TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXVI Thường Niên -Năm C

“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”. (Lc 16,19-31)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Chúng ta chỉ có một thời để yêu…

Thứ sáu - 26/09/2025 08:47 | Tác giả bài viết: Petrus. tran |   74
“Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.”

Chúa Nhật XXVI – TN – C
Chúng ta chỉ có một thời để yêu…

snTM 260925a


Một người Ki-tô hữu tốt, phải là một người Ki-tô hữu biết biểu hiện tình yêu thương. Một người Ki-tô hữu tốt, phải là một người Ki-tô hữu biết thể hiện lòng bác ái.

Tại sao phải là vậy! Thưa, phải là vậy, bởi tình yêu thương và lòng bác ái chính là dấu hiệu để mọi người nhận biết là môn đệ của Đức Giê-su.

Ki-tô giáo nói chung và Công Giáo nói riêng, luôn dạy dỗ người tín hữu phải có lòng xót thương người. Chính Đức Giê-su cũng có lời dạy, rằng: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5, 7).

Thế nào là xót-thương-người!? Thưa, điều này đã được Giáo Hội diễn đạt rất cụ thể, qua bài kinh: “Thương người có mười bốn mối”.

Mở đầu là phần thương xác bảy mối: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn. Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc. Thứ bốn, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Thứ năm, cho khách đỗ nhà. Thứ sáu, chuộc kẻ làm tôi. Thứ bảy, chôn xác kẻ chết.”

Kế tiếp là phần thương linh hồn bảy mối: “Thứ nhất, lấy lời lành mà khuyên người. Thứ hai, mở dậy kẻ mê muội. Thứ ba, yên ủi kẻ âu lo. Thứ bốn, răn bảo kẻ có tội. Thứ năm, tha kẻ dể ta. Thứ sáu, nhịn kẻ mất lòng ta. Thứ bảy, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.”

Là một tín hữu Công Giáo, có lẽ không ai trong chúng ta, lại không hơn một lần đọc bài kinh này. Còn nếu chưa đọc, hãy đọc ngay hôm nay.

Nhớ… miệng đọc lòng suy… suy rằng: Tôi có thực hiện tình yêu thương, khi gặp những kẻ-đói-ăn! Tôi có thể hiện lòng bác ái, khi gặp những kẻ-rách-rưới? Gặp những kẻ nghèo khó, tôi sẽ làm gì cho họ!

Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Nhưng… hãy nhớ! Nếu chúng ta phớt lờ lời dạy của Đức Giê-su (nêu trên), coi chừng… chúng ta sẽ rơi vào thảm cảnh như ông nhà giàu trong dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”.

Muốn biết thảm cảnh ra sao, hãy đọc Tin Mừng thánh Luca chương 16: từ đoạn 19 đến đoạn 31, chúng ta sẽ rõ.

**
Tin Mừng thánh Luca kể rằng: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô”.

Anh La-da-rô, ngoài việc đồng hành cùng cái nghèo, còn vác thêm căn bệnh “mụn nhọt đầy mình”.

Chưa hết, dụ ngôn còn cho chúng ta biết đến một chi tiết nghe phải mủi lòng, đó là, anh ta “nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”. Ước là vậy, nhưng buồn thay, chỉ có “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”.

Bức chân dung về anh La-da-rô, được thánh sử Luca vẽ như thế đó! Nếu… nếu được phép viết đôi lời trên bức tranh, nên chăng, chúng ta viết rằng: Đây là chàng homeless tệ nhất thế giới!

Như người Trung Hoa xưa có nói: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử. - Xưa nay đời người ai không chết”, chàng La-da-rô rơi vào thảm cảnh đó, “anh ta chết”. Tường thuật về cái chết của anh La-da-rô, thánh sử Luca ghi vắn tắt: “Thế rồi người nghèo này chết”.

Nếu cái chết… “cái chết được coi là giải thoát, là sự chấm dứt hoàn toàn khổ đau” thì trường hợp của anh La-da-rô, đúng là vậy. Nhưng, nói theo cách nói của Cha Kim Long, thì “cái chết” của anh ta, lại được xem là điều “Chúa thương…”

Cha Kim Long nói: “Khi Chúa thương gọi con về, hồn con hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô: con thật vinh phúc.”

Tuy… tuy thánh sử Luca không nói, nhưng chúng ta có thể tin, anh La-da-rô rất hân hoan… hân-hoan-như-trong-một-giấc-mơ. Thì đây, anh ta “được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”, sao không hân hoan cho được! (x.Lc 17, 22).

Trở lại với ông nhà giàu. Vâng, “ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.” Tuy nhiên, sau khi chết, ông nhà giàu không được hưởng những gì mà anh La-da-rô đã được hưởng.

Ông nhà giàu, rất thảm hại. Chuyện kể rằng: “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ”.

Thế là, như một người chết đuối nhìn thấy toán cứu hộ, ông nhà giàu lớn tiếng kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”

Rất công bằng, tổ phụ Ap-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi, còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (x.Lc 16, 25).

“Hơn nữa…”, tổ phụ Áp-ra-ham tiếp lời: “…giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta cũng không được.”

Vâng, khoảng cách giữa ông ta và anh La-da-rô, không còn là một cái “cổng nhà” nhưng đó là “một vực thẳm lớn”.
Thế nhưng, như chúng ta thường nói “còn nước còn tát”. Ông nhà giàu, sau khi nghe thế, cố gắng “tát” thêm một lời thỉnh cầu, một lời thỉnh cầu may chi có thể “vớt vát” tương lai cho những người anh em của ông, là những người còn sống ở trần gian.

Ông khẩn khoản nài xin rằng: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này.”

La-da-rô là ai! Chẳng phải chỉ là một tên khố rách áo ôm, mụn nhọt đầy mình! Biết đâu chừng, khi tổ phụ sai anh ta đến nhà cha ông, năm người anh em của ông, lại chẳng xua đàn chó ra đuổi anh ta đi!

Chúng ta có thể nói với ông nhà giàu, như thế! Thế nhưng, tổ phụ Áp-ra-ham có lời đáp sâu sắc hơn, lời đáp rằng: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.”

Ông nhà giàu, không muốn năm người anh em lại rơi vào hoàn cảnh bị-thiêu-đốt-khổ-sở như mình, nên cố biện luận với tổ phụ Áp-ra-ham một lần nữa. Ông ta nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.”

Lời biện luận của ông ta chẳng hợp lý chút nào. Xưa nay, có người nào đã chết lại được Chúa cho từ-cõi-chết-trở-về! Thế nên, tổ phụ Áp-ra-ham đã không đáp ứng ước mong của ông nhà giàu.

Vâng, như một gáo nước lạnh tạt vào mặt ông ta, tổ phụ Áp-ra-ham có lời phán quyết rằng: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin”.

Đúng. Đức Giê-su từ trong cõi chết Ngài đã Phục Sinh. Thế mà, được bao nhiều người trong số hơn bảy tỷ người trên thế gian này… “đã tin”!!!

***
Như vậy, số phận của ông nhà giàu ra sao, chúng ta đã rõ. Chính vì “đã rõ”, chúng ta cần phải sống sao để “đời sau” mình không chung số phận như ông ta.

Nếu tôi “giàu có…” không sao cả! Không sao cả, vì đó là ơn phúc Chúa ban. Giàu không phải là một cái tội. Trong câu chuyện dụ ngôn, không thấy một câu hay một chữ nào lên án sự “giàu sang” của ông nhà giàu. Ông ta bị lên án chỉ vì “sự vô tâm, vô cảm” của ông ta.

Kinh Thánh cho chúng ta biết, có rất nhiều người giàu, điển hình là ông Gióp. Ông ta có “một đàn súc vật bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái”. Chính Satan cũng phải công nhận Đức Chúa đã “ban phúc lành cho công việc do tay (Gióp) làm, và các đàn gia súc của (Gióp) lan tràn khắp xứ” (x.G 1, 10).

Lúc Đức Giê-su còn tại thế, cũng có nhiều người giàu đi theo trợ giúp Ngài. Một vài tên tuổi được ghi trong Kinh Thánh, đó là: ông Ni-cô-đê-mô, ông Giô-sếp người thành A-ri-ma-thê, bà Sa-lô-mê, v.v...

Thế nên, nếu chúng ta giàu có: “Hãy rộng lượng với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí. Hãy đón tiếp kẻ khó nghèo, vì họ túng quẫn, đừng để họ ra về tay trắng” (x.Hc 28, 8-9).

Và đây, hãy ghi nhớ trong con tim mình lời sách Châm ngôn dạy: “Thương xót kẻ khó nghèo là cho ĐỨC CHÚA vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm” (Cn 19, 17).

Cuối cùng, khi đã trở nên giàu có: “Đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm 6, 17).

Vâng, chuyện ông nhà giàu, coi như xong. Chúng ta cùng bàn chuyện anh chàng La-da-rô. Nếu chúng ta là anh chàng La-da-rô? Thực tế hơn, nếu chẳng may: “Khi tôi sinh ra mang được ngay tiếng con nhà nghèo”?

Thưa, cũng hãy vui lên, vì Đức Maria đã có lời an ủi : “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư” (Lc 1, 53) Và, Đức Giê-su thì có lời tuyên phán: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em.”(x.Lc 6, 20).

Khi đề cập đến “những kẻ nghèo khó”, Raniero Cantalamessa, qua cuốn sách tựa đề: “Tám chặng đường đi tới hạnh phúc”, có lời viết rằng: “Người nghèo khó đích thực của Phúc Âm là người ‘được Thiên Chúa che chở’… Nơi người Do Thái thời ấy, hạn từ ‘nghèo khó’ thực tế đồng nghĩa với thánh thiện (hasid) và đạo đức. Các Giáo Phụ coi người ‘có tâm hồn nghèo khó’ hầu như đồng nghĩa với khiêm nhường”.

Vậy, chớ nặng lòng nếu cuộc đời chúng ta: “Qua bao nhiêu năm không đổi thay lớn lên còn nghèo!”

Dù suốt đời, chúng ta vẫn-mãi-nghèo, thì cũng đừng “túng quá hóa liều”. Niềm tin Ki-tô giáo không cho phép chúng ta viện cớ rằng: túng quá nên đành liều đi trộm cướp.

****
Giàu-nghèo… đó là chuyện không thể không có trong bất cứ thời đại nào, xã hội nào.

Do vậy, nếu chúng ta giàu, đừng là kẻ giàu-mà-gian-trá. Nếu chúng ta nghèo, đừng là kẻ nghèo-mà-kiêu. Kinh Thánh gọi những người sống theo lối sống này là những người đáng “gớm ghét” (Hc 25, …2).

Kinh Thánh còn có lời chép rằng: Có…”một thời để lìa thế… một thời để yêu thương.” (Gv 3, 2… 8).

Hôm nay, chúng ta chưa “lìa thế”. Chúng ta đang sống. Và có lẽ… có lẽ không ai trong chúng ta muốn mình đứng chung hàng ngũ với những người bị gọi là đáng “gớm ghét”.

Thế nên, nếu chúng ta “còn một chút gì để nhớ để quên”, thì hãy quên… quên đi lối sống vô tâm, vô cảm… vô tâm, vô cảm trước những bất hạnh, khổ đau, nghèo đói của tha nhân.

Mà hãy nhớ… nhớ rằng: “Ta còn những người ngồi quanh đây, trán in vết nhăn. Ta còn những người thật (đáng) yêu biết bao thiết tha.”

Vì thế, chúng ta hãy nhớ… nhớ “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” Chúng ta hãy nhớ… nhớ “tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. (KINH HÒA BÌNH - Tác giả: Kim Long).

Đừng lãng phí thời gian vào những đêm dài say sưa chèn chén, vào những tháng ngày yến tiệc linh đình, vào những chuyện vô bổ.

Bởi… nếu lãng phí, khi đến “thời gian lìa thế”, hệ quả mà chúng ta sẽ lãnh nhận cũng chính là hệ quả “ông nhà giàu” trong dụ ngôn đã lãnh nhận. Đó là: “bị thiêu đốt khổ sở lắm”.

Chúng ta… chúng-ta-chỉ-có-một-thời-để-yêu.

Petrus. tran

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây