BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY NĂM C
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C (27/3/2022) - Vui mừng chào đón người ăn năn thống hối
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Bài Tin Mừng trong Phụng vụ Chúa Nhật này thuật lại câu chuyện được gọi là Dụ ngôn người con hoang đàng (x. Lc 15,11-32). Dụ ngôn dẫn chúng ta đến trái tim của Thiên Chúa, Đấng luôn tha thứ cách thương xót và dịu dàng. Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta; dù chúng ta mệt mỏi khi xin Thiên Chúa tha thứ, nhưng Người không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là một người Cha không chỉ chào đón chúng ta trở về, mà còn vui mừng và mở tiệc vì đứa con đã trở về nhà sau khi tiêu xài hoang phí tất cả tài sản của mình. Chúng ta là người con ấy, và thật xúc động khi nghĩ đến việc Chúa Cha luôn yêu thương chúng ta biết bao và luôn chờ đợi chúng ta.
Nhưng trong dụ ngôn cũng có người con trai lớn; đứa con này bị khủng hoảng trước cách hành xử của người Cha này. Dụ ngôn cũng có thể khiến chúng ta rơi vào khủng hoảng. Trên thực tế, người con này cũng ở trong lòng chúng ta và chúng ta bị cám dỗ đứng về phía anh ta, ít nhất là một phần: anh ta đã luôn làm tròn bổn phận của mình, anh ta không bỏ nhà ra đi, và vì vậy anh ta trở nên phẫn nộ khi nhìn thấy người Cha lại ôm lấy đứa con của ông sau khi nó đã hành xử rất tồi tệ. Anh ta phản đối và nói: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Ngược lại, đối với “đứa con của cha đó”, cha thậm chí còn mở tiệc! (xem cc. 29-30). Anh không hiểu được người cha.
Những lời này cho thấy vấn đề của người con lớn. Anh ta đặt mối quan hệ của mình với Cha mình hoàn toàn chỉ dựa trên việc tuân giữ các mệnh lệnh, trên tinh thần nghĩa vụ. Đây cũng có thể là vấn đề của chúng ta với Thiên Chúa: chúng ta không còn xem Chúa là Cha và chúng ta sống một tôn giáo xa cách, bao gồm những điều cấm và bổn phận. Và hậu quả của sự xa cách này là chúng ta trở nên nghiêm khắc đối với tha nhân mà chúng ta không còn coi là anh chị em nữa. Thực ra, trong dụ ngôn, khi nói với Cha, người con lớn không gọi người em là em của con nhưng gọi là đứa con của cha. Cuối cùng, chính anh ta có nguy cơ ở lại bên ngoài ngôi nhà. Trên thực tế, bản văn viết: “anh ta không muốn vào nhà” (câu 28), bởi vì người em ở đó.
Thấy vậy, người Cha đi ra năn nỉ với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (c. 31). Ông cố gắng giúp cho anh ta hiểu rằng đối với ông mỗi đứa con là cả cuộc đời của ông. Người hiểu rõ điều này là các bậc cha mẹ, những người rất gần với tình cảm Thiên Chúa. Có một câu nói rất hay của một người cha trong một cuốn tiểu thuyết: “Khi tôi trở thành cha, tôi đã hiểu Thiên Chúa” (H. DE BALZAC, Il padre Goriot, Milan 2004, 112 ). Ở điểm này trong dụ ngôn, người Cha mở lòng với người con lớn và bày tỏ hai nhu cầu, không phải là mệnh lệnh, mà là những nhu cầu của trái tim: “Chúng ta phải ăn mừng, phải hân hoan, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 32). Chúng ta hãy xem liệu trong lòng chúng ta cũng có hai nhu cầu của người Cha không: ăn mừng và hân hoan.
Trước hết, ăn mừng, nghĩa là thể hiện sự gần gũi của chúng ta với những người ăn năn hoặc đang trên đường ăn năn, với những người đang gặp khủng hoảng hoặc đang lạc xa. Tại sao chúng ta nên làm điều này? Bởi vì điều này sẽ giúp vượt qua nỗi sợ hãi và chán nản có thể có khi họ nhớ lại những sai lầm của mình. Những người mắc lỗi thường cảm thấy bị chính lòng mình trách móc; sự xa cách, sự thờ ơ và những lời nói chua chát không giúp ích được gì. Vì vậy, giống như người Cha, cần phải dành cho họ sự chào đón ấm áp, điều động viên họ tiến bước. “Nhưng thưa cha, họ đã làm quá nhiều điều sai trái rồi.” – Hãy chào đón họ bằng sự ấm áp! Còn chúng ta có làm điều này không? Chúng ta có tìm kiếm người lạc xa, chúng ta có muốn ăn mừng với họ không? Một trái tim rộng mở, biết lắng nghe thực sự, một nụ cười trong suốt có thể làm được bao nhiêu điều tốt; ăn mừng để giúp họ không cảm thấy ngại ngùng! Chúa Cha có thể đã nói: “Được rồi, con hãy về nhà, tiếp tục công việc của con, về phòng của con và ổn định lại cuộc sống!” Và đó có thể đã là một cách tha thứ hợp lý. Nhưng không! Thiên Chúa không thể ban sự tha thứ mà không kèm theo sự mừng vui! Chúa Cha mở tiệc ăn mừng vì niềm vui mà Ngài cảm nhận khi người con của Ngài trở về.
Và rồi, giống như người Cha, chúng ta cần phải vui mừng hân hoan. Khi một người có trái tim chung nhịp đập với Thiên Chúa thì sẽ nhìn thấy sự ăn năn của một người, cho dù lỗi lầm của người đó có thể nghiêm trọng đến đâu, và vui mừng. Đừng chỉ chú ý vào những sai lỗi, đừng chỉ vào những gì họ đã làm sai, nhưng hãy vui mừng vì điều tốt bởi vì điều tốt của người khác cũng là của tôi! Và chúng ta, chúng ta có biết cách vui mừng vì người khác không?
Tôi muốn kể lại một câu chuyện hư cấu, nhưng nó giúp minh họa rõ nét tấm lòng của người cha. Cách đây ba hoặc bốn năm, có một vở nhạc kịch đại chúng kể về câu chuyện của người con hoang đàng, trình bày toàn bộ diễn biến của câu chuyện.
Ở đoạn cuối, khi người con quyết định trở về với cha mình, anh ta tâm sự với một người bạn và nói: "Tôi sợ cha tôi sẽ từ chối tôi, rằng ông ấy sẽ không tha thứ cho tôi." Người bạn khuyên anh ta: "Hãy gửi một bức thư cho cha cậu và nói rằng: ‘Cha ơi, con đã hối cải, con muốn trở về nhà, nhưng con không chắc cha có vui lòng đón nhận con hay không. Nếu cha sẵn sàng tha thứ và chào đón con, xin hãy treo một chiếc khăn tay màu trắng ở cửa sổ’." Người con bắt đầu hành trình trở về. Và khi đến gần nhà, ngay khúc quanh cuối cùng của con đường, anh ta có thể nhìn thấy ngôi nhà của mình. Và anh đã thấy gì? Không chỉ một chiếc khăn tay… mà là cả một ngôi nhà phủ kín khăn tay màu trắng! Tất cả các cửa sổ, khắp nơi đều là những chiếc khăn trắng! Người Cha chào đón chúng ta theo cách ấy: trọn vẹn và tràn đầy niềm vui. Người cha đó chính là Thiên Chúa của chúng ta.
Chúng ta có biết vui mừng vì người khác không?
Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria dạy chúng ta biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, để lòng thương xót ấy trở thành ánh sáng giúp chúng ta nhìn thấy anh chị em mình. Amen.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C (31/3/2019) - Tất cả những gì của Cha đều là của con
Anh chị em thân mến,
“Anh ta còn đang ở xa, thì người cha trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20).
Tác giả Tin Mừng đã dẫn chúng ta vào trung tâm dụ ngôn, cho chúng ta thấy phản ứng của người cha khi nhìn thấy con trai mình trở về. Đầy xúc động, ông đã chạy ra đón anh ngay cả khi anh chưa kịp bước vào nhà. Đó là một người con đã được người cha mong đợi từ lâu. Một người cha vui mừng vì con trở về.
Nhưng đó không phải là lần duy nhất người cha chạy ra. Niềm vui của ông sẽ không tròn đầy nếu không có người con cả. Vì thế, ông đã đi tìm anh và mời anh tham dự tiệc (x. c. 28). Tuy nhiên, người con cả lại tỏ ra bất bình trước việc cha mình tổ chức đón chào người em trở về. Anh ta khó chấp nhận niềm vui của cha mình, đến nỗi không muốn nhắc đến em trai mình: "Thằng con của cha đó" (c. 30). Trong lòng anh, em trai vẫn còn mất tích, vì anh đã tự chối đón nhận người em trong trái tim mình.
Với sự từ chối tham gia buổi tiệc, người con cả không chỉ từ bỏ em trai, mà còn từ chối người cha. Anh thà đồng ý là mồ côi còn hơn là một người anh. Anh ưu tiên sự cô lập hơn là sự gặp gỡ, sự chua chát hơn là niềm vui. Không chỉ không thể hiểu và tha thứ cho em trai, anh ta còn không chấp nhận một người cha biết tha thứ, biết nhẫn nại chờ đợi, biết tin tưởng và tiếp tục tìm kiếm.
Tại ngưỡng cửa của ngôi nhà ấy, có điều gì đó về mầu nhiệm của nhân tính chúng ta được bộc lộ. Một mặt, đó là niềm vui mừng của người cha dành cho người con đã lạc mất nhưng nay được tìm thấy; mặt khác, đó là cảm giác bị phản bội và phẫn uất của người anh cả trước việc tổ chức tiệc đón mừng sự trở về của người em. Một mặt, đó là sự chào đón của người cha dành cho người con đã trải qua đau khổ và cơ cực, đến mức ao ước được ăn đậu muồng heo ăn mà cũng không ai cho; mặt khác, đó là sự bực bội và tức giận của người anh cả trước vòng tay ôm ấp dành cho một người đã từng tỏ ra hoàn toàn bất xứng.
Những gì chúng ta thấy ở đây một lần nữa phản ánh sự căng thẳng mà chúng ta đang trải nghiệm trong xã hội, trong cộng đoàn của mình và ngay cả trong chính tâm hồn mình. Một sự căng thẳng đã tồn tại sâu xa trong con người từ thời Cain và Abel. Chúng ta được mời gọi để đối diện với nó và nhận ra nó đúng như bản chất của nó. Bởi lẽ, chúng ta cũng tự hỏi: "Ai có quyền được ở cùng chúng tôi, được ngồi vào bàn tiệc của chúng tôi, tham gia vào các cuộc họp của chúng tôi, các hoạt động và mối quan tâm của chúng tôi, được hiện diện trong những quảng trường, những thành phối của chúng tôi?" Câu hỏi mang tính sát nhân này dường như luôn trở lại: "Con là người giữ em con hay sao?" (x. St 4,9).
Tại ngưỡng cửa của ngôi nhà ấy, chúng ta có thể thấy rõ những chia rẽ và xung đột của chính mình, sự hiếu thắng và mâu thuẫn luôn rình rập ngay bên cửa của những lý tưởng cao đẹp mà chúng ta theo đuổi, những nỗ lực của chúng ta nhằm xây dựng một xã hội huynh đệ, nơi mỗi người đều có thể cảm nghiệm được phẩm giá của một người con.
Tuy nhiên, tại ngưỡng cửa của ngôi nhà ấy, chúng ta cũng sẽ thấy một cách rạng ngời và rõ ràng ước muốn sâu thẳm và vô điều kiện của người cha rằng: tất cả người con đều được chia sẻ niềm vui với mình. Không ai phải sống trong những điều kiện phi nhân, như người con trai út đã từng chịu đựng, cũng không ai phải cô lập, đơn độc và cay đắng như người con cả. Trái tim người cha mong muốn tất cả mọi người được cứu độ và đạt tới nhận biết chân lý (1 Tm 2,4).
Đúng là có nhiều hoàn cảnh có thể gây ra chia rẽ và xung đột, và cũng có những tình huống đẩy chúng ta vào sự đối đầu và thù địch. Điều này không thể phủ nhận. Chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng hận thù và báo thù là những cách chính đáng để đảm bảo công lý nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng hận thù, chia rẽ và báo thù chỉ làm tổn thương tâm hồn dân tộc chúng ta, đầu độc hy vọng của con cháu chúng ta, phá hủy và cuốn trôi mọi điều quý giá mà chúng ta trân trọng.
Do đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dừng lại và chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha. Chỉ từ góc nhìn này, chúng ta mới có thể một lần nữa nhận ra rằng mình là anh chị em của nhau. Chỉ khi đặt mình vào chân trời rộng lớn đó, chúng ta mới có thể vượt lên trên những cách suy nghĩ hẹp hòi và chia rẽ, và nhìn nhận mọi sự một cách không làm lu mờ những khác biệt dưới danh nghĩa của một sự thống nhất gượng ép hoặc một sự gạt bỏ âm thầm. Chỉ khi mỗi ngày chúng ta có thể ngước mắt lên trời và thưa rằng: "Lạy Cha chúng con", chúng ta mới có thể trở thành một phần của tiến trình giúp chúng ta nhìn mọi sự một cách rõ ràng, dám mạo hiểm sống không còn như kẻ thù, nhưng như anh chị em.
"Tất cả những gì của Cha đều là của con" (Lc 15,31), người cha nói điều đó với người con cả. Ông không chỉ nói về của cải vật chất, mà còn nói về việc chia sẻ chính tình yêu và lòng thương xót của mình. Đây chính là gia sản lớn nhất và quý giá nhất của một Kitô hữu. Thay vì đo lường hay phân loại bản thân theo các tiêu chí đạo đức, xã hội, sắc tộc hay tôn giáo khác nhau, chúng ta cần nhận ra một tiêu chuẩn khác, một tiêu chuẩn mà không ai có thể tước đoạt hay phá hủy, vì đó là một hồng ân thuần túy: nhận thức rằng chúng ta là những người con yêu dấu, được Chúa Cha chờ đợi và vui mừng đón nhận.
"Tất cả những gì của Cha đều là của con", Chúa Cha nói, kể cả khả năng thương xót của Cha. Chúng ta đừng rơi vào cám dỗ coi việc chúng ta là con cái Thiên Chúa chỉ đơn thuần là vấn đề về luật lệ, bổn phận và việc tuân giữ. Căn tính và sứ vụ của chúng ta không phát xuất từ chủ nghĩa tự nguyện, chủ nghĩa pháp lý, chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa cực đoan, nhưng từ niềm tin của những người mỗi ngày khiêm tốn và kiên trì cầu nguyện: "Xin cho Nước Cha trị đến!".
Dụ ngôn Tin Mừng để lại cho chúng ta một kết thúc mở. Chúng ta thấy người cha mời gọi người con cả bước vào và chia sẻ niềm vui của lòng thương xót. Tác giả Tin Mừng không nói gì về quyết định của người con cả. Anh ta có tham gia bữa tiệc không? Chúng ta có thể hình dung rằng phần kết thúc mở này là để mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn viết tiếp. Chúng ta hoàn thành câu chuyện qua cách sống của mình, qua cách chúng ta nhìn nhận người khác và đối xử với tha nhân. Người Kitô hữu biết rằng trong nhà Cha có nhiều chỗ ở; những ai ở ngoài chỉ là những người không muốn chia sẻ niềm vui của Ngài.
Anh chị em thân mến, tôi muốn cảm ơn anh chị em vì cách anh chị em làm chứng cho Tin mừng của lòng thương xót trên mảnh đất này. Cảm ơn anh chị em vì những nỗ lực biến mỗi cộng đoàn của mình thành ốc đảo của lòng thương xót. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục vun trồng nền văn hóa của lòng thương xót, một nền văn hóa mà không ai nhìn người khác với sự thờ ơ hay ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của họ (x. Misericordia et Misera, 20). Hãy luôn gần gũi với những người bé nhỏ, người nghèo, và tất cả những ai bị gạt ra bên lề, bị bỏ rơi và lãng quên. Hãy tiếp tục trở thành dấu chỉ của vòng tay yêu thương của Chúa Cha.
Nguyện xin Đấng Giàu Lòng Xót Thương và Trắc Ẩn – như anh chị em Hồi giáo của chúng ta thường cầu khẩn – củng cố anh chị em và làm cho những công việc bác ái của anh chị em ngày càng sinh hoa kết quả.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C (06/3/2016) - Hình bóng người con thứ ba
Anh chị em thân mến,
Trong chương thứ 15 của Tin mừng theo Thánh Luca, chúng ta thấy 3 dụ ngôn về lòng thương xót: dụ ngôn con chiên lạc tìm lại được (vv.4-7), dụ ngôn đồng tiền lại tìm thấy (vv.8-10), và dụ ngôn dài về người con trai hoang đàng, hay đúng hơn, về người cha thương xót (vv.11-32). Hôm nay, trong hành trình Mùa Chay, Tin mừng trình bày cho chúng ta dụ ngôn thứ ba này, trong đó vai chính là người cha và 2 người con. Trình thuật cho chúng ta thấy một vài đặc điểm của người cha: đó là một người luôn sẵn sàng tha thứ và hy vọng dù điều gì xảy ra đi nữa. Nhất là nổi bật lòng bao dung của ông trước quyết định của người con út rời nhà ra đi: lẽ ra ông có thể chống lại, vì biết rằng người con ấy chưa trưởng thành, trái lại ông để đứa con ra đi, tuy thấy trước những rủi ro có thể xảy ra. Thiên Chúa cũng hành động như thế đối với chúng ta: Ngài để cho chúng ta tự do, dù ta có thể sai lầm, vì khi tạo dựng chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta hồng ân cao cả là tự do. Chúng ta có nghĩa vụ sử dụng tốt tự do ấy.
Nhưng sự tách biệt của người con ấy chỉ là về mặt thể lý; người cha vẫn luôn mang người con ấy trong con tim; ông tin tưởng chờ đợi con trở về; ông chăm chú nhìn con đường với hy vọng thấy con trở về. Và một hôm ông thấy người con xuất hiện từ xa (Xc v.20). Lúc ấy ông xúc động, chạy ra đón con, ôm con và hôn. Thật là dịu dàng dường nào!
Người cha cũng dành thái độ ấy cho người con cả, là người vẫn luôn ở nhà, và nay người con này tức giận và phản đối vì không hiểu và không chia sẻ tất cả lòng từ nhân đối với đứa em đã lầm lỗi. Người cha ra ngoài để gặp người con cả và nhắc nhở cho anh ta rằng cha con vẫn luôn ở với nhau, và có chung mọi điều (v.31), nhưng cần phải vui mừng đón tiếp người em trở về nhà.
Trong dụ ngôn này ta cũng có thể thấy hình bóng người con thứ ba, âm thầm!, đó là người con “không giữ cho mình đặc ân giống như [Cha], nhưng đã hủy bỏ mình, mặc lấy thân phận người tôi tớ” (Pl 2,6-7). Người Con-Tôi Tớ này là sự nối dài đôi vòng tay và trái tim của Cha: Người đã đón nhận người con hoang đàng và rửa đôi chân bẩn thỉu của người con ấy; Người đã chuẩn bị bữa tiệc để mừng lễ tha thứ. Người là Chúa Giêsu, dạy chúng ta hãy có lòng “thương xót như Cha”.
Hình ảnh người cha trong dụ ngôn biểu lộ con tim của Thiên Chúa. Người là Cha thương xót, Đấng yêu thương chúng ta trong Chúa Giêsu vượt ra ngoài mọi giới hạn, luôn chờ đợi chúng ta hoán cải mỗi khi chúng ta lầm lạc; Ngài chờ đợi chúng ta trở về khi chúng ta xa lìa Ngài vì nghĩ rằng mình có thể không cần Chúa; Ngài luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay dù điều gì xảy ra đi nữa. Như người cha trong Phúc âm, Thiên Chúa cũng tiếp tục coi chúng ta là con cái của Ngài khi chúng ta lạc đường, và Ngài đến gặp chúng ta với tất cả sự dịu dàng khi chúng ta trở về cùng Ngài. Những lầm lỗi chúng ta phạm, cả những tội trọng, không làm suy giảm tình thương trung tín của Ngài. Trong Bí tích Hòa giải, chúng ta luôn có thể tái khởi hành: Ngài đón nhận chúng ta, trả lại cho chúng ta phẩm giá làm con cái của Ngài.
Trong giai đoạn mùa chay này cho đến lễ Phục Sinh, chúng ta được kêu gọi tăng cường hành trình hoán cải nội tâm. Chúng ta hãy để cho cái nhìn đầy yêu thương của Cha chúng ta đạt tới chúng ta và hết lòng trở về cùng Ngài, loại bỏ mọi thái độ thỏa hiệp với tội lỗi. Xin Đức Trinh Nữ Maria tháp tùng chúng ta cho đến vòng tay âu yếm của lòng thương xót của Chúa.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C (14/3/2010) - Dung mạo Thiên Chúa
Anh chị em thân mến,
Vào Chúa nhật thứ tư Mùa Chay, bài Tin mừng thuật lại dụ ngôn về người cha và hai đứa con, quen gọi là dụ ngôn “đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32). Trang sách này của Thánh Luca là tuyệt đỉnh của linh đạo và văn chương của hết mọi thời đại. Thực vậy, nếu không có mặc khải về Thiên Chúa là Cha giàu lòng khoan nhân thì thử hỏi văn hóa, nghệ thuật và rộng hơn nữa, nền văn minh của chúng ta sẽ ra thế nào? Đoạn văn này không ngừng gây xúc động cho chúng ta, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần ta nghe hoặc đọc lại. Nhất là đoạn Tin mừng này có sức nói về Thiên Chúa, cho chúng ta biểt khuôn mặt của Người, nói đúng hơn, cho chúng ta biết tấm lòng của Người. Sau khi đức Giêsu đã kể lại về Chúa Cha lân tuất, thì mọi sự không còn như trước nữa, từ nay chúng ta đã biết Thiên Chúa rồi: Người là Cha của chúng ta, Đấng vì yêu thương đã dựng nên chúng ta và ban cho chúng ta có ý thức, Đấng đã chịu đau xót nếu chúng ta lạc mất và mở tiệc nếu chúng ta trở về. Vì thế mối tương quan với Chúa được cấu kết bằng một lịch sử, tương tự như chuyện xảy ra giữa mỗi người con với cha mẹ của mình: vào lúc đầu, đứa con còn lệ thuộc vào cha mẹ, kế đó nó đòi hỏi được tự quyết; và sau cùng – nếu được phát triển tích cực – thì sẽ đưa đến tương quan trưởng thành, dựa trên việc nhận thức và yêu mến hỗ tương.
Qua những chặng ấy, chúng ta có thể đọc ra những giai đoạn của hành trình con người trong tuơng quan với Thiên Chúa. Có thể có một giai đoạn thơ ấu: một thứ tín ngưỡng được thúc đẩy bởi nhu cầu, bởi sự lệ thuộc. Đến khi con người dần dần lớn lên và tự lập, thì nó muốn thoát ly khỏi sự phục tùng và nó muốn được tự do, có khả năng tự quyết định độc lập, và lựa chọn tuỳ ý, nghĩ rằng mình có thể không cần Thiên Chúa nữa. Giai đoạn này thật là tế nhị: nó có thể đưa đến tình trạng vô tín ngưỡng, nhưng không thiếu lần nó có thể hàm chứa đòi hỏi muốn khám phá khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa. May thay, Thiên Chúa không từ bỏ lòng trung tín, và dù chúng ta xa cách và lạc lối, Người vẫn tiếp tục theo dõi chúng ta bằng tình thương, tha thứ những lỗi lầm của chúng ta và thì thầm trong lương tâm của chúng ta để kêu gọi chúng ta trở về. Trong dụ ngôn, cách xử sự của hai đứa con tương phản nhau: thằng em ra đi và càng ngày càng xuống dốc, còn thằng anh thì ở nhà, nhưng mối tương quan của nó với người cha cũng chẳng trưởng thành gì. Thật vậy, khi đứa em trở về, thì người anh không được sung sướng như là người cha, ngược lại, hắn còn bực bội và không muốn bước vào nhà. Cả hai đứa con tượng trưng cho hai hình thức thiếu trưởng thành trong tương quan với Thiên Chúa: thái độ ươn ngạnh và thái độ tùng phục ấu trĩ. Tất cả hai hình thức được vượt thắng nhờ cảm nghiệm của lòng lân tuất. Chỉ khi đã cảm nhận được sự tha thứ, nhận biết mình được yêu thương vô vị lợi, với tình thương lớn hơn sự hèn hạ của mình, cũng như lớn hơn quan niệm về công bằng của mình, thì chúng ta mới có thể có một tương quan chân thực và hiếu thảo với Thiên Chúa.
Các bạn thân mến, chúng ta hãy suy gẫm dụ ngôn này. Chúng ta hãy đối chiếu mình với hai người con, và nhất là chúng ta hãy ngẫm nghĩ về tấm lòng của Cha. Chúng ta hãy lao mình vào vòng tay của Cha, và để cho tình thương lân tuất của Cha làm ta hồi sinh. Nguyện xin Đức Maria, người mẹ khoan nhân, giúp đỡ chúng ta.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn