TÔNG HUẤN SACRAMENTUM CARITATIS
ĐÔI ĐIỀU TÌM HIỂU
Dẫn nhập.
Tông Huấn Bí Tích Tình Yêu (BTTY) là văn kiện quan trọng của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới (THĐGMTG) và Đức Giáo Hoàng.
Giới thiệu Tông Huấn BTTY với 3 đề mục:
- Đôi điều về Tông Huấn.
- Đôi điều trong Tông Huấn.
- Sống Bí tích Thánh Thể.
1. Đôi Điều Về Tông Huấn
1.1. Tông Huấn từ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới.
THĐGM được thiết lập do ĐTC Phaolô VI vào năm 1967 nhằm mục đích thể hiện tính cách Giám Mục Đoàn của Giáo Hội. Đây là một cơ cấu gồm các đại biểu được đề cử theo chuyên môn của các HĐGM trên thế giới để cùng ĐTC suy tư về một vấn đề.
Cho tới nay đã có 12 THĐGM.
Ngoài ra còn có các THĐGM đặc biệt, theo nhu cầu của Giáo Hội hay cho từng Châu lục, hoặc từng nước (Đã có 10 khóa tất cả).
THĐGM sinh hoạt như thế nào?
Tóm tắt “đường chạy” của Tông Huấn: Đức Thánh Cha => Văn Phòng Tổng Thư Ký => HĐGM các nước => Văn Phòng Tổng Thư Ký => THĐGM => Đức Thánh Cha => Tông Huấn...
Phương thức làm việc này của THĐGM cũng đã được HĐGM/VN áp dụng trong tổ chức ĐHDC Năm Thánh 2010 vừa qua.
HĐGM trao đề tài cho Ban Thư ký, Ban Thư ký soạn Đề Cương gửi tới các địa chỉ cần thiết để xin góp ý, sau khi tiếp nhận các phản hồi góp ý, Ban Thư ký soạn thành Tài Liệu Làm Việc để sử dụng trong Đại Hội, cuối cùng, các Đấng hữu trách dựa vào các đề nghị mà viết Thư Chung gửi cho Dân Chúa.
THĐGM khóa XI (2-23/10/2005) tại Vatican, đã chọn đề tài Thánh Thể để suy tư và đưa ra những đường hướng mục vụ liên hệ tới việc tôn sùng Thánh Thể.
Năm 2005, hai vị Giám Mục Việt Nam tham dự THĐ này là Đc Phêrô Trần Đình Tứ (Gm Phú Cường, chủ tịch Ủy ban phụng tự) và Đc Phaolô Bùi Văn Đọc (Gm Mỹ Tho, chủ tịch Ủy Ban Tín Lý)
1.2. Mục đích của Tông huấn.
- Lấy lại sự phong phú của những suy tư và đề nghị được đề ra trong Đại Hội thường kỳ của THĐ.
- Gợi lên trong Hội Thánh những động lực và lòng sốt sắng mới mẻ với Bí tích Thánh Thể.
1.3. Nội dung và Bố cục của Tông huấn.
Tông huấn gồm 97 số với 256 cước chú. Được chia làm ba phần như sau:
Phần I: Mầu nhiệm mà chúng ta tin (s. 6-33)
Phần II: Mầu nhiệm được cử hành (s. 34-69)
Phần III: Mầu nhiệm để sống (s. 70-94).
Bố cục sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo:
Phần I: Tôi tin – Chúng tôi tin (Tuyên xưng đức tin).
Phần II: Tôi cử hành (Các Bí Tích)
Phần III: Tôi sống (Đời sống đức tin trong Đức Kitô).
=> Chúng ta có một tam giác đều với ba điểm ở đầu mỗi cạnh là: Mầu nhiệm – Cử hành – Đời sống.
1.4. Nét riêng biệt của Đức Bênêđictô XVI trong Tông Huấn.
Lối trình bày giáo huấn là đi từ giáo huấn tới áp dụng vào thực tế của con người. Mà thực tế này bao gồm mọi khía cạnh của đời sống đi từ tâm linh, đến thể xác, lý trí, ý chí, văn hóa, xã hội, kinh tế, cảnh nghèo đói, túng thiếu, những cảnh bóc lột, thiếu công bằng, những vấn đề môi sinh của thế giới.
Tông Huấn BTTY nói về các thực tại trần thế trong tương quan với BT Thánh Thể một cách rất mạnh mẽ như sau: “Không gì đích thực thuộc về con người – tư tưởng, tình cảm, lời nói và hành động – mà không nhận ra được trong BT Thánh Thể một hình thức thích hợp để sống một cách trọn vẹn” (s. 71).
Trong Thông Điệp TCLTY được ban trước Tông Huấn BTTY, chúng ta cũng nhận ra nét đặc trưng này của ĐTC: đề cập tới các thực tại trần gian.
Trong Tông Huấn BTTY ĐTC đã nói tới rất nhiều thực tại trần thế: gia đình (s. 19); bệnh tật (s. 22); di dân (s. 60); thân xác con người (s. 70); việc làm, lao động (s. 73),...
Về khía cạnh nội dung: đó là sự nhấn mạnh tới “chân lý”, và “vẻ đẹp”
Về chân lý: “Của ăn chân lý”(s.2),“Của ăn chân lý và sự thiếu thốn của con người”(s.90), Ngài trình bày Thánh Thể là của ăn chân lý (s.2.11.90),...
Về vẻ đẹp (trong phụng vụ): nói về vẻ đẹp và sự hài hòa của phụng vụ trong việc tuân theo thứ tự các phận vụ của buổi cử hành (s. 53); nói về sự sáng ngời và vẻ đẹp chiếu giãi ra từ nghi thức phụng vụ, đó là dấu chỉ của vẻ đẹp vô tận mầu nhiệm thánh của Thiên Chúa (s. 97).
2. Đôi Điều Trong Tông Huấn.
2.1. Đặc tính bí tích của Hội Thánh (s.16).
- Thánh Thể là bí tích điểm quy tụ các bí tích khác
- Phép Thánh Thể cực thánh chứa đựng toàn thể những ơn huệ thiêng liêng của Giáo Hội, vì Thánh Thể là chính Chúa Kitô
- Thánh Thể là nguồn mạch các ơn trong Giáo Hội và trong các bí tích (s. 16 và 84).
- Thánh Thể được coi là tột đỉnh các bí tích và các bí tích phải quy về đó (LM 7).
- Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô hữu.
=> Giáo Hội luôn đánh giá hết sức cao Thánh Thể và việc tham dự Thánh Lễ.
2. Đôi Điều Trong Tông Huấn.
2.1. Đặc tính bí tích của Hội Thánh (s.16).
Thánh Thể chứa đựng tất cả mọi ơn huệ thiêng liêng, vì trong đó là chính Chúa Kitô. Tông Huấn trình bày mối liên hệ của Thánh Thể với 6 bí tích kia theo thứ tự như trong Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo:
- 3 bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể.
- 2 bí tích chữa lành: Cáo Giải và Xức dầu bệnh nhân.
- 2 bí tích mang tính cách xã hội: BT Truyền Chức Thánh và BT Hôn phối.
2.2. BTTT và BT Cáo Giải (s.20-21)
BT Cáo Giải có mối liên hệ nội tại với Thánh Thể vì:
- Thánh Thể giúp tín hữu đánh giá cao hơn BT Cáo Giải.
- Nhờ Thánh Thể, các tín hữu nhận ra cách sâu xa tình yêu của Thiên Chúa và nhờ ý thức về tình yêu này họ sẽ nhận ra ý nghĩa của tội để xa tránh. Khi sạch tội họ sẽ được trở về với sự hiệp thông với Hội Thánh và hiệp thông với Chúa Thánh Thể.
=> Tông Huấn khuyến cáo: “Mọi Linh mục phải quảng đại trong việc ban BT Cáo Giải”
2.3. BTTT và BT Truyền Chức (s. 23-26)
Thánh Thể có liên hệ nội tại với BT Truyền Chức Thánh vì trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể và chức Linh mục để làm lại việc Ngài đã làm trong bữa tiệc này.
Qua Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập một giao ước mới hoàn toàn và vĩnh viễn. Ngài muốn việc này được làm lại. Nhưng không ai khác có thể làm được ngoài Linh mục.
Thánh Thể có liên hệ nội tại với BT Truyền Chức Thánh vì trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể và chức Linh mục để làm lại việc Ngài đã làm trong bữa tiệc này.
Qua Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập một giao ước mới hoàn toàn và vĩnh viễn. Ngài muốn việc này được làm lại. Nhưng không ai khác có thể làm được ngoài Linh mục.
ĐTC lưu ý mấy điểm sau đây:
Số 23: Chỉ có Linh mục được truyền chức cách hợp pháp mới có thể làm nên Thánh Thể và cử hành Thánh Lễ. Linh mục cử hành Thánh Lễ trong tâm thế là hiện thân của chính Đức Kitô, in persona Christi, nên Thánh Lễ không là của riêng Ngài mà của Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì thế các Linh mục không đặt mình là chủ của hành động thánh thiện này, nhưng là đầy tớ. Do đó Linh mục cần tuân thủ Lễ nghi cử hành Thánh Lễ, không thêm bớt những lễ nghi văn bản mà Giáo Hội đã định liệu.
ĐTC lưu ý mấy điểm sau đây:
Số 24: Một yếu tố khác trong đời sống Linh mục được suy tư thêm trong liên hệ với Thánh Thể: đó là việc giữ luật độc thân Linh mục. Đây là việc thuộc phạm vi kỷ luật của Giáo Hội Latinh – với sự tôn trọng truyền thống của Giáo hội Đông phương – và Tông Huấn nhắc lại kỷ luật này với sự xác tín dựa vào truyền thống cao cả và các giáo huấn của các vị Giáo Hoàng. Ý nghĩa của luật độc thân không nằm trong khía cạnh thi hành chức vụ, nhưng phải được nhìn cách sâu rộng hơn trong chính sự nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Thánh Thể để trao ban trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa và Giáo Hội. Vì thế ĐTC xác định lại tính cách bắt buộc của luật độc thân trong Giáo Hội Latinh.
ĐTC lưu ý mấy điểm sau đây
Số 25: Từ đây Tông Huấn đã nói tới một số vấn đề thời sự trong Giáo Hội liên hệ tới thừa tác vụ linh mục:
Vấn đề thiếu Linh mục và thiếu ơn gọi linh mục tại một số nơi cần được giải quyết bằng sự phân phối hợp lý các linh mục. Các nghị phụ cũng xin các dòng tu dấn thân trong việc phục vụ tại các nơi này, cũng xin các giáo sỹ sẵn sàng giúp đỡ khi cần tới tại các nơi này. Các gia đình cũng được khuyến khích hơn trong việc mục vụ ơn gọi và sẵn sàng quảng đại dâng con cho Chúa. Đàng khác cũng cần thẳng thắn nói với người trẻ về tiếng Chúa gọi trong thiên chức linh mục và tính cách tận căn của đời sống linh mục.
ĐTC lưu ý mấy điểm sau đây
Số 26: Nhân dịp này ĐTC cũng nhân danh Giáo Hội ca ngợi và cám ơn các linh mục đã quảng đại phục vụ trong chức vụ của mình, như các linh mục “fidei donum” được sai đi phục vụ một thời gian tại các nơi thiếu linh mục. Ngài cũng cám ơn các linh mục đã hy sinh tất cả, ngay mạng sống để sống và phục vụ tín hữu. ĐTC nhắc nhủ, cho dù thiếu linh mục, nhưng hãy tin rằng Chúa sẽ lo sai các thợ gặt tới làm việc trong ruộng của mình.
2.4. Nghệ thuật cử hành, ars celebrandi (s.38)
Nghệ thuật cử hành là sự cố gắng để cử hành Thánh Thể cho nghiêm trang sốt sắng với ý thức đây là hành động của Thiên Chúa (s. 37), là cuộc tưởng niệm Chúa Kitô phục sinh (s. 36) và là biểu lộ vẻ đẹp của Thiên Chúa (s. 35).
Nghệ thuật cử hành này chỉ có được khi có sự trung thành tuân theo các luật phụng vụ cách trọn vẹn.
2.5. Giám mục, nhà phụng vụ tiêu biểu nhất (s. 39)
Giám mục phải lưu tâm tới việc cử hành phụng vụ và kỷ luật về phụng vụ trong giáo phận của mình cho đúng đắn, làm sao cho buổi cử hành phụng vụ do Giám mục chủ sự tại Nhà thờ Chính tòa được diễn ra cách đúng đắn và nghiêm trang, như là gương mẫu cho toàn thể giáo phận (x. s. 15).
2.6. Tôn trọng các sách phụng vụ và sự phong phú của các dấu chỉ. (s. 40)
Tuy nhiên các linh mục và các người có trách nhiệm cử hành Thánh Thể cần lưu ý tới các sách phụng vụ (Sách Lễ Rôma, Sách Các bài đọc, Sách Phúc âm để phó tế công bố trong Thánh lễ, Sách các lời nguyện tín hữu, Sách các bài thánh vịnh đáp ca để hát, Sách các bài hát trong Thánh lễ cho ca đoàn và cho cộng đoàn khi cử hành Thánh Thể). Ngoài ra còn có sách để cử hành các giờ kinh phụng vụ, cử hành các bí tích và phụ tích, Sách nghi thức chỉ dẫn các lễ nghi cho Giám mục khi cử hành phụng vụ. Các sách này do HĐGM soạn thảo, dịch ra và chấp thuận, và xin Tòa Thánh chuẩn y cho phép dùng.
Riêng về các sách cử hành Thánh Lễ, chúng ta có Văn kiện ở đầu Sách lễ Rôma, gọi là “Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, Institutio generalis Missalis Romani” (QCTQ). Tông Huấn đã lưu ý đặc biệt tới văn kiện này, vì nó chứa đựng kho tàng lớn lao về thần học, phụng vụ, nghi lễ và luật pháp.
2.7. Nghệ thuật nhằm phục vụ cho phụng vụ (s. 41).
Hãy tạo cho tín hữu nếm được hương vị vẻ đẹp trong những gì liên hệ tới Thánh Thể. Bằng cách làm cho cộng đoàn nhận ra ý nghĩa thánh thiêng của các yếu tố mỹ thuật như những dấu chỉ.
Tất cả các yếu tố về mỹ thuật phải nhắm tới mục đích là bảo toàn sự kính trọng mầu nhiệm của Thiên Chúa, tính cách duy nhất của đức tin và tăng cường lòng sùng mộ.
Cần cho thấy tính cách duy nhất giữa các yếu tố mỹ thuật của nơi thờ phượng, trong gian cung thánh, các biểu hiệu như bàn thờ, toà công bố Lời Chúa, nhà tạm, Thánh giá, ghế chủ sự, làm sao cho có sự hòa hợp, có tổ chức.
2.8. Phụng ca (s. 42)
Âm nhạc là thành phần của buổi cử hành phụng vụ (thánh Augustinô). Vậy phải cho dân Chúa, khi tham dự phụng vụ, họ hát những bài hát ca tụng Thiên Chúa. Như Giáo Hội từ 20 thế kỷ nay, đã luôn tìm ra những hình thức âm nhạc xứng hợp và thánh thiêng dùng trong phụng vụ. Tất cả những tác phẩm âm nhạc này là kho tàng đức tin của Giáo Hội.
Các bài hát trong buổi cử hành phụng vụ là những cách thế diễn tả đức tin, tạo ra lòng tôn kính, tạo ra lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, thích hợp với mầu nhiệm được cử hành, với lúc cử hành và theo năm phụng vụ. Điều này phải được lưu ý trong ba phạm vi: sáng tác, âm điệu và thể hiện.
ĐTC Bênêđictô XVI (theo ý kiến của các Giám mục trong THĐ) đã muốn rằng thánh nhạc Grêgôriô phải được đánh giá thích hợp vì đó là loại âm nhạc riêng của phụng vụ Rôma. Về sau ĐTC còn nhắc lại điều này cách cụ thể hơn: đó là làm sao cho các linh mục hiểu tiếng Latinh để cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latinh, cũng như có thể sử dụng được âm nhạc bình ca; đồng thời cũng phải giáo dục tín hữu giáo dân về điểm này để họ có thể hát một số bài thánh ca bằng tiếng Latinh và theo điệu bình ca nhất là trong các buổi Lễ quốc tế.
2.9. Sự duy nhất nội tại của hành động phụng vụ (s. 44).
Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể không phải là hai phần riêng biệt nhau, nhưng được liên kết chặt chẽ với nhau thành một hành động duy nhất.
2.10. Phụng vụ Lời Chúa (s. 45)
Khi đọc Lời Chúa, Hội Thánh ý thức chính Chúa Kitô hiện diện giữa cộng đoàn phụng vụ theo cách thế bí tích. Việc học hỏi này giúp quý trọng Lời Chúa, cử hành xứng đáng và sống đích thực Lời Chúa nói với chúng ta.
=> Thừa tác viên đọc sách thánh cần được chỉ định trước và chuẩn bị kỹ càng, đồng thời cần tôn trọng bục công bố Lời Chúa trong gian cung thánh, các sách bài đọc, sách thánh trong Thánh lễ.
2.11. Bài giảng (s. 46).
Là yếu tố chính của Phụng Vụ Lời Chúa nhằm giúp cộng đoàn hiểu sâu rộng Lời Chúa vừa được công bố => cần làm cho hoàn hảo các bài giảng bằng cách dọn bài giảng kỹ lưỡng (nội dung bài giảng phải trình bày các điểm chính rút từ các bài sách thánh vừa được công bố và các bản văn phụng vụ, lưu ý tới mục đích khuyên nhủ và giáo huấn của bài giảng, không chỉ nói tổng quát trên bình diện lý thuyết trừu tượng, mà phải đi vào thực tế của đời sống)
2.12. Dâng lễ vật (s. 47)
Là một lễ nghi đơn sơ, nhưng cho thấy giá trị lao động, các tạo vật trước nhan Thiên Chúa.
Là mối dây nối kết giữa phần phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể.
=> Việc dâng lễ vật tuy đơn sơ, nhưng thật quan trọng, tự nó đã có ý nghĩa đầy đủ.
2.13. Kinh nguyện Thánh Thể (lời nguyện đại thể, l’euchologie majeure) (s. 48)
Đây là kinh nguyện quan trọng khi so sánh với các lời nguyện khác trong Thánh Lễ: như lời nguyện nhập lễ, lời nguyện tiến lễ, lời nguyện hiệp lễ và lời nguyện trên dân chúng.
Ý nghĩa thần học phụng vụ của Kinh Nguyện Thánh Thểø: đây là trung tâm và tột đỉnh của tất cả buổi cử hành Thánh Lễ.
2.14. Trao bình an (s. 49)
Cử chỉ này có ý nghĩa thật đặc biệt vì:
- Thánh Thể tự mình là bí tích của bình an và hiệp nhất, nằm sâu trong tâm khảm của con người và trong Giáo Hội.
- Ngày nay hòa bình đang bị đe dọa khắp nơi. Vì thế Giáo Hội khẩn khoản xin ơn bình an cho toàn thể thế giới và gia đình và cá nhân. Không lúc nào hơn trong Thánh Lễ, lời cầu khẩn này có ý nghĩa và được nhận lời cách hữu hiệu vì Chúa Kitô là Chúa của bình an đang hiện diện trong Thánh Thể bằng chính Thịt Máu của Ngài.
Cần thể hiện cách đúng mực và làm cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của nó, hơn là một hành động, cử chỉ bên ngoài trống rỗng và cản trở thái độ hồi tâm và việc rước lễ tiếp theo sau. Chỉ nên trao ban bình an với những người bên cạnh gần mình mà thôi.
Trong Đề nghị 23, các giám mục cũng bàn hỏi xem có thể rời cử chỉ ban bình an này vào lúc dâng lễ vật không (s. 49, chú thích 150).
2.15. Trao và nhận Thánh Thể (s. 50)
Việc rước lễ thật quan trọng vì lúc rước lễ tín hữu gặp gỡ Chúa Kitô hiện diện đích thực bằng Mình và Máu của Ngài.
=> ĐTC Bênêđictô XVI đã xin mọi thừa tác viên có chức thánh và những người khác lưu tâm tới những điểm sau đây: Chỉ để cho các thừa tác viên ngoại lệ cho rước lễ khi có lý do thật cần thiết và họ đã được chuẩn bị kỹ càng. Khi có linh mục, phó tế, thì chính các ngài phải cho rước lễ, thay vì ngồi không và để cho một số giáo dân cho rước lễ.
2.16. Lời giải tán: “Ite Missa est” (s. 51)
Trong truyền thống phụng vụ, lời chúc này có ý nghĩa là “gửi đi”, giải tán, rồi nó mang thêm ý nghĩa là được sai đi. Từ “giải tán” ám chỉ một “sứ mệnh”. Vì thế, lễ nghi này có ý nghĩa nối kết Thánh Thể với đời sống. Bởi vậy cần giúp tín hữu hiểu rõ ý nghĩa của đòi hỏi chính yếu của đức tin là làm chứng trong đời sống của mình, bắt nguồn từ chính Thánh Lễ.
3. Sống Bí Tích Thánh Thể.
3.1. Sự tham dự đích thực (s. 52)
Tham dự tích cực là gì?
Là tham dự vào phụng vụ Thánh Thể không phải “như những khách bàng quan, câm lặng”, mà như những người tham dự “hành động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động”.
3.2. Sự tham dự và chức tư tế thừa tác (s. 53).
Việc tham dự tích cực không phải là thi hành mọi phận vụ trong phụng vụ. Nhưng phải hiểu phụng vụ được xếp đặt với những chức vụ theo phẩm trật. Vì thế cần có khả năng phân định thế nào hiệp thông trong Giáo Hội có phẩm trật.
Việc tham dự tích cực không phải là thi hành mọi phận vụ trong phụng vụ. Nhưng phải hiểu phụng vụ được xếp đặt với những chức vụ theo phẩm trật. Vì thế cần có khả năng phân định thế nào hiệp thông trong Giáo Hội có phẩm trật.
Các phó tế có nhiệm vụ giúp đỡ linh mục tại bàn thờ: như sửa soạn bàn thờ, giúp linh mục, công bố Phúc Âm, đôi khi giảng trong Thánh Lễ, đọc các ý chỉ của Lời nguyện tín hữu, trao Mình Thánh cho tín hữu.
Các thừa tác viên khác, tu sĩ hay giáo dân phải được chọn và chuẩn bị kỹ lưỡng.
3.3. Tham dự qua các phương tiện truyền thông (s. 57).
Tông Huấn nhắc nhở là buổi cử hành Thánh Lễ qua các phương tiện tối tân này phải mang đặc tính: gương mẫu, phải chuẩn bị lưỡng nơi cử hành, giữ kỹ lưỡng các luật về phụng vụ. Các buổi cử hành này giúp ích rất nhiều cho tín hữu và những người theo dõi, nhưng không thể nhờ đó mà chu toàn luật buộc tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật và Lễ trọng bắt buộc.
3.4. Chăm lo cho những tín hữu có hoàn cảnh đặc biệt (s.58,59,60)
Các giám mục cũng được nhắc nhở để một số tín hữu gặp những hoàn cảnh không thuận lợi để có thể tham dự Thánh Lễ bình thường như các tín hữu khác, cũng có thể tham dự tích cực vào Thánh Lễ: đó là bệnh nhân, tù nhân và di dân.
Lo cho bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh tâm thần, năng được rước lễ; những người bị bệnh tâm thần rước lễ trong đức tin của gia đình và của Giáo Hội các nhà thờ cần được thu xếp để các người khuyết tật có thể ra vào nhà thờ cách dễ dàng (s. 58).
Lo cho những tù nhân gặp Chúa Kitô trong giai đoạn cuộc đời rất khăn; đàng khác đi thăm tù nhân là thăm viếng chính Chúa. Ở đây ĐTC Bênêđictô XVI đã muốn các giáo phận xét lại việc mục vụ đối với tù nhân, đã thực hiện thế nào trong giáo phận của mình (s. 59).
Lo cho các người di dân thuộc các lễ nghi khác thông hiệp với giáo hội công giáo.
3.5. Thói quen Chầu Thánh Thể (s.66, 67)
Điều Tông Huấn muốn lưu tâm ở đây là sửa sai quan niệm cho rằng Thánh Thể chỉ để nên lương thực cho chúng ta chứ không phải để chiêm ngắm.
Việc chầu Thánh Thể là để thể hiện cách rõ ràng việc cử hành Thánh Thể, kéo dài việc cử hành này, làm cho tín hữu đi sâu vào mầu nhiệm Thánh Thể trong thinh lặng và hồi tâm và từ đây họ ý thức được sứ mệnh phải đi rao truyền mầu nhiệm này trong cuộc đời của mình. Trong khi chầu Thánh Thể, tín hữu nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô và đến gặp gỡ Ngài. Họ thờ lạy Ngài sau khi đã đón nhận Ngài trong lúc ruớc lễ. Như vậy việc Chầu Thánh Thể có liên hệ nội tại với việc cử hành Thánh Thể (s. 66). =>cần dạy giáo lý cho tín hữu biết việc đạo đức này.
3.5. Thói quen Chầu Thánh Thể (s.66, 67)
ĐTC Bênêđictô XVI kêu gọi “Cùng với THĐ tôi tha thiết kêu gọi các vị mục tử của Hội Thánh và Dân Chúa hãy thực hành Chầu Thánh Thể, vừa chầu riêng, vừa chầu chung trong cộng đoàn” (s. 67). Cũng nên tổ chức việc chầu Thánh Thể trong thời gian liên tục. Việc rước lễ lần đầu cũng cần được lưu tâm. ĐTC tỏ lòng ngưỡng mộ các Dòng Tu dành thời giờ để các thành phần của Dòng Chầu Thánh Thể. ĐTC khuyến khích các hiệp hội giáo dân cũng thực hành việc đạo đức quan trọng này.
3.6. Những hình thức sùng kính Thánh Thể (s. 68).
- Kiệu Thánh Thể, nhất là Ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô
- Đại Hội Thánh Thể quốc tế, quốc gia, giáo phận
- Viếng Mình Thánh Chúa, rước lễ thiêng liêng (s. 55).
- Chầu Thánh Thể. Chầu lượt.
=> Các hình thức này cần được lưu giữ và thích nghi với hoàn cảnh.
3.7. Vị trí của Nhà Tạm (s. 69)
Nhà tạm là chỗ lưu giữ và đặt Mình Thánh Chúa để tín hữu thờ lạy => phải làm sao giúp tín hữu nhận ra sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể.
Đèn chầu phải được dùng để cho thấy sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể; dùng đèn dầu hơn là những cách thế khác; “tránh đặt ghế chủ tọa phía trước nhà tạm”.
Nhà Tạm nên đặt ở gần gian cung thánh, hay nếu không thể được thì đặt Nhà tạm trong gian cung thánh, ở vị thế cao hơn, ở giữa phần cuối cuối nhà thờ dễ nhận ra được, với các đồ trang hoàng nghệ thuật sao cho xứng đáng. Nhưng trong vấn đề này, hãy theo các chỉ dẫn của Văn kiện “Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma” và theo quyết định của Giám mục.
Vị trí ghế của vị chủ tế trong gian cung thánh
Vị trí ghế của vị chủ tế trong gian cung thánh
3.8. Sống Đúng Theo Ngày Chúa Nhật, “iuxta dominicam viventes” (s. 72)
Việc giữ Ngày Chúa Nhật đã được các Giám mục bàn lại ở đây có hai mục đích:
- Để đào sâu Tông thư của ĐTC Gioan Phaolô II ban hành vào năm 1998, Dies Domini;
- Để phân tích mục vụ về luật này trong bối cảnh thế giới ngày nay.
3.9. Sống giới răn ngày Chúa Nhật (s.73)
Đây là nét đặc biệt cho người khác nhận ra người Kitô hữu là ai. Thực hành đạo đức này giúp thánh hóa ngày thứ nhất trong tuần, và không làm cho ngày của Chúa «vắng bóng Chúa». Đi lễ Ngày Chúa Nhật còn giúp tín hữu lấy lại và tăng cường lương tâm Kitô giáo; giúp lấy lại tự do đích thực của con cái Chúa.
3.10. Ý nghĩa của nghỉ ngơi và lao động (s. 74)
Lao động không là mục đích của con người, mà lao động quy hướng về con người.
3.11. Một khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống Kitô hữu: thuộc về Hội thánh (s. 76).
Ngày Chúa Nhật mà Tông thư Ngày của Chúa, “Dies Domini” nói tới. Ngày của Giáo Hội “Dies Ecclesiae”. Khi giữ luật Ngày Chúa Nhật tín hữu ý thức mỗi ngày mình thuộc về Giáo Hội hơn, sống tình hiệp thông, communio sanctorum, cách rõ ràng hơn. Từ đó họ sẽ làm tăng cường hình thức Thánh thể trong đời sống họ cách nổi bật hơn. Vì Thánh Thể quy tụ tất cả những người lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để làm nên một thân thể với Chúa Kitô. Vì thế hình thức Thánh Thể của đời sống người tín hữu phải là hình thức cộng đoàn, liên đới hiệp thông.
3.12. Linh đạo và văn hóa Thánh Thể (s. 77)
Linh đạo Thánh Thể là khởi nguồn các nền tu đức khác, vì trong Thánh Thể có chính Chúa Kitô hiện diện đích thực, là sự sống ban tính năng động và sức mạnh để biến đổi con người toàn diện. Vì Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Thánh Thể đem lại tính cách mới mẻ cho tín hữu và Giáo Hội
(s. 9-11. 29. 71. 72. 85. 95).
Tuy nhiên còn một điều nữa mà Tông Huấn muốn nói ra để nhấn mạnh vào tu đức Thánh Thể, đó là ngày nay người ta muốn gạt bỏ đức tin Kitô giáo ra khỏi sinh hoạt cá nhân, xã hội, và ngay cả trong một số môi trường tu trì. Họ muốn sống như không có Thiên Chúa.
=> Cần nhắc nhở tín hữu ý thức rằng Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ trong Thánh Thể và Thánh Thể là tình yêu, nên ai thấy tình yêu là thấy Chúa Ba Ngôi (Thánh Augustinô, s. 8).
Điều này đòi buộc tín hữu Thánh Thể, con người Thánh Thể (s. 96) phải làm cho đời của mình trong mọi khía cạnh nên «thiêng liêng», nên «hy tế thiêng liêng» (s. 77; Rm 8, 4). ’Người Thánh Thể’ không học theo cách thế người đời mà hành động, song phải suy tư theo lời Thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu (Rm 12, 2, Ep 4,14).
=> Phải cổ võ nền tu đức Thánh Thể trong Giáo Hội, nhất là trong thời đại chúng ta. ĐTC nói Giáo Hội luôn lấy lại niềm tin và lòng sùng mộ Thánh Thể mỗi khi có cuộc canh tân quan trọng phải thực hiện (s. 6).
Các Dòng tu, các cộng đoàn nếu muốn đứng vững và lướt thắng thử thách, khủng hoảng, cũng phải tăng cuờng nền tu đức Thánh Thể.
3.13. Thánh Thể và tín hữu giáo dân (s. 79)
Hằng ngày giáo dân phải trở nên hy tế đẹp lòng Chúa, phải nên thánh vì Chúa kêu gọi họ nên thánh, phải sống cái mới tận căn mà Thánh Thể đem đến cho họ.
Tới đây Tông Huấn nói tới việc sống ơn gọi nên thánh trong cuộc sống giữa đời của giáo dân, tức là tạo ra cho họ một nền tu đức Thánh Thể thực sự.
3.14. Thánh Thể và linh đạo linh mục (s. 80)
Thánh Thể có liên hệ nội tại với linh mục, vì lý do chức thánh, vì lý do linh mục là người ban phát mầu nhiệm thánh cùng với giám mục. Tuy nhiên Tông Huấn đã muốn nhấn mạnh mấy điểm sau đây:
Linh mục cần nhớ lại lời giám mục đọc khi trao ban đĩa thánh và chén thánh trong ngày chịu chức linh mục: ‘Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thánh Giá Chúa’ (Nghi thức truyền chức linh mục ).
Tông Huấn nhắc lại lời của Tông Huấn Pastores dabo vobis: «các Linh mục phải là những người liên tục tìm Chúa ». Nhưng họ cũng phải gần gũi với các nhu cầu của con người.
3.15. Thánh Thể và đời sống thánh hiến (s. 81)
Người được thánh hiến phải là những chứng tá về sức thánh hóa của Thánh Thể cho tu sĩ khi họ tham dự Thánh Lễ và chầu Thánh Thể. Giáo Hội mong chờ ở họ cái chính yếu của đời sống tu trì hơn là những hoạt động họ làm.
Việc giữ đức khiết tịnh được hiểu như là một sự dâng hiến chính mình cách trọn vẹn cho Thiên Chúa và không lấy lại cho mình nữa.
Chính từ Thánh Thể mà tu sĩ kín múc được sự sống và của ăn, sự an ủi khích lệ và để dấn thân cho việc hiến dâng trọn vẹn.
Qua việc sống khiết tịnh, tu sĩ cho nhân loại thấy tình yêu bao la và vô vị lợi của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Họ cũng cho thấy lời mời gọi của Thiên Chúa gửi tới nhân loại để tham dự vào bữa tiệc cưới đời đời của Chiên Thiên Chúa.
3.16. Thánh Thể, Mầu Nhiệm Để Loan Báo Và Trao Ban Cho Thế Giới (s. 84 – 93).
Tông Huấn nhấn mạnh: Thánh Thể có sức sống phong phú dồi dào vì Thánh Thể là chính Chúa Kitô. Sức mạnh từ Thánh Thể có khả năng biến đổi toàn diện con người và các điều gì thuộc về con người, như số 71 nói: "Việc thờ phượng mới của Kitô hữu bao trùm hết mọi khía cạnh của đời sống, bằng cách biến đổi chính đời sống này: ‘Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa (1Cr 10, 31)
3.17. Thánh Thể, mầu nhiệm trao ban cho thế giới (s. 88-91)
Một góc cạnh khác của đời sống “người Thánh Thể” đó là sinh hoạt xã hội của họ (tức là sống trong tình liên đới và lo thăng tiến con người)
Như trong các phần khác, Tông Huấn đã cho biết những lý do thần học và phụng vụ làm căn bản cho các hoạt động xã hội của tín hữu. Lý do thần học này là ơn huệ Thánh Thể Chúa Kitô ban cho chúng ta. Đó là bánh bẻ ra cho cả thế giới, cho hết mọi người. Đó là tình yêu tận cùng của Thiên Chúa ban cho con người và tình yêu này đã biểu lộ ra cho nhân loại qua ánh mắt xót thương của Chúa Kitô tới mọi người (s. 88).
Các tín hữu “Người Thánh Thể”, cũng phải sống trọn vẹn những tâm tình yêu thương, cảm thông và xót thương của Chúa trong cuộc đời của mình bằng những hành động bác ái xã hội.
Tông Huấn nói tới những đòi hỏi xã hội nằm trong tu đức Thánh Thể, trong linh đạo Thánh Thể. Đó là những hoạt động xã hội nhằm lo thăng tiến sự hòa giải, sự tha thứ, tôn trọng phẩm giá con người, thăng tiến công bằng xã hội, hòa bình thế giới, phát triển xã hội, giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ, chống tham nhũng, hối lộ, chống lạm dụng sắc dục trẻ em và phụ nữ; giải giới vũ khí (s. 89), chống bạo động và bạo lực.
=>Phải học hỏi giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội (s. 90).
Công việc từ thiện trong Giáo Hội đã được thực hiện ngay từ đầu (s. 90, x. Rm 15, 26; Cv 4, 32)
3.18. Thánh hóa thế giới và bảo vệ vũ trụ (s. 92)
Các tín hữu Thánh Thể phải nhân danh toàn thể vũ trụ mà thánh hóa và bảo tồn môi sinh. Vì:
- Thánh Thể cho biết rõ ràng lịch sử con người và vũ trụ, như là nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. Vì thế nhờ Thánh Thể, tín hữu mỗi ngày biết đọc và thẩm định cách chân thực ý nghĩa các biến cố của đời sống mình và của môi trường xã hội chung quanh.
Nghi thức dâng lễ vật giúp chúng ta hiểu chân lý trên. Bánh và rượu là hoa màu ruộng đất và lao động của con người (Nghi thức Thánh Lễ).
Hơn nữa tạo vật hiện thời còn giúp chúng ta hướng về việc tạo dựng mới mà chúng ta được hướng tới qua bí tích Rửa tội và trong niềm hy vọng cánh chung.
Teilhard de Chardin (1881-1955)
Teilhard de Chardin (1881-1955), là một Linh mục tu sĩ Dòng Tên người Pháp. Dựa trên các công trình khoa học của mình, Teilhard khai triển nền thần học tiến hóa, cho rằng toàn bộ sáng thế đều phát triển hướng về điểm Omega, mà ngài cho là chính Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Lịch sử, thời gian, là một đường thẳng có điểm xuất phát và điểm đến. Teilhard cho rằng thế giới luôn luôn tự cải thiện chính mình hướng tới điểm đến là Omega. Lúc việc biến đổi đạt tới viên mãn là lúc Đức Kitô Vũ trụ xuất hiện. Teilhard chủ trương vũ trụ có tiến hóa, nhưng là tiến hóa trong kế đồ của Thiên Chúa.
Teilhard mở rộng quan niệm lịch sử cứu độ bao gồm không những các cá thể nhân bản và nền văn hóa của con người mà cả toàn bộ vũ trụ...vũ trụ như một công trường bao la, trong đó mọi cá thể nhân bản cũng như vạn vật, đều là những ‘công nhân’ cứ cặm cụi lao động theo công việc của mình để thành toàn kế hoạch của Thiên Chúa đã thiết định. Truyền thống về sự thánh thiện vẫn coi công việc thế tục gây trở ngại thiêng liêng cho ta, và coi thế giới quanh ta là phù vân và tro bụi.Lập trường của Teilhard de Chardin có vẻ ngược lại với truyền thống trong quan niệm về thế gian, về sự vật.
Trong tiểu luận ‘Sự sống vũ trụ’, cha mô tả việc hiệp thông với trái đất như là cách vươn tới sự hiệp thông với Thiên Chúa
Nền thần học của cha xoay quanh ý niệm của Thánh Phaolô về “thân thể Chúa Kitô”.“thân thể Chúa Kitô” bao gồm luôn thế giới vật chất, vì trong Chúa Kitô “muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình… tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người… tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1:16-17).
Sự hợp nhất muôn vật nơi Người này chỉ có thể thực hiện được bằng cách xây dựng một hạ tầng thế tục.
Teilhard từng viết: “Hợp tác vào việc phát triển vũ trụ phải được coi là nghĩa vụ chủ yếu và hàng đầu trong các nhiệm vụ của Kitô hữu’.
Đây là lối suy nghĩ mới hẳn. Kitô hữu phải yêu mến thế gian, vì ta thấy Chúa Kitô ở đó. Nền thần học của Teilhard ngay từ đầu đã bị nhiều chức sắc cả trong Dòng Tên lẫn Vatican bối rối, nghi ngại.
Tuy nhiên học thuyết của Teilhard dường như đã được từ từ nhìn nhận. Tại Vatican II nhiều người thấy rõ ảnh hưởng của Teilhard. Tư tưởng của Teihard đã vang dội trong cộng đồng. Gaudium et Spes (1963) đã vươn tay đụng tới các thực tại trần gian và các kỳ diệu của kỹ thuật.
Đức cha Otto Spulbeck của giáo phận Meissen, Đức quốc, kể lại rằng tên của Teilhard được nhắc tới 4 lần khi các nghị phụ bàn thảo văn kiện GS tại khóa họp khoáng đại của Công đồng. Mới đây nhất, cha Federico Lombardi phát biểu: ‘Từ nay, không ai còn dám nói rằng (Teilhard) là một tác giả không chính thống mà ta không nên nghiên cứu’.
Lm. Augustino Hoàng Đức Toàn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn