ mộc Giuse, rồi các tông đồ, môn đồ, thậm chí thánh Phao Lô tông đồ dân ngoại chỉ bị ngã ngựa chứ vẫn chưa được rửa tội. Thiển nghĩ, có lẽ nhà bác còn thấy rằng không sách nào dám viết chẳng ai trong họ là người Công Giáo. Nhà bác e sợ bị thiên hạ kết án rối đạo chẳng sai chút nào. Những gì nhà bác suy nghĩ, nhận biết không thuộc về Công Giáo chẳng lẽ chúng tông truyền? Nếu tông truyền sao không được ghi chép, dạy dỗ. Bởi đó, các cha không dám nói tới dẫu nhận biết đến mấy chăng nữa. Thần học kinh viện chưa đủ khả năng đối diện thực thể này trong khi các cha được đào luyện nơi lò tông truyền, nói trật ra ngoài thì rối, mà bị kết án rối tất nhiên thất nghiệp. Các cha xưa nay chỉ được huấn luyện sử dụng cái miệng rao giảng chứ không được huấn luyện thành thợ điện hay thợ cuốc đất nên nếu bị kết án rối, bị đuổi khỏi hàng ngũ tông truyền chỉ còn cách đi ăn mày. Tất nhiên, mất việc làm thầy, không biết bới đất nhặt cỏ, chẳng rành làm thuê, làm thợ thì coi chừng cũng chẳng biết cách ăn xin, chỉ còn nước chết đói giữa một thế giới muôn ngàn người sung túc đến độ xa hoa.
Có điều, nhà cháu xin nhắc nhở nhà bác timhoc, nhà bác không đi nhà thờ chủ nhật sẽ bị mang trọng tội, nhưng đi nhà thờ mà không để ý lời cha giảng không có luật nào kết án; cũng như là người Công Giáo, một nam, một nữ, ăn ở với nhau mà không có phép đạo thì bị coi là trọng tội, không được thông công các phép bí tích Công Giáo, nhưng nếu nhà bác chuyển đạo, bỏ đạo Công Giáo theo đạo khác thì Công Giáo lại chẳng có gì nói tới. Không có lề luật nào lên án hành động này. Người ta lên án kẻ chối đạo nhưng không có luật kết án kẻ bỏ đạo. Người ta tung hô, ca tụng những vị tử vì đạo chứ chưa thấy ai ca tụng tử vì Phúc Âm. Như thế, nếu nhà bác bị kết án rối đạo thì chỉ rối đối với đạo chứ chưa có ai dám cả gan kết án nhà bác chống lại Phúc Âm. Thy Loan mạo muội nhắc một câu Phúc Âm, “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy cho. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (Gioan 6:45). Nhà bác nghĩ sao thì nghĩ. Nhà bác đón nhận giáo huấn của Chúa Trời Ba Ngôi hay của ngôi thứ tư thì tùy nhà bác. Nhà cháu không có ý kiến nơi hành trình nghiệm xét riêng tư này.
Nhà bác nêu câu hỏi Chúa Giêsu thống hối, ăn năn chuyện gì, điều gì mà phải chịu phép rửa từ Gioan! Chuyện rõ ràng đã được ghi chép cả hai ngàn năm trước và vẫn còn hiển hiện nơi Phúc Âm đến giờ thế mà bác bới ra câu hỏi về thống hối, ăn năn của Chúa Giêsu. Lật Phúc Âm Matthew, nhà bác sẽ đọc được, “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người” (Mt. 3:13-15). Nơi Phúc Âm Matthew, Đức Giêsu không nói gì về ăn năn, thống hối mà chỉ nhà bác hỏi về ăn năn thống hối. Ngài chỉ nói, “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Nhà bác vẽ rắn thêm chân. Tất nhiên, Đức Giêsu chẳng có gì để ăn năn thống hối nên các cha không bao giờ giảng về vấn đề này. Chuyện các ngài đọc và suy nghiệm Phúc Âm hay không chẳng thuộc về quyền thẩm định của nhà bác. Nhà bác có nhắc tới thì chỉ thuộc loại méo mó nghề nghiệp hầu mong che lấp ý đồ dùng câu “Con khôn hơn cha thì nhà có phúc” làm phương châm. Nếu cho rằng nhà bác không bới bèo ra bọ thì cần phải được giải thích thế nào cho hợp tình hợp lý về vấn đề được đặt thêm? Riêng hành động Chúa giêsu chịu phép rửa của Gioan, cứ coi như mưu mô chính trị để được mọi người chấp nhận mà mở lòng mở dạ cho Tin Mừng Nước Trời lọt vô, không khôn ngoan hơn con rắn sao!
Nhà bác lại cho rằng các cha không giảng Phúc Âm, hoặc cùng lắm thì giải thích theo nghĩa đen, “thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.” Hai ngàn năm qua rồi bác ơi, các ngài được dạy dỗ, huấn luyện như thế trong truyền thống như thế. Chính Chúa cũng không dám hó hé gì mà chỉ đành chấp nhận chịu đựng. Sự thể này chẳng khác gì hoàn cảnh của Đức Giêsu khi Ngài cầu nguyện, “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén đắng này cho con, nhưng một theo ý cha, đừng theo ý con.” Sự kiện này chẳng khác chi trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Trốn tránh không được thì đành chấp nhận. Ai bảo Ngài dám rao giảng nghịch tai thiên hạ. Xét thế, Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn phải thua ngôi thứ tư. Lý do rõ ràng đó là câu nói, người ta chỉ có thể dẫn con lừa tới dòng suối. Uống nước hay không tùy nó. Dòng suối Lời Chúa được in ấn rõ ràng những hai ngàn năm nơi muôn triệu cuốn Kinh Thánh. Đọc và suy nghiệm hay không tùy mỗi người. Hơn nữa, kinh nghiệm thực tế chứng minh, người ta không thể bổ đầu con bò mà nhét óc chó vô được. Thiên Chúa không có cái miệng để bảo những người nhân danh Ngài đi rao giảng rằng phải thế này, phải thế kia. Ngài cũng không thể dùng thần khí nào đó để xúi thiên lôi đả chết những ai không đi đúng đường phải và nên đi. Nếu nhà bác đọc cuốn Hồi Ký Mùa Thu (Cuộc Đời Thánh Anphongsô), tác giả Joseph Oppitz, CSsR, hoặc bản dịch do Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR, nhà bác sẽ thấm thía nỗi lòng của người cha sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế khi nhìn thấy môn sinh của mình mê đắm chạy theo tham vọng thế tục. Có lẽ ngày nào đó Thiên Chúa sẽ bị đứng tim mà chết vì tức giận bởi những kẻ được chọn đã rao giảng điều chính Ngài không ngờ. Có thể Chúa Giêsu hy vọng tan tành nên chấp nhận chết cho rảnh nợ, “Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi; cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!” (Mt. 17:17). Chúa đành chịu thua; nhà bác nói lên sự thể đã có truyền thống những hai ngàn năm với mục đích gì? Nhà bác có định nêu gương bới móc cho kẻ khác học đòi hay không?
Xét theo nguyên tắc căn bản, bất cứ tổ chức nào cũng cần phải có những quy định, mục đích, nguyên tắc, cơ cấu, và điều lệ. Những ai tham gia tổ chức chấp nhận mục đích, những quy định, và tuân giữ điều lệ hầu được an hưởng thành quả của tổ chức đó mang lại dẫu không phải lợi ích vật chất thì ít nhất cũng thỏa mãn khát vọng tâm hồn. Những tổ chức nào mang lại lợi ích nào đó trong địa hạt nhân quần sẽ được người đời ca tụng, vinh danh. Những tổ chức nào phá hại lợi ích con người đều bị kết án dẫu những thành viên nơi tổ chức ấy tuyên dương, ca tụng địa vị của họ thế nào hoặc mục đích, chủ trương ra sao.
Nhà cháu không dám luận bàn bất cứ phương diện nào thuộc về lãnh vực tôn giáo nói chung hoặc của một tôn giáo nào đó nói riêng vì thực chất, tôn giáo chính là sự thể hiện lòng khát vọng tâm linh của con người. Sự thể thực tế của tôn giáo được tổ chức để rồi biến chuyển ra sao, nhà cháu không đủ khả năng nhận định bởi có quá nhiều tôn giáo. Một điều chắc chắn ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng nếu để tâm nhận xét, và đó là tôn giáo chỉ là phương tiện cho con người nơi hành trình thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh chứ tôn giáo không phải là cùng đích tâm linh hay chân lý của cuộc sống con người. TÔn giaùo khÔng daãn ngöôøi ta ñi tôùi ñÂu; maø chæ nhö con kieán boø treân mieäng ly, mieäng caùi coác aáy. Nhà cháu đoan chắc một lần nữa, tôn giáo chỉ là phương tiện cho con người giải quyết khát vọng tâm linh mà thôi.
Gốc gác của tôn giáo cũng như gốc gác của tất cả các phương thức, diễn tiến nơi hành trình tâm linh chính là lòng khát vọng nhận biết thực thể chính mình ẩn chứa nơi mọi người. Nơi phương diện này, cách thức thỏa mãn khát vọng tâm linh được tạm chia thành ba phương diện, chiêm nghiệm, minh triết, và tôn giáo. Những người được sinh ra với lòng khát vọng cao độ chọn cuộc sống chiêm nghiệm, suy nghiệm, dồn tất cả cuộc đời mình để tìm về gốc gác sự hiện hữu của mình. Lục tổ Huệ Năng gọi là tìm lại “Bản lai diện mục.” Nơi phương diện khác, con người dùng trí thông minh, sự hiểu biết nghiệm xét sự thể diễn tiến nơi dòng sống cuộc đời hầu thỏa lòng khát vọng nhận biết mình là ai, thế nào, liên hệ với thực thể hiện hữu ra sao được gọi là minh triết. Hai phương diện này cá nhân chủ động diễn tiến hành trình tâm linh qua phương thức như thánh Phao Lô kêu gọi, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhöng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữa lấy! Hay kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-21). Phao Lô cũng đề nghị thêm nguyên tắc cốt cán nữa, và đó là, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mỗi rỗng tuếch đánh bã anh em thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8).
Nhập tâm được lời khuyên của vị thánh dân ngoại, người thực thi những hành động phát xuất từ lòng chân thành khát khao thăng tiến tâm linh trong khi bảo vệ niềm tin bằng cách cố triệt hạ những kẻ không tin theo đường hướng của mình nên bị Đức Giêsu quất cho ngã ngựa, nhà bác may ra mới có thể nghiệm xét được lời Phúc Âm, “Vì sẽ có những Kitô giả và những điềm lạ đến đỗi nếu có thể thì lừa gạt được cả những kẻ được chọn. Này ta đã dặn trước các ngươi đó!” (Mt. 24:24), hoặc “Các ngươi hãy coi chừng; đừng để ai lừa gạt các ngươi. Sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta đến nói rằng: Chính là Ta! Và họ sẽ lừa gạt được nhiều người!” (Mk. 13:5-6). Có thể nói, chỉ khi nào nhận chân được rằng Phúc Âm được viết cho hết thảy mọi người, mọi thời đại, người ta mới có thể áp dụng được Lời Chúa đang ám định nhắc nhở phải mở rộng tâm hồn để nghiệm xét qua các câu, “Hãy coi chừng những tiên tri giả, chúng mang lốt chiên mà đến với các ngươi, nhưng bên trong chúng là mãnh sói tham mồi. Do quả của chúng, các ngươi sẽ nhận biết chúng. Há người ta lại hái nho nơi bụi gai, hay vả nơi cà cuốc sao? Cũng vậy, phàm cây lành thì sinh quả tốt, cây độc sinh quả độc. Cây lành không thể sinh quả độc và cây độc không thể sinh quả tốt” (Mt. 15-17). Những ai tuyên xưng tin theo Đức Giêsu mà không suy nghiệm và rao giảng lời Ngài dạy qua Phúc Âm thì họ đang thực hiện chủ đích nào, nhà bác có dự đoán được chăng? Hoặc, “Hãy lo tránh các ký lục, họ ưa dạo quanh, áo chùng xúng xính và thích được bái chào ngoài công trường, chỗ nhất nơi hội đường, và cỗ nhất trong tiệc tùng. Họ ngốn cả nhà cửa các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài: những kẻ ấy sẽ lĩnh án phạt nặng hơn” (Lk. 20:46). Hay, “Hãy mở mắt coi chừng men của Biệt Phái và men của Hêrôđê!” (Mk. 8:15). Phúc Âm, nói cho đúng, Đức Giêsu căn dặn coi chừng Biệt Phái, Ký Lục, Luật Sĩ, có nghĩa thế nào nhà bác tự hiểu. Nặng nề hơn nữa, nơi Phúc Âm Luca Đức Giêsu cảnh báo sự thể chấn động tâm hồn tất cả những ai để tâm nghiệm xét lời Ngài, “Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lk. 18: 8b).
Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu là gì mà Ngài phải căn dặn chúng ta những điều lạ kỳ như vậy? Tại sao Phao Lô xúi giục chúng ta nghiệm xét mọi sự, chẳng nên tin bất cứ ai, chẳng nên để bị lừa dụ? Xin thưa, lật Phúc Âm Luca nhà bác sẽ thấy, “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.' Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê” (Lc. 4:43-44). Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời! Vậy Tin Mừng Nước Trời Ngài rao giảng là gì? Nước Thiên Chúa là gì? Người ta đang rao giảng gì? Nhà bác đã quá biết sao lại mở rộng lòng cho những bực bội nhảy vô thao túng. Nhà bác có lẽ quên câu thơ Kiều của Nguyễn Du, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” Có lẽ nhà bác rơi vào tình trạng “Lòng buồn chẳng muốn nói ra; muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời!” Lòng ruột nhà bác ấm ức nhưng không có cơ hội đấu khẩu xả hơi tạo thành bực tức nội tại. Thì đây, Thy Loan đấu võ mồm với nhà bác cho vui cửa vui nhà may ra tạo được công ích đã giúp nhà bác vui vẻ thuận hòa với mọi người và với những ai không suy nghĩ giống mình.
Nhà bác muốn nghe Lời Chúa nhưng chỉ thấy những nhố nhăng quảng cáo thuốc gián cứu rỗi khỏi tội lỗi. Nhà bác muốn nhận biết Tin Mừng Nước Trời mà chỉ thấy phải ăn chay hãm mình, phải làm việc lành phúc đức. Tại sao Phúc Âm lại nói đem tin mừng đến người nghèo khó? Người nghèo khó họ cần gì trong lúc bụng đói vì thiếu thực phẩm, thân xác cằn cỗi do kém ăn, thiếu mặc, chỗ ở bần cùng? Tin mừng có làm cho họ no bụng, có thay thế được áo quần rách rưới, và có làm ấm cơ thể của họ nơi mùa đông tháng giá chăng? Vậy Phúc Âm muốn nói tới nghèo khó sự chi?
Coi chừng nhà bác đọc Phúc Âm như con vẹt đồng thời có lẽ chính nhà bác nhận định Lời Chúa một cách từ chương do khinh thị lời đề nghị của thánh Phao Lô, “Hãy nghiệm xét mọi sự” nên càm ràm, kêu ca về chuyện các cha giải thích Lời Chúa theo nghĩa đen. Nhà bác làm ơn nhớ cho điều này, và đó là chỉ người ăn trộm mới hiểu được tâm lý kẻ trộm, hoặc “Có tật giật mình,” hay tệ hơn chính là “Càng làm đĩ, càng già mồm.” Nhà bác thấy cọng rơm nơi mắt người khác mà không nhận biết cái xà nhà ngay nơi mắt mình. Ôi, người mù chỉ đường cho kẻ chột! Không nói thì khóc, nói rồi lại mếu!
Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời thì đã những hai ngàn năm; người ta huênh hoang rao giảng Chúa Giêsu xuống thế chuộc tội cho thiên hạ. Thì cứ giả sử mục đích của Ngài là đến chuộc tội cho mọi người đi để thử xét xem sao. Nếu Ngài đã chết vì và chết cho hay chết thay tội lỗi của mình thì đâu cần gì phải ăn ngay ở lành, làm điều công đức, đâu cần ăn năn đánh tội, đâu cần cầu xin tha thứ bởi ngài đã gánh hết cho mình rồi. Chẳng lẽ lời cầu xin hời hợt hoặc thống hối ăn năn giả hình, lần này con dốc lòng chừa nhưng lần sau con cứ vậy mang năng lực tha thứ hơn ơn cứu chuộc của Đức Giêsu sao? Hơn nữa, nếu thực sự Ngài chết thế cho tội lỗi của mình, thì Ngài đã chịu chết những hai ngàn năm trước vì tội của mình. Ngài chết cho mình trước khi mình được sinh ra. Ngài chết thay tội lỗi của mình trước khi mình phạm tội. Điều này nói lên cái chết của Đức Giêsu chính là bảo hiểm cho tất cả cuộc đời mình. Đã có bảo hiểm đâu cần phải lo lắng, e sợ chi nữa, cứ tha hồ phạm tội vì đàng nào Đức Giêsu đã chịu hết rồi những hai ngàn năm xưa. Nhà bác có chấp nhận được luận lý như thế này không. Nhà bác có chấp nhận được lối tuyên truyền nguy hại đang nhan nhản trình bày nơi mọi phương tiện của cuộc sống chăng? Nói cho cùng, nếu Đức Giêsu đã chịu chết cho tội lỗi của mình từ trước thì phép rửa tội có vị thế nào nơi hành trình cứu rỗi?
Nhà bác được dạy dỗ để rồi theo thói quen gọi những vị không được rửa tội là thánh hay không thì tùy nhà bác chứ đâu ai ép buộc, mà có ép buộc cũng không được bởi miệng nhà bác nói là tin mà lòng không tin đâu có chuyện gì kinh khủng hay mới lạ xảy đến. Miệng nói tin mà lòng ngây ngô, không làm hại nhà bác, chẳng gây phiền hà cho ai thì nhà bác muốn tin sao, muốn nói sao tùy ý. Các cha giảng Chúa chuộc tội, Chúa tha thứ nhưng tin hay không tùy thuộc lòng ruột các ngài. Các ngài giảng Chúa chuộc tội sao lại còn giảng phải ăn năn đánh tội. Thử hỏi, chặt cụt chân một người rồi ăn năn người đó có thể đi bằng hai chân được nữa không? Có thể nói, tuyên xưng rằng Chúa chuộc tội để an lòng dễ bề phạm tội mà thôi. Nếu thử đặt vấn đề, chỉ một vài người phạm tội trọng nào đó bị vật chết tươi ngay khi vừa phạm tội chắc chắn mọi người trên thế giới này sẽ là thánh chẳng cần phải cầu xin hay ăn năn chi hết và lẽ đương nhiên không ai dám phạm tội.
Nhà bác bị hoặc được rửa tội để gia nhập đoàn thể Công Giáo và được gọi là người Công Giáo thì hãy chấp nhận thân phận Công Giáo của mình. Chúa không có tai để nghe vì nếu Ngài có tai để nghe, có mắt để nhìn thấy sự tội người ta vấp phạm chắc chắn đã vật chết ít nhất dăm bảy đứa làm gương đồng thời tạo động lực cho mọi người không phạm tội đã từ khuya. Nhà bác đã không học theo thánh Phao Lô để nghiệm xét mọi sự, không để ai lừa dụ thì chớ dại kêu ca các cha không giảng Phúc Âm kẻo mà bị gọi là rối đạo. Nhà bác làm ơn nhớ cho, “Vâng lời trọng hơn của lễ.” Nhưng nhà bác cũng đừng quên câu nói, “Chân tình, nhiệt thành, và năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Thöû hoûi, ngöôøi ta ñang rao giaûng tin möøng hay tin buoàn?
Cầu chúc nhà bác phấn khởi nghiệm xét Lời Chúa.
17 Pheùp Röûa Toäi,
1/ Phúc Âm không ghi lại Đức Giêsu rửa tội cho bất cứ ai nhưng lại nói ngài truyền cho các tông đồ đi rao giảng và rửa tội. Vậy chẳng lẽ phép rửa tội Công Giáo do Giáo Hội đặt ra?
2/ Nếu do Giáo Hội đặt ra tại sao các cha dạy không được rửa tội thì sẽ không vào được nước thiên đàng. Như thế từ tạo thiên lập địa tơí giờ bao nhiêu người không chịu phép rửa tội sau khi chết linh hồn họ hiện giờ ở đâu?
3/ Giáo Hội gọi các vị Gioan Kim, Anna, Giu se thợ mộc, Phao Lô, các tông đồ là thánh. Điều này có nghĩa họ đang ở trên thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa dẫu họ không được rửa tội. Như vậy phép rửa tội không phải là điều kiện tất yếu để hưởng nước trời. Thế sao có câu nói, “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi?”
Chào nhà bác timhoc.
Mấy vấn đề nhà bác nêu lên liên hệ đến phép rửa tội quả thật hóc búa. Thế nên nhà cháu muốn minh định rõ ràng một điều đó là cũng bởi vì mấy câu hỏi của nhà bác đụng chạm đến sự hiểu biết lờ mờ nơi nhà cháu nên trước hết nhà cháu lục lọi để thỏa mãn thao thức nơi mình và tiếp đó thành thực cảm ơn nhà bác đã nêu lên.
Có câu nói của giới nào nhà cháu không biết, quan niệm rằng nếu ai đó đọc ba khảo luận của ba tác giả khác nhau về cùng một vấn đề thì người đó trở thành học giả về vấn đề đó. Nhà cháu chẳng dám mơ ước làm học giả. Nhà cháu mò mẫm học thiệt mà càng mò càng thấy lắm sự mình chưa biết phương chi học giả. Có điều, sao sách vở nói về phép rửa tội đơn thuần, rành rẽ nhưng truyền thuyết được rao truyền nơi con cái dân Chúa khiến tâm tư nhà cháu hầu như muốn lộn tùng phèo. Nhà cháu tự hỏi, vậy cái truyền thống về phép rửa tội như thế nào? Lý thuyết nơi Đạo Công Giáo minh định ra sao về phép rửa tội? Tại sao trong dân Chúa lại có những nhận định không giống nơi các sách căn bản của Giáo Hội? Hỏi thì hỏi thế nhưng nhà cháu không dám nghĩ đến nên có câu trả lời chính xác ra sao. Nói cho đúng, dân Việt có câu, “Vị thần mà nể cây đa.” Dân Chúa là cây đa; Chúa là vị thần. Do đó, vị thần linh thiêng thế nào đều tùy thuộc cây đa dân Chúa quảng diễn, đúng, sai, phải, trái, nhà cháu đành ngậm hột thị chiêm ngưỡng.
Minh định ngôn từ.
Theo nhà cháu được biết nơi tiếng Việt, ngôn từ phép rửa tội phải được dùng chính xác là Bí Tích Rửa Tội mới khỏi tránh hiểu lầm. Dân Việt ngàn xưa từ đời ông cố bà kỉnh đã sống cùng thời với những vị thực hành các nghi thức cầu thần thánh, bùa ngải, điều khiển âm hồn, phép vua, lệ làng, v.v... Những thày bùa, thày ngải, cô đồng, được những người tin tưởng cho rằng họ mang quyền lực nào đó và sự thể hiện quyền lực này qua nghi thức phép tắc, quy định nơi cõi riêng. Có lẽ vì quen với lối gọi ngắn gọn của những người đồng thời chung quanh nên quen miệng gọi Bí Tích Rửa Tội thành phép rửa tội, và lâu dần thành quen, tạo nên truyền thống, dễ thương nhưng khó chừa, do ñoù gọi như thế chăng.
Bí Tích Rửa Tội bắt nguồn từ đâu và biến chuyển ra sao?
Tự thuở ngàn xưa còn được ghi chép nơi Kinh Thánh, ý niệm, quan niệm về thanh sạch và nhơ uế được chia ra thành bốn phương diện. 1/ Thực phẩm. 2/ Phong cùi. 3/ Đụng chạm đến xác chết. 4/ Liên hệ sinh dục. Từ đây phát sinh nghi thức thanh tẩy bằng nước. Những phương thức thanh tẩy được nói rõ trong Kinh Thánh. Có những trường hợp chỉ cần tắm gội bằng nước là được coi như sạch. Thí dụ, người nào đụng chạm đến người bị nhơ uế bởi liên hệ tình dục sẽ bị nhơ uế trong suốt ngày hôm đó và phải được thanh tẩy bằng cách tắm với nước. (Ấy cái thời này chưa có Bí Tích Hôn Nhân nên cái thứ tình dục được phép hay không được chấp thuận không thấy nói tới. Có thể vì lý do này ngày xưa nơi miền Trung Đông đã có quan niệm nữ giới là cội nguồn của mọi sự tội lỗi chăng, và bởi thế họ bị cho rằng không đáng được để đầu trần xuất hiện nơi công cộng mà phải dùng khăn che). Nhà cháu tạm trích một đoạn nơi sách Lê Vi, “Yavê phán cùng Môsê và Aharôn rằng: Hãy bảo con cái Israel và nói với chúng: Khi người nào bất kỳ ai trong mình mắc lậu, lậu huyết của nó (là vật) nhơ. Và đây là điều nhơ do chứng lậu: Mình nó nhỉ ra lậu huyết hay là mình nó bị nghẽn do lậu huyết: đó là điều nhơ (của) nó. Giường nào của người mắc lậu nằm lên đều mắc uế, đồ vật nào nó ngồi vào đều mắc uế. Ai đụng đến giường nó sẽ phải giặt áo xống và tắm trong nước và mắc uế cho đến chiều” (Lv. 15:1-8).
Hoặc nơi sách Dân Số có ghi, “Phàm ai trên cánh đồng, đụng đến nạn nhân gươm đâm, hay thây chết, hay xương người hay mồ mả đều sẽ mắc uế bảy ngày. Cho kẻ mắc uế, người ta sẽ lấy chút bụi của đống lửa thiêu hy sinh tạ tội mà đổ nước sống lên trên trong một cái chậu. Rồi một người sạch cầm lấy bài hương, nhúng vào nước mà rảy lên lều, lên các đồ vật mà các sinh linh có ở đó, trên cả người đụng phải xương, hay nạn nhân, hay thây chết hoặc mồ mả. Người sạch ấy sẽ rảy (nước) trên người mắc uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và ngày thứ bảy thì làm phép xá tội cho nó. Người mắc uế sẽ giặt áo xống, tắm trong nước và đến chiều thì được sạch. Còn người mắc uế mà không rửa tội mình, sinh linh ấy sẽ diệt khỏi giữa đoàn hội, vì nó đã làm nhơ uế thánh điện của Yavê, nước thải đã không đổ xuống mình nó. Nó là đồ nhơ uế. Đó là luật điều vĩnh viễn cho chúng, còn người rảy nước thải cũng phải giặt áo xống; người đụng phải nước thải sẽ mắc uế cho đến chiều. Và phàm vật gì người mắc uế đụng đến cũng sẽ mắc uế cho đến chiều” (DS. 19:16-21). Có thể rằng chính luật nhơ uế đã ngăn cản thày tư tế và vị luật sĩ nơi Phúc Âm không dám giúp người bị cướp đánh nửa sống, nửa chết bên đường chăng!
Như vậy có nhiều phương thức và nguyên tắc dùng nước để thanh tẩy nơi miền Trung Đông. Những bè phái Qumran, Essenes cũng có những nghi thức dùng nước để thanh tẩy. Phúc Âm có nhắc tới trường hợp người Pharisiêu thắc mắc về việc Chúa Giêsu và các môn đệ không thực hiện nghi thức thanh tẩy thực phẩm và đồ nấu nướng cũng như rửa tay trước khi ăn, “Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: “Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao?” (Lc. 11:37-40).
Xét thế, những nghi thức thanh tẩy của người thời cổ miền Trung Đông đã có từ lâu. Nơi Kinh Thánh, tập tục này được coi như nghi thức lệ thuộc nhóm dân riêng. Người nào bị rơi vô trường hợp nhơ uế mà không thực hiện nghi thức thanh tẩy sẽ bị tách khỏi nhóm dân này. Nơi Phúc Âm, Chúa Giêsu không thực hiện nghi thức thanh tẩy theo người thời bấy giờ. Qua lời đối đáp với người Pharisiêu, Chúa Giêsu nhấn mạnh phần tâm hồn con người chứ không phải nghi thức.
Điều rõ ràng, dẫu Đức Giêsu chịu phép rửa từ Gioan nhưng Ngài đã không rửa tội cho bất cứ ai (Vì Phúc Âm không đá động gì đến chuyện này). Tuy nhiên, Phúc Âm lại được ghi Đức Giêsu truyền cho các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và rửa tội cho những ai tin theo các lời giảng dạy của các ngài qua lời nhân danh Thiên Chúa.
Và sự thể đã xảy ra như nơi Tông Đồ Công Vụ được ghi lại, “Nghe xong, họ bị đâm thấu lòng, và nói với Phêrô và các tông đồ khác: “Chúng tôi phải làm gì, anh em ơi?” Phêrô bảo họ: “Hãy hối cải, và mỗi người hay chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần. Vì lời hứa được ban cho các người và con cái các người, cùng mọi kẻ xa gần, hết mọi người. Chúa, Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi”. Ông còn dùng nhiều lời khác nữa mà đoan chứng và khích lệ họ, rằng: “Hãy lo sao thoát khỏi thế hệ tà vạy này!” Vậy những ai đã đón nhận lời ông, thì đã chịu thanh tẩy. Và trong ngày ấy, đã có thêm được lối ba ngàn linh hồn” (CVTĐ. 3:37-41).
Một điều rõ ràng, “lối ba ngàn linh hồn,” ngôn từ ám định, dĩ nhiên họ đã có linh hồn chứ không phải chịu phép rửa mới có linh hồn. Phép rửa Phêrô và các tông đồ thực hiện “Và mỗi người hay chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần” thay vì chỉ chứng tỏ ăn năn sám hối lỗi lầm.
Như vậy chúng ta thấy, tự nguyên thủy, nước được dùng để thực hiện nghi thức thanh tẩy để được coi là thanh sạch theo điều luật của từng nhóm dân. Đến thời Gioan Tẩy Giả, nghi thức thanh tẩy bằng nước chứng tỏ lòng ăn năn thống hối những sai lầm con người đã vấp phạm. Nghi thức rửa tội bằng nước của các tông đồ bao gồm ăn năn hối cải, nhân danh Đức Giêsu Kitô, và lãnh nhận ơn Thánh Thần.
Tiếp theo đó nơi các thư thuộc về Tân Ước dần dần kiến tạo lý thuyết thần học về nghi thức rửa tội. Nghi thức rửa tội liên kết chúng ta với sự chết, sự an táng, và sự sống lại của Chúa Giêsu, trở nên sống với Ngài, “Hay anh em không biết rằng: Hết thảy ta đã được thanh tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta đã được thanh tẩy? Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới. Vì nếu ta đã nên đồng hình với sự chết của Ngài, thì ta cũng sẽ (được đồng dạng) với sự sống lại của Ngài” (Rm. 6:3-5).
Thư Thứ Nhất Gửi Tín Hữu Côrintô bày tỏ thêm quan niệm sự thanh tẩy bằng nước nhân danh Đức Giêsu là hình thức không những diễn tả sự bắt đầu một cuộc sống mới trong Đức Kitô mà còn bày tỏ quyết tâm chết cho con người cũ, cuộc sống cũ lệ thuộc tội lỗi. Nhờ sự thanh tẩy nhân danh Đức Kitô, con người được thanh sạch, được thánh hóa, được trở nên công chính nơi Đức Giêsu và Thần Khí của Ngài, “Anh em có ít người, trước đã là thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa mà! Được tác thánh, được giải án tuyên công mà! Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, và trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1Cor. 6:11).
Tiến xa hơn, Thư Gửi Giáo Đoàn Êphêsô cho rằng Chúa Giêsu thánh hóa Giáo Hội, thanh tẩy giáo Hội bằng cách dùng nước và lời truyền, “Chồng hãy yêu mến vợ, cũng như Đức Kitô đã yêu mến Hội thánh và đã phó nộp mình đi, ngõ hầu tác thánh, tẩy sạch, là tắm rửa cho bằng nước và lời, hầu tự hiến cho mình một Hội Thánh quang vinh, không một vết nhơ hay nét nhăn hay chút gì như thế; trái lại để Hội Thánh thực là thánh thiện, vô tì tích” (Êph. 5:25-27).
Quan niệm nơi thư gửi Titô thì cho rằng kinh qua nghi thức rửa tội, con người được tái sinh, thăng tiến trên hành trình canh tân tham gia công nghiệp nước trời, “Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta đã hiển linh, thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần, Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Đức Giêsu Kitô, Cứu Chúa của ta, ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời” (Tt. 3:4-7).
Nhờ nguồn ân sủng này, nghi thức rửa tội chẳng những là dấu chỉ hiệp nhất của người lãnh nhận nghi thức thanh tẩy với Đức Kitô mà còn hợp nhất với những kẻ đồng hành trở thành thân thể của Đức Kitô, “Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô thì đã được mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do Thái hay Hi Lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Giêsu. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, vậy thì anh em là miêu duệ của Abraham, những kẻ thừa tự thể theo lời hứa” (Gal. 3:27-29).
Qua những dẫn chứng nơi Kinh Thánh, thuở ban đầu chỉ là nghi thức thanh tẩy theo quy chế lề luật để hội nhập với thành phần tập đoàn, nhóm dân riêng, sau trở thành truyền thống, tập tục và tiến tới quy lệ phải như thế. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa với Gioan có thể nói là một sự kiện đặc biệt để được mọi người nhận biết vì Ngài không theo tập tục thanh tẩy của những bè phái thời bấy giờ. Ngài cũng chẳng rửa tội cho ai và cũng chẳng khởi xướng bất cứ nghi thức rửa tội nào. Ngược lại, Ngài sai các tông đồ thực hiện nghi thức thanh tẩy nhân danh Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần cho những ai tin theo các lời rao giảng từ các tông đồ. Như vậy có thể nói, nghi thức thanh tẩy được du nhập từ Gioan và được nhân danh Thiên Chúa để thực hiện.
Dĩ nhiên, sự việc nào cũng mang một mục đích của người thực hiện. Thuở ban đầu, dân chúng cảm thấy xốn xang khi nghe lời rao giảng của Phêrô và khao khát được bày tỏ lòng chân thành tin nhận. Như vậy, phép rửa đầu tiên cho “lối ba ngàn người” chính là nghi thức gia nhập đoàn thể tin theo Đức Giêsu qua lời rao giảng của Phêrô. Sau đó, qua các thư, những suy tư lý thuyết được thiết lập gán thêm ý nghĩa cho biến cố gia nhập bằng nghi thức thanh tẩy nhân danh Thiên Chúa. Như vậy, những người tin theo lời rao giảng và lãnh nhận nghi thức thanh tẩy từ các tông đồ và những người kế vị được gọi là Kitô hữu. Những lý thuyết này nhấn mạnh sự hợp nhất của Kitô hữu với Đức Kitô, chết cho quá khứ để sống tin theo Tin Mừng Nước Trời, giải thoát khỏi sự ràng buộc lề luật thế tục để sống trong ân nghĩa hồng ân Thiên Chúa.
Có câu nói, khi loài vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ suy nghĩ. Sự thực hành nghi thức thanh tẩy gia nhập Kitô hữu đã phải đối diện với những quan niệm, lý thuyết, chủ thuyết bất đồng phát sinh lắm bè phái. Vào năm 347 Donatus quan niệm rằng thành viên Kitô hữu phải là những người thanh sạch không vướng mắc tội lỗi. Những bí tích do linh mục tội lỗi thực hiện sẽ không thành. Những người bỏ đạo, khi trở về hàng ngũ Kitô hữu phải được rửa tội lại. Quan niệm này được gọi là Donatism.
Sau này vào thế kỷ thứ V lại phát sinh bè phái Pelagianism. Những người thuộc bè phái này quan niệm rằng chúng ta có thể đạt được sự cứu rỗi bởi sự cố gắng thực hiện của con người vì bổn chất con người hướng thiện; do ảnh hưởng suy luận này, bè phái Pelagianism khước từ lý thuyết Tội Tổ Tông. Thời này, Augustine nhào vô chống lại Donatism và pelagianism. Augustine biện luận rằng không phải vị tư tế tội lỗi thực hiện phép rửa mà chính Đức Giêsu làm việc này (?). Cũng thế, Augustine biện chứng, không có đức tin, không có phép bí tích. Ngài đồng thời đưa ra chủ thuyết phép rửa tội là điều kiện cần thiết cho ơn cứu độ. Như vậy, vào thời gian cuối thế kỷ thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm chủ thuyết về nghi thức thanh tẩy (phép rửa tội) đã đạt tới suy tư thần học một cách khá trưởng thành. Nền thần học này đặt căn bản trên lý thuyết, sự gì đã xảy đến với Chúa Giêsu thì cũng được thực hiện nơi mỗi người khi lãnh nhận nghi thức thanh tẩy (rửa tội).
Mãi cho tới năm 1547, Công Đồng Trent (1545-1547), Bí Tích Rửa Tội mới chính thức được giáo luật hóa và quy định rõ ràng. Công Đồng này xác định, Bí Tích Rửa Tội thành, có hiệu lực, và đúng phép dẫu vị tư tế là người lạc đạo; rằng bí tích rửa tội cần thiết cho ơn cứu độ; rằng bí tích rửa tội đòi hỏi người lãnh nhận nhiệm vụ sống một cuộc đời tốt lành, thánh thiện; rằng ân sủng của bí tích rửa tội sẽ bị mất khi người lãnh nhận vấp phạm lỗi lầm kinh trọng; rằng không có trường hợp tái chịu bí tích rửa tội; rằng trẻ em và trẻ sơ sinh được lãnh nhận bí tích rửa tội. Công Đồng Vatican II nơi chương Dogmatic Constitution on the Church ghi chú rằng bí tích rửa tội liên kết thành viên với Giáo Hội, hướng dẫn con người thờ phượng Thiên Chúa và đưa con người tái sinh thành con cái của Thiên Chúa (Catholicism; Richard P. McBrien; Study Edition; Winston Press; Washington, D.C.; 1981; Tr. 752).
Xét thế, sự phát triển lý thuyết thần học phát xuất từ suy tư của con người và được Giáo Hội Công Giáo chấp thuận nâng nghi thức thanh tẩy trong lời truyền nhân danh Thiên Chúa thành Bí Tích Rửa Tội. Qua luận thuyết của Augustine, không có đức tin, không có bí tích; như thế, căn nguyên của Bí Tích Rửa Tội phải là đức tin. Tương tự như vậy, đức tin là cội nguồn, là căn bản cho bất cứ bí tích nào. Từ nhận thức này, nhiều câu hỏi được đặt ra liên hệ tới sự thực hành những phép bí tích. Tuy nhiên, nếu đã không thực sự nhận biết đức tin là gì, không nghiệm chứng rõ ràng đức tin thế nào, liên hệ và cảm nhận thực thể đức tin nơi mình ra sao, sự thực hiện cũng như lãnh nhận các phép bí tích sẽ trở nên thực hành một nghi thức cho có lệ, hoặc lỡ phóng lao thì phải theo lao cho giống người khác chỉ vì danh hiệu đã được gán ép cho trong khi lòng ruột trống rỗng. Thực thể sự vật và sự việc minh chứng, một viên đá được đẽo gọt cho có hình dạng ổ bánh mì; dẫu có cả trăm ngàn lần gán ép hoặc rao truyền đó là ổ bánh mì thì bản chất của viên đá được đẽo gọt mang hình dạng ổ bánh mì vẫn chỉ là viên đá; không ai có thể gặm nhấm chút gì cho có thể tạm qua cơn đói đang hoành hành. Với lòng chân thành khao khát mà không nhận biết thực sự đức tin nơi mình, không thể nào hưởng nhận được thành quả thực thi bí tích dẫu làu thông bất cứ lý thuyết cao trọng nào về nghi thức.
Như vậy điều đáng được nêu lên nơi lòng trí một người Kitô hữu đó là câu hỏi, đức tin là gì? Đức tin nơi mình ra sao? Mình có cảm nhận được thực sự đức tin thế nào không? Phúc Âm nói gì về đức tin? Điều kiện nào để có được đức tin như Phúc Âm xác định? Phải thực hiện những gì để nhận biết hoặc thực sự có được đức tin như Phúc Âm rao truyền? v.v... Ai cũng nhận biết khi đối diện với những vấn đề trọng yếu xoay quanh thực thể đức tin, câu hỏi tự phát sinh về sự rửa tội cho trẻ em và trẻ sơ sinh sẽ là, vậy đức tin của các trẻ em như thế nào để được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vì điều kiện ắt có và đủ để có bí tích phải là đức tin?
Nhà cháu nghĩ bất cứ ai cũng có thể lật Kinh Thánh, đặc biệt bốn Phúc Âm để tìm hiểu về thực thể được gọi là đức tin mà Lm Nguyễn Thế Thuấn dịch là Lòng Tin. Nhà cháu chỉ tạm dùng đôi câu Phúc Âm nói về đức tin làm căn bản giải quyết suy tư về Bí Tích Rửa Tội. Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy những câu, “Lòng tin con chữa con, lòng tin con cứu con, lòng tin con là ơn cứu độ của con.” Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu không bao giờ nói Chúa chữa, Chúa cứu, Chúa là ơn cứu độ mà chính là Lòng Tin (Mt. 9:29; Lk. 8:48; 17:19). Lại có câu nơi Matthew 17:20 “Người nói với các ông: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”. Hoặc nghiêm trọng và bao quát hơn thế nữa, “Đức Giêsu nói với họ: Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này, xê đi mà nhào xuống biển thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được” (Mt. 21:21-22). Câu nói quá bao quát và mạnh bạo đến độ không tưởng. Nhà cháu cố gắng kiếm tìm nơi bất cứ sách vở nào có thể, kể cả trên internet mà không thấy nơi đâu dám tuyên bố như thế, chỉ nơi Phúc Âm.
Những câu Phúc Âm được nhà cháu nhắc đến nơi đây minh chứng nơi mỗi con người hàm chứa một quyền lực tối thượng. Quyền lực nội tại này cứu mình, chữa mình, và là ơn cứu độ cho mình được gọi là đức tin; Đức Giêsu nói thế. Hơn nữa, kẻ nào bảo núi này xê đi có nghĩa kẻ nào bày tỏ ước muốn, ý định rằng ngọn núi xê đi. Điều này mang nghĩa nơi ý định, ước muốn của mỗi người tự mang một quyền lực vô song. Quyền lực di sơn, chuyển đảo, là quyền lực của chính Thiên Chúa, quyền lực trên trời, dưới đất. Xét vậy có thể nói, nơi mỗi người đã và đang hiện diện quyền lực của Thiên Chúa. Vấn đề chỉ là chúng ta có nhận biết để sử dụng hay không. Phỏng quyền lực này được gọi đức tin hay lòng tin?
Nếu nhận chân được đức tin hay lòng tin là quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nơi mình thì bí tích chính là nghi thức tuyên dương, tuyên xưng quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động và diễn tiến nơi tạo vật. Quyền lực của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa, Nước Trời cũng là chính Thiên Chúa vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; quyền lực hiện hữu ở khắp mọi nơi từ ý nghĩ, hành động, những sự vô hình đến tạo vật hữu hình. Suy nghiệm như vậy, Bí Tích chính là nghi thức tuyên dương, tuyên xưng thực thể “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23); Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi tạo vật.
Nhà cháu cảm thấy không cần suy luận thêm về những vấn đề nhà bác timhoc nêu lên vì nếu mọi tạo vật, mọi sự nơi vũ trụ này từ tư tưởng, lời nói tới đất đá, cây cỏ đang minh chứng quyền lực, đang ẩn chứa quyền lực hiện hữu của Thiên Chúa thì mọi vấn đề suy tư đã được giải quyết. Mọi câu hỏi tự nó có câu giải đáp. Sự thể còn lại chỉ là chúng ta có dám mở rộng lòng để nghiệm chứng, chấp nhận, và thực thi thực thể này nơi cuộc đời của mình hay không.
Ghi chú:
CD: Chu Dịch; Phan Bội Châu; Xuân Thu; CA, USA; (?).
CTC: Chí Tôn Ca; Nguyễn Bình dịch; Quảng Hóa Xuất Bản; Sàigòn, VN; 1971.
ĐĐK: Đạo Đức Kinh; Lão Tử; N.D. Cần dịch; Xuân Thu; CA; USA; ?.
ĐPvPP: Đức Phật và Phật Pháp; Narada Maha Thera; Phạm Kinh Khánh dịch; Xuân Thu; CA; 1971.
GLTH: Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu; CA; USA; 1991.
HTVPĐ: Hành Trình về Phương Đông; Nguyên Phong dịch; Người Việt; CA, USA; 1993.
KCGL: Kim Cang Giảng Luận; Thích Thanh Từ; Thành Hội Phật Giáo; TP Hồ Chí Minh, VN; 1993.
KPBĐ: Kinh Pháp Bảo Đàn; Lục tổ Huệ Năng; Thích Minh Trực dịch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA; USA; 1987).
KT: Kinh Thánh; Nguyễn Thế Thuấn, DCCT dịch; Dòng Chúa Cứu Thế, Việt Nam; 1975.
KVG: Kinh Viên Giác; Thích Thanh Từ; Ấn Tống; CA; USA; 1997.
LGTÂ: Kinh Lăng Già Tâm Ấn; Thanh Từ dịch; Tu Viện Chơn Không; Long An; VN; 1975.
MGTT: Cơ Sở Mật Giáo Tây Tạng; Trần Ngọc Anh dịch; Thế Giới; CA, USA; 1995.
OM: Oriental Mysticism; Edward Stevens; Paulist Press; NY; USA; 1973).
PBDK: Pháp Bảo Đàn Kinh; Mai Hạnh đức dịch; Hội Phật Giáo BaLamật; Houston; TX, USA; 1989.
PHTH: Phật Học Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Đại Nam; CA, USA; (?).
SCTT: Sáu Cửa Thiền Thất; Bồ Đề Đạt Ma; Trúc Thiên địch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA; USA; 1987.
TBS: Tâm Bất Sinh; Thiền sư Bankei; Thích Nữ Trí Hải dịch; Thanh Văn; California, U.S.A; 1997.
TTÂĐ: Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ; N.X. Hồng; Xuân Thu; CA; ?.
VNVT: Vô Niệm Viên Thông; Thích Minh Hiền; CA, USA; 1995.
XDNSQ: Xây Dựng Nhân Sinh Quan; Nghiêm Xuân Hồng; Đại Nam; ?; ?.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn