DI NGÔN THỨ NĂM CỦA CHÚA TRÊN THÁNH GIÁ:
THẾ LÀ ĐÃ HOÀN TẤT !
(Ga 19,30)
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
“Nhắp xong, Đức Giê-su nói: ‘Thế là đã hoàn tất!’ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30).
Phúc âm của thánh Mát-thêu và Mác-cô diễn tả cảnh tượng Chúa Giê-su kêu lớn một tiếng rồi trút linh hồn (x.Mt 27,50 và Mc 15,37). Phúc âm của Luca thì trước khi tắt thở, Chúa đã kêu lên với Cha rằng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, sau đó Ngài tắt thở, còn phúc âm thánh Gio-an tường thuật lời Chúa Giê-su nói “thế là đã hoàn tất”, sau đó Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí (x.Ga 19,30). Như thế, Gioan đã diễn tả cái chết của Đấng mặc khải, của Đấng cứu thế đến cuối cùng đã hoàn tất sứ mạng của Ngài theo thánh ý của Cha trên trời.
Ngoài ra, lời này của Chúa Giê-su nối kết với câu Gioan nói trước đó: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,28a). Tiếp đến là bối cảnh Ngài được người ta cho nhấm chút giấm chua, khi Ngài lên tiếng nói “Ta khát” (Ga 19,28b). Bên ngoài, Chúa bị cơn khát thân xác hành hạ. Nhưng bên trong, Ngài khát mong thấy Vương Quốc của Cha được thiết lập trên trái đất này, cũng như Ngài khát tất cả mọi tâm hồn, mong tất cả khám phá được giá trị của Nước Trời, và sẵn sàng chọn Nước Trời là ưu tiên hàng đầu cho cuộc sống của họ. Sự khát khao của Chúa chắc chắn vẫn còn đó. Nhưng sứ vụ của Ngài thì đã được Ngài thực hiện cách mỹ mãn. Nên trước khi Ngài tắt thở, Ngài đã lên tiếng: “Thế là đã hoàn tất”.
Cụm từ “thế là đã hoàn tất” trong bản văn tiếng Hy-lạp chỉ vỏn vẹn có một từ “tetelestai”. Ở trong từ này có từ telos có nghĩa đích đến, là hoàn tất.
Theo Ratzinger, trong bản tiếng Hy-lạp, chữ “đã hoàn tất – telelestai” đưa chúng ta trở về thời điểm khởi đầu cuộc khổ nạn, thời điểm Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ. Khi mở đầu tường thuật này, thánh sử Gioan đã viết: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ở đây, Gioan nhấn mạnh là Đức Giê-su yêu thương các môn đệ Người “cho đến tận cùng” (telos). Cái “tận cùng” này đã tới đích với cái chết của Đức Giê-su. Đó là tận cùng của biên cương và vượt qua biên cương. Tận cùng của yêu thương trọn vẹn: Người đã trao ban chính mình.
Qua lời cầu nguyện của Chúa Giê-su ở núi cây Dầu mà thánh Phao-lô đã thuật lại trong thư gửi tín hữu Do-thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,8-9). Ở đây, từ ngữ thập toàn (cha Nguyễn Thế Thuấn dich là thành toàn) trong tiếng Hy-lạp là teleioun. Theo Ratzinger, từ ngữ này trong sách Tô-ra, nó có nghĩa là thánh hiến, trao ban phẩm tước tư tế, như vậy cũng có nghĩa là thánh hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa. Ratzinger nói tiếp, tôi nghĩ xuất phát từ lời cầu Thượng Tế của Đức Giê-su, ở đây chúng ta cũng có thể hiểu theo nghĩa đó. Đức Giê-su đã hoàn thành hành động thánh hiến, trao chính mình trong tư cách tư tế và trao thế giới lại cho Thiên Chúa (x.Ga 17,19). Như vậy, chữ đó đã toả lên mầu nhiệm to lớn của thập giá. Phụng vụ vũ trụ mới đã được hoàn thành. Thập giá Đức Giê-su đã thay thế mọi hành vi phụng tự khác; nó là sự vinh danh Thiên Chúa đích thực duy nhất, qua đó chính Thiên Chúa tự vinh danh bằng cách trao ban cho chúng ta tình yêu của Người, và bằng cách đó kéo chúng ta lên với Người.
Điều được hoàn tất mà Chúa nói chính là thánh ý Chúa Cha. Lật trong sách Tin mừng rất nhiều chỗ nói “để ứng nghiệm lời Thiên Chúa, để lời các Ngôn sứ được hoàn tất”. Trong cuộc đời dương thế, Đức Giêsu luôn thực thi thánh ý. Và giờ đây trong giây phút cuối đời trên thập giá, hình như Đức Giêsu làm bảng tổng kết: mọi sự Chúa Cha đã đặt ra, Ngài đã chu toàn, mọi sự đã hoàn tất từ ngày lọt lòng mẹ tại Bê-lem cho đến khi Ngài nghiêng đầu trước khi chết. Ở đây, chúng ta thử chiêm ngắm lại hành trình sứ vụ của Chúa Giê-su, xem Ngài sống thánh ý của Cha như thế nào.
Ngay từ những ngày đầu tiên trên hành trình sứ vụ, Đức Kitô đã thốt lên rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Điều này có ý nghĩa gì ? “Lương thực”, nghĩa là cái làm cho Thầy sống và hoạt động được. Ý muốn của Cha chính là lý do khiến Đức Giêsu đến trần gian và thi hành sứ mạng. Nói cách khác, trở nên một với thánh ý của Cha chính là nguyên lý đời sống của Chúa Kitô. Và “nên một với ý Cha” chính là điều cốt lõi của sự hiện diện của Ngài trên trần gian. Cũng trong phúc âm thánh Gio-an chúng ta nghe Chúa Giê-su nói rằng: “vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,38-40).
Như vậy, Chúa Giê-su là người thi hành ý Cha, và vì thế Ngài không bao giờ để cho những người thuộc về Ngài, thuộc về cộng đoàn của Ngài bị mất đi, mà ngược lại như người mục tử nhân lành, Ngài luôn bảo vệ những con chiên của Ngài, và Ngài sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên của Ngài (x.Ga 10,14-15). Hơn nữa, là mục tử nhân lành, Ngài luôn sống tâm tình: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Đó cũng chính là thánh ý Cha trên trời. Cha trên trời không ao ước điều gì hơn là tất cả những ai tin vào Đức Kitô, đều được gìn giữ và không bao giờ bị diệt vong. Hơn nữa, qua Người Con của Cha, họ sẽ tìm được sự sống muôn đời, sự sống vĩnh cửu. Đó là thánh ý cứu rỗi, thánh ý diễn tả một tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho con người từ ngày đầu tiên và có giá trị cho đến muôn muôn đời.
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng, khi sống ý Cha, Đức Kitô kết hiệp với Cha cách đặc biệt. Ngài và Cha là một (x.Ga 10,30). Ở những đoạn khác của phúc âm thánh Gio-an, chúng ta đọc được : “Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8,29). Một sự kết hiệp nên một của Cha với Con, sự nên một này diễn tả tình yêu tuyệt hảo trong “ngôi nhà Cha Con”, và sau này trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, Ngài diễn tả tâm tình ao ước mỗi người chúng ta đều được thông hiệp và sống trong ngôi nhà đó, nghĩa là chúng ta cũng được nên một với Ngài và với Cha (x.Ga 17,23). Nhưng không chỉ là lời ao ước hay là lời cầu nguyện thông thường, mà Đức Kitô còn hiến dâng chính mình để hiện thực điều Ngài ao ước, nghĩa là Ngài tiếp tục sống đúng theo ý của Cha, đặc biệt ngay trong chính hoàn cảnh đau thương nhất.
Khi Người tùng phục ý Cha với tâm tình con thảo, thì chẳng những không làm cho cuộc sống của Người hết bi thảm, mà còn khiến nó bị người đời công kích và bị đưa ra đương đầu với tội lỗi thế gian; tội lỗi này rốt cuộc Người vừa phải gánh lấy vừa phải chiến thắng. Nhìn hoạt cảnh xảy ra ở vườn Giệt-sê-ma-ni, ta có thể đo lường được tấm bi kịch đè trên vai Đức Kitô nặng tới mức nào: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha… Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26,39 và 42).
Người bị chấn động không phải do ý muốn của Người và ý muốn của Cha đối chọi nhau, nhưng vì Người kinh hãi khi đứng trước nhiệm vụ mà kế hoạch cứu độ đòi Người phải thi hành. Trước công việc mà mình có bổn phận phải hoàn thành, Con Người ấy đã run sợ nhưng không khước từ thực hiện.
Lời cầu nguyện này của Đức Kitô đã được thánh Phao-lô giải thích trong thư gởi tín hữu Do-thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục. Và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9). Tiếp đến, Phao-lô còn nói cách sống động hơn: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Tóm lại, theo Martini, ngay trong những bối cảnh đầu tiên, các Tin Mừng đã chỉ ra rằng, Đức Kitô hoàn toàn “chìm” vào trong thánh ý của Cha trên trời. Khi Ngài kêu lên “xin cho ý Cha được thể hiện”, thì Ngài muốn diễn đạt mục đích sâu kín nhất trong sứ mạng của Ngài : làm cho Nước Cha được trị đến bằng cách sống trọn vẹn ý Cha trên trời.
Ratzinger đã suy tư rất sâu sắc: “Như vậy, lời cầu ‘không phải ý con, mà là ý cha’ (Lc 22,42) quả thật là lời cầu của Người Con với Cha, trong đó toàn bộ ý chí tự nhiên con người đã được đưa vào cái tôi của Người Con, và Người Con này, qua câu thốt lên ‘không phải con, mà là Cha’ đã trao phó cái tôi của mình hoàn toàn vào Cha của mình. Cái ‘tôi’ này đã nhận sự chống đối của bản tính loài người vào mình và đã chuyển hoá nó, nên tất cả chúng ta giờ đây đều được cùng hiện diện trong sự vâng lời của Người Con đó, tất cả chúng ta đều được kéo vào diễm phúc làm con Thiên Chúa”.
Như thế, trong những giây phút cuối cùng, với lời “thế là đã hoàn tất”, Người Con viết hoa là Chúa Giê-su đã thực hiện thánh ý Cha cách trọn vẹn, dù cho thánh ý đó có trao cho Chúa chén đắng khổ đau.
“Thế là đã hoàn tất”. Có thể nói lời này cũng diễn tả được chính việc Chúa Giê-su đã uống cạn chén đắng và đã đón nhận biết bao sỉ nhục. Chén đắng này có lần Ngài xin Cha cho Ngài không phải uống, nhưng rồi Ngài vẫn một lòng theo ý Cha để đón nhận chén, nâng chén và uống cho trọn chén đắng này.
Đó chính là biến cố trong vườn cây Dầu mà Chúa Giê-su đã trải nghiệm. Karl Rahner đã suy niệm: “Vâng, Lạy Chúa, Chúa đã hoàn tất mọi việc. Chúa hoàn tất sứ mạng mà Chúa Cha đã trao cho Chúa. Chén đắng cần phải được uống, chén đắng không thể để lướt qua được. Cái chết cần phải được đón nhận, dù cái chết đó có dễ sợ đến mấy”.
Về chén đắng mà Chúa Giê-su uống, Henri Nouwen giúp chúng ta suy niệm: “Khi đến lúc phải uống chén này, Đức Giêsu nói: ‘Tâm hồn Thầy buồn đến chết được’ (Mt 26,38). Cơn hấp hối của người quá cực độ đến nỗi mồ hôi người như những giọt máu rơi xuống đất (x.Lc 22,44). Các bạn Giacôbê và Gioan, hai người mà Người hỏi họ có uống được chén Người sắp uống, đi theo Người nhưng họ đã ngủ, họ không còn sức để thức với Người, chia sẻ nỗi buồn và lo lắng của Người. Trong một lúc cô đơn cùng cực, Người té xuống đất và thốt lên lời cầu xin: ‘Lạy Cha, nếu được xin Cha cất chén này!’ Đức Giêsu không thể nào đối diện với chén đắng. Thật quá đau khổ và quá lo lắng. Người không nghĩ sẽ có thể uống được chén đau khổ này.
Làm sao Người có thể nói vâng? Phải trả lời gì bây giờ? Dù bị đau khổ vì bị ruồng bỏ và bỏ rơi, Đức Giêsu luôn luôn kết hiệp mật thiết với Đấng mà Người gọi là ‘Abba’ (tiếng ‘cha’ trong nghĩa thân tình như tiếng bố – ba). Lòng tin tưởng của người vượt quá thái độ bất trung, lòng tuân thuận vào tình phụ tử vượt quá tuyệt vọng, tình yêu vượt quá hãi sợ. Chính tình mật thiết vượt quá tất cả tình mật thiết của nhân loại này mà Đức Giêsu mới có thể xin Đấng đã gọi Người là ‘Con yêu dấu’ cất chén đắng cho Người. Dù trong cơn lo lắng tột độ, mối dây liên hệ này không bị cắt đứt. Đó là mối dây không sờ và không nói lên bằng lời được, mối dây tuyệt vời và không hủy hoại được. Chính trong hiệp thông mật thiết với Cha mà Người chấp nhận uống chén đắng: ‘Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha’ (Mt 26,39).
Đức Giêsu không nhường bước trước tuyệt vọng và không đẩy lui chén đắng. Người cầm chén chắc nịch trong tay, muốn uống đến giọt cuối cùng. Đó không phải là một hành vi biểu lộ ý chí trước thử thách hay biểu lộ tính anh hùng, nhưng hành vi xuất phát từ sâu thẳm tâm hồn, đó là tiếng ‘vâng’ với Abba, thiết tha vì tình yêu của một quả tim tan vỡ”.
Và “tiếng vâng không điều kiện của Đức Giêsu với Chúa Cha đã cho người sức mạnh để uống chén, không phải trong thái độ thụ động cam chịu, nhưng tin chắc giờ chết sẽ là giờ vinh quang. Tiếng vâng tuân thuận là hành vi sáng tạo, một hành vi mang nhiều thành quả. Tiếng vâng cất bỏ được số mệnh phũ phàng: sứ mệnh của Người được tiếp tục. Thay vì một kết thúc không tránh được, thì cái chết của Người trở thành khởi đầu của một đời sống mới. Tiếng vâng là lời loan báo hạt giống gieo vào lòng đất sẽ cho một mùa gặt dồi dào”.
Và tiếng vâng của Chúa cũng là tiếng nói của tình yêu trọn vẹn và hoàn hảo.
“Thế là đã hoàn tất”. Tiếng kêu của Chúa Giê-su không chỉ mang ý nghĩa mọi sự đã xong xuôi và đã qua đi. Tiếng kêu của Chúa còn là tiếng kêu của chiến thắng, vì Chúa đã thực hiện sứ mạng của Ngài cách hoàn hảo. Buổi tiệc chia tay của Chúa là buổi tiệc của tình yêu cho đến tận cùng (x.Ga 13,1), còn trên Thánh Giá thì tình yêu của Chúa đạt được mức hoàn hảo, một tình yêu tròn đầy, một tình yêu nở hoa trên Thánh Giá. Nói khác đi, trên Thánh Giá, Chúa Giê-su sống tình yêu thương cách hoàn hảo. Thật vậy, tình yêu đó được biểu lộ qua nhiều hình ảnh thật tuyệt vời. Tình yêu cầu xin Cha trên trời tha thứ cho người bách hại Chúa “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,32). Tình yêu đã lên tiếng với người trộm lành thành khẩn kêu xin với một tâm hồn thống hối ăn năn thực sự. Chúa đã nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Tình yêu nở hoa của Chúa trên Thánh Giá còn toả hương thơm, khi Ngài ban tặng cho chúng ta người Mẹ yêu dấu của Ngài: “Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: ‘Thưa Bà, đây là con của Bà’. Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh’. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 18,26-27). Và tình yêu luôn cho chúng ta biết rằng: “Ta khát” (Ga 19,28). Ngài khát chúng ta, Ngài khát tấm lòng chúng ta dành cho Ngài, Ngài luôn khao khát đợi chúng ta đến với Ngài, để Ngài làm cho tình yêu giữa Ngài và chúng ta được nên hoàn hảo.
Thật vậy, trên Thánh Giá, Chúa Giê-su đã làm cho tình yêu trở nên hoàn hảo. Trên Thánh Giá, Chúa đã đưa tất cả nhân loại, dù tốt lành hay tội lỗi, vào trong tình yêu của Ngài. Trong tình yêu hoàn hảo của Thiên Chúa, Ngài biến đổi chúng ta. Nói cách khác, Chúa đã biến đổi chúng ta, những người đánh mất khả năng yêu thương, tìm lại khả năng yêu thương đó. Như thế, trên Thánh Giá, tình yêu của Chúa được biểu lộ cách rõ ràng nhất, và chung với tình yêu của Chúa là vinh quang và chiến thắng của Ngài. Karl Rahner đã suy niệm như sau: “Chúa ơi, Chúa đã nói rằng: thế là đã hoàn tất. Lạy Chúa, sự kết thúc của Chúa đã tới. Sự kết thúc cuộc đời của Chúa. Sự kết thúc của vinh quang Chúa, của niềm hy vọng mang tính cách con người, sự kết thúc của cuộc chiến đấu của Chúa và của sứ mạng của Chúa. Tất cả đã hoàn tất và đã qua đi. Tất cả trở nên trống rỗng. Cuộc sống của Chúa đã đi đến hồi kết. Vô vọng và bất lực. Nhưng sự kết thúc này là sự hoàn tất của Chúa. Vì sự kết thúc ở trong trung tín và tình yêu chính là sự hoàn hảo. Và cuộc đi xuống của Chúa là chính sự chiến thắng”.
Thật vậy, Chúa đã chiến thắng trên Thánh Giá. Cuộc chiến thắng của tình yêu hoàn hảo đưa lại ơn cứu độ cho muôn người.
“Thế là đã hoàn tất”. Chúa hoàn tất điều gì vậy? Chúa hoàn tất sứ mạng cứu độ nhân loại của Chúa, Đấng có tên là Emmaunuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Đấng còn được gọi là Giê-su – Thiên Chúa cứu thoát.
Qua việc thực thi ý Cha, và nhờ việc Ngài uống cạn chén đắng và đón nhận cái chết trên Thánh Giá, Chúa Giê-su trở nên Đấng Cứu Thế cho mọi người. Giờ đây, phần việc và sứ vụ của Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa làm người đã hoàn tất. Cuộc đời trần thế của Con Thiên Chúa đã kết thúc, và từ hạt giống được gieo vào lòng đất này sẽ sinh con người mới.
Nói khác đi, công cuộc cứu độ trần gian của Chúa đã được thể hiện. Đây là lời Ngài thưa với Chúa Cha và đây cũng chính là lời loan báo sự chiến thắng của Ngài. Quyền lực bóng tối đã giết được thân xác Ngài, vị vua Messia. Nhưng qua cái chết này, ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và giải thoát con người khỏi vòng bóng tối, khỏi tội lỗi, và khỏi sự thống trị của Xa-tan. Đúng như Thánh Gioan đã suy niệm “sự sáng đã rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được ánh sáng” (Ga 1,5).
Paglia cũng suy niệm: “Thánh Gio-an muốn ‘viết’ tất cả tạo vật, tất cả công trình của Thiên Chúa, không chỉ những gì được nhắc đến trong Thánh Kinh, mà toàn thể lịch sử nhân loại vào trong từ ngữ này, hay đúng hơn ‘viết’ vào trong cái chết của Chúa Giê-su. Tất cả mọi tạo vật được hiển hiện trong giây phút đó và trong biến cố đó. Vì cái chết của Chúa Giê-su giải thoát tất cả lịch sử nhân loại với những bi kịch thê lương nhất, và với sự cô đơn thê thảm nhất. Ngài đã gánh vác tội trần gian trên đôi vai của Ngài và cùng với tội này, Ngài cũng mang vác cái chết, tất cả cái chết, tất cả mọi đau khổ và tất cả mọi bi kịch đã diễn ra trong lịch sử của nhân loại và của các tạo vật. Đây là đỉnh điểm của cuộc đời Chúa Giê-su, và cũng là đỉnh điểm của toàn thể lịch sử của các tạo vật: Trong cái chết của Chúa Giê-su sự cứu rỗi được hoàn tất”.
Thật vậy, “ơn cứu độ thế giới được hoàn tất. Tội lỗi đã được tẩy trừ. Sức mạnh của thần lực đêm đen đã trở nên bất lực. Cánh cửa của sự sống đã được mở ra. Sự tự do của con cái Thiên Chúa đã chiến thắng…Và thế giới tràn đầy đêm tối bắt đầu từ từ bùng lên một ánh dương của buổi hoàng hôn, nhờ chính than hồng của tình yêu của Thiên Chúa. Và chỉ một chốc lát ngắn ngủi – một chốc lát mà lịch sử thế giới gợi lên, chốc lát này sẽ bừng lên với ánh sáng của ngọn lửa của Thiên Chúa, và tất cả thế giới sẽ được chìm trong biển lửa tràn đầy phúc lành của Chúa, Chúa ơi. Thế là đã hoàn tất”.
Ngoài ra, Paglia còn đi sâu hơn nữa, khi ở trong truyền thống Đông Phương nhắc đến một lời trong kinh Tin Kính, để gợi lên hình ảnh Chúa Giê-su trong thời gian giữa ngày thứ sáu tuần thánh và buổi sáng ngày Phục Sinh đã “xuống ngục tổ tông”.
Chúng ta tuyên xưng lời này trong kinh Tin Kính vào mỗi Chúa Nhật, dù ít khi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của câu này. Ý nghĩa của điều này được các Tông Đồ truyền lại, như thánh Phê-rô nói: “Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” (1Pr 3,18-19). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích rằng, “Chúa Giê-su đã chết giống như mọi người, và linh hồn Người đã xuống với họ, ở nơi của những người chết. Nhưng Người xuống đó với tư cách là Đấng Cứu Độ, để loan báo Tin Mừng cho các vong linh bị cầm giữ ở dưới đó…Vì vậy, Đức Ki-tô đã xuống cõi thâm sâu của sự chết, để các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, ai nghe thì sẽ được sống (Ga 5,25)”.
Hơn nữa, với Paglia, “Thật vậy, Chúa Giê-su đã đi xuống chỗ tĩnh lặng tâm sâu của kiếp người, và việc đi xuống này vẫn còn được thể hiện cho đến hôm nay. Ngài đã đi xuống, để tập họp lại tất cả những ai đang chịu đau đớn, cả những người đang phải chạy trốn trên đường với nỗi tuyệt vọng, cả những người trên đường chạy trốn ở trên biển Địa Trung Hải và đã bị chết đuối, mà không thể đạt tới bến bờ họ ao ước. Chúa Giê-su cũng đến với họ, để đón nhận họ và đưa họ về Trời với Chúa”.
Vâng, “hôm nay mặt đất hoàn toàn thinh lặng, hoàn toàn thinh lặng và hoàn toàn cô quạnh; hoàn toàn thinh lặng vì Đức Vua an giấc; trái đất đã sợ hãi rồi yên tĩnh , vì Thiên Chúa đang ngủ trong xác phàm, và Người đánh thức những kẻ đang ngủ từ bao đời…Chắc chắn Người đi tìm nguyên tổ như tìm con chiên lạc. Người muốn đến thăm tất cả những ai đang ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết; Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con cháu của nguyên tổ đến để giải thoát ông A-đam đang bị cầm giữ cùng với bà E-và bị cầm giữ khỏi những sự đau buồn. Ta là Thiên Chúa của ngươi, nhưng vì ngươi, Ta đã trở thành con của ngươi…Hãy trỗi dậy, hỡi người ngủ mê: vì Ta dựng nên người không phải để cho ngươi ở lại đây trong gông cùm âm phủ. Hãy trỗi dậy từ cõi chết; Ta là sự sống của những kẻ đã chết”.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa được Chúa Giê-su đem đến cho chúng ta, qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đó là một công trình đã hoàn tất của Chúa. Ngoài ra, lời Chúa nói “thế là đã hoàn tất” cũng được Chúa tiếp tục nói với chúng ta những người đang sống. Chúa nói lời đó ngay khi chúng ta đang đối diện với những nỗi sợ hãi của chính chúng ta, sợ hãi trước một cuộc sống bị gãy đổ, một cuộc đời nửa đường gãy cánh. Có nhiều người luôn cảm thấy rằng, cuộc sống của họ không có nền tảng, như ngôi nhà không có móng, để họ có thể xây dựng đời mình. Nếu họ nhìn lại cuộc sống thời thơ ấu, họ thấy nhiều “vết nứt” trên đường đời của họ. Vì thế, nơi họ đã thiếu một sự tin tưởng căn bản. Thay vào đó, sự bất an chiếm ngự cuộc đời và họ thường cảm thấy rằng, cuộc đời của họ đã đánh mất nền móng vững chắc.
Rồi có những người sống trong tình trạng âu lo, cuộc đời của họ có thể sẽ nứt rạn vào bất cứ lúc nào, nếu họ bị thất nghiệp, nếu họ thất bại trong sự nghiệp đời họ, nếu đời sống hôn nhân của họ rơi vào khủng hoảng và thử thách, nếu con cái của họ vì lý do này lý do khác đánh mất khả năng học hành và xây dựng sự nghiệp, hay nếu một người thân của họ bỗng chợt phải ra đi vì một tai nạn hay vì một cơn bệnh hiểm nghèo. Ai sống trong tình trạng đó đều cảm thấy cuộc đời mình như bị chẻ ra làm nhiều mảnh. Thật vậy, đời sống gia đình tan vỡ, thì vợ chồng phải chia tay, con cái tuần này thì ở với mẹ, tuần khác thì ở với cha. Đó là cảnh chia ly của một gia đình bị chẻ ra nhiều mảnh. Có nhiều em bé mới có năm sáu tuổi đã trở thành nạn nhân của thất bại gia đình, thất bại hôn nhân, đời em thay vì được sống trên nền tảng vững chắc của một gia đình, được “chèo và đu đưa” vui vẻ trên một “cây gia đình” tươi tốt, thì ngược lại em phải trở thành người “chạy sô” để bám “cành của má” ở đàng xa kia một thời gian, rồi chạy về bám “cành của ba” ở nhà cũ một thời gian khác. Đời em như khúc củi bị chẻ ra cùng gia đình em bị chia năm sẻ bảy. Thật buồn và đau lòng biết bao. Chiếc bình sành thật quý của ngày hôn nhân với những cành hoa đẹp và thơm phức đã bị bể tan nát. Trước những mảnh vỡ đó con người tiếp tục sống kiếp người đầy buồn bã và lo âu.
Rồi còn nỗi sợ hãi bị cho ra rìa, không còn được tôn trọng, không còn là điểm trung tâm để nhiều điều, nhiều người và nhiều vật được bám vào, đang làm giao động nhiều người.
Kể cả những người sống trong sợ hãi bởi tự ti mặc cảm, bởi mình không đẹp như mình mong muốn, bởi mình không thông minh hiểu biết như người bên cạnh, bởi mình không giàu sang sung sướng như người đối diện, bởi mình không thành đạt như người thương gia được ca ngợi trên trang bìa của tờ nhật báo.
Hôm nay, Đức Ki-tô muốn nói với tất cả những anh em đang sống trong mọi thứ sợ hãi lời mà Ngài đã nói trên Thánh Giá: “thế là đã hoàn tất”. Thật vậy, nếu họ không thể tìm thấy sự hoàn tất trong cuộc đời này, thì nơi Đức Ki-tô họ chắc chắn tìm thấy sự trọn vẹn, sự hoàn tất của cuộc sống trong tình yêu và lòng thương xót. Chính Chúa sẽ nhặt tất cả mọi cây củi bị chẻ ra để ghép lại thành một cây thật đẹp. Chính Chúa giàu lòng thương xót sẽ lượm mọi mảnh vỡ của chiếc bình cuộc đời bị nát tan, và Ngài sẽ hàn gắn lại, và như người thợ gốm lành nghề Ngài làm mới lại chiếc bình mang vẻ đẹp hơn cả vẻ đẹp của ngày xưa.
Ở tại Thánh Giá của Chúa, Chúa dang tay ôm trọn tất cả mọi người đang sống trong đổ vỡ, trong chia ly, trong rạn nứt vào tâm lòng của Ngài.
Chúa tiếp tục nói với chúng ta, những người đang sống, và không ít thì nhiều con đường đời đã và đang bị rạn nứt, lời mạnh mẽ “thế là đã hoàn tất”, “thế lại đã trọn vẹn”, “thế là đã trở nên hoàn toàn rồi”. Thánh Giá của Chúa, Thánh Giá “ôm trọn” mọi “mảnh vỡ” của cuộc đời, là bảo chứng cho lời của sự hoàn tất, lời của sự trọn vẹn, lời của sự hoàn toàn. Trên Thánh Giá, Chúa Giê-su đã hoàn tất công trình tình yêu của Ngài cách mỹ mãn. Tình yêu của Chúa làm cho mọi sự đang rạn nứt và đang đổ vỡ trong chúng ta được tìm lại sự gắn kết và trọn vẹn hoàn toàn. Tình yêu của Chúa giữ chặt lại mọi sự ở trong chúng ta như đang chuẩn bị đỗ vỡ, đang ở trong tình trạng có thể bị “chẻ đôi”. Chúa gìn giữ tất cả trong tình yêu hiệp nhất và thành toàn của Chúa. Chúa đã trải qua ngày thứ sáu tuần thánh, nhưng không dừng lại ở thời điểm “đổ vỡ” đó, mà Chúa đã bước vào hoàng hôn của ngày Phục Sinh, thời điểm sự hoàn tất được nở hoa kết trái.
Vì thế, thật đẹp biết bao, khi chúng ta cùng dâng Chúa mọi sự của đời mình, đặc biệt dâng Chúa các mảnh vỡ trong cuộc đời của mình mà chúng ta còn lượm lại được. Tất cả những mảnh vỡ đó như là năm chiếc bánh và hai con cá đơn sơ. Nhưng khi dâng Chúa, Chúa sẽ thánh hoá của lễ đơn sơ và bất toàn này thành lương thực dồi dào và phong phú nuôi sống cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong giờ đối diện với cái chết, cũng có thể nói như Chúa: “thế là đã hoàn tất”. Hoàn tất sứ mạng Chúa trao ban, hoàn tất trách nhiệm của đời người, đời làm Cha, đời làm Mẹ, đời làm con, đời của người tu sĩ, đời của người giáo dân.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong giờ đối diện với cái chết, cũng có thể nói như Chúa: “thế là đã hoàn tất”, dù cho đời chúng con ở tại giây phút cuối cùng vẫn có nhiều mảnh vỡ vương vãi mọi nơi. Cậy vào lòng thương xót của Chúa và tin tưởng vào tình yêu vô bờ của Chúa, xin Chúa lượm lại tất cả các mảnh vỡ đó, gắn kết và làm mới lại thành một tạo vật đúng như lòng Chúa ước mong, tạo vật với rượu ngon hảo hạng và đầy tràn ở tiệc Cưới Cana, tạo vật chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá nhưng lại được hưởng một bữa no nê chung với hàng ngàn người đang đói.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trước cánh cửa của cái chết trên trần gian này, có thể nói lời cầu nguyện của Chúa: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1), và “trong tay Ngài, lạy Chúa con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46).
“Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu độ chúng con.
Biết bao người đang âu sầu phiền muộn, xin nhớ lại giờ Chúa hấp hối.
Biết bao người còn phải mang thương tích, xin nhớ lại những cực hình Chúa chịu.
Biết bao người bị nhạo báng chê bai, xin nhớ lại vòng gai Chúa đội đầu.
Biết bao người đang chán ngán cuộc đời, xin nhớ lại tiếng kêu than của Chúa.
Biết bao người ngày hôm nay lìa thế, xin nhớ lại cái chết nhục nhằn của Chúa trên thập tự.
Biết bao người gặp thử thách mà vẫn cậy trông, xin cho họ được ánh sáng Phục sinh soi chiếu”.
(Lời cầu Kinh Chiều Thứ Sáu tuần III thường niên).
Đến trước Thánh Giá Chúa, nhắm mắt lại bạn đứng thẳng và từ từ dang tay ra hai bên, như tư thế của Chúa Giê-su trên Thánh Giá. Giờ đây, bạn hãy mường tượng như Chúa Giê-su với Ngài bạn cũng đang bị đóng đinh trên cây Thánh Giá. Và cũng có thể bạn tự mình đóng đinh bạn vào Thánh Giá, và tự mình bạn không thể trốn chạy khỏi Thánh Giá. Ở lại trong tư thế này và trạng thái này. Bạn hãy ý thức rằng, mọi sự đều được giữ lại trên cây Thánh Giá. Tất cả mọi mảnh vỡ của cuộc đời bạn. Chúa muốn giữ lại tất cả và hàn gắn tất cả.
Vẫn đứng trong tư thế trên, giờ đây bạn mường tượng, như Chúa Giê-su bạn ôm ấp tất cả mọi sự trong đời bạn vào lòng, cả những thành công lẫn thất bại, nỗi vui mừng và sợ hãi, hạnh phúc và buồn đau, hiện tại và tương lai, trách nhiệm và sứ mạng. Bạn cầu xin Chúa giúp bạn biết nói lời “xin vâng” với tất cả những điều đó, như Chúa đã đón nhận tất cả và thánh hoá tất cả.
“Thế là đã hoàn toàn”. Đứng trước Thánh Giá Chúa, bạn có thể chắp lại hoặc bạn có thể dang đôi tay ra và hướng về Thánh Giá Chúa, và bạn nhẩm đi nhắc lại lời của Chúa. Bạn có muốn dâng Chúa đời bạn, những dự định và kế hoạch trong đời bạn, và cả trách nhiệm cùng sứ mạng mà bạn nhận được không? Bạn hãy âm thầm tâm tình với Chúa và xin Chúa giúp bạn thực hiện những điều đó cách trọn vẹn.
Bạn đứng thẳng và hướng mắt nhìn Chúa Giê-su trên Thánh Giá. Chúa Giê-su dang tay và ôm ấp những người nghèo hèn, bất hạnh và bị bỏ rơi vào lòng, để chở che nâng đỡ, để ấp ủ và yêu thương, để an ủi và thêm sức. Trong những người đó có thể có bạn nữa.
Sau đó, từ từ bạn dang tay ra, và giờ đây bạn tự hỏi xem, bạn muốn ôm ấp ai đang đau khổ, đang buồn đau vào lòng. Bạn hãy mường tượng khuôn mặt của họ cách sống động, và nhẹ nhàng bạn ôm ấp họ vào lòng. Hãy ở lại trong tư thế và trạng thái này một lúc. Cuối cùng bạn hãy cầu nguyện cho người bạn đang ôm ấp trong đôi tay của bạn.
Nguồn: dongten.net (07.4.2023)
RATZINGER J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần II, từ lúc vào Giêrusalem cho đến phục sinh, bản dịch của Phạm Hồng Lam, NXB.Tôn Giáo 2011, t.271-272.
x.NGUYỄN Ngọc Thế SJ., Lời kinh Cha Mẹ dạy, NXB. Phương Đông 2012, t.91-93.
MARTINI C.M., Ne méprisez pas la Parole, t.180.
RATZINGER J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần II, s.200-201.
RAHNER K., Wort vom Kreuz, t.67-68.
NOUWEN H., Can you drink the cup? – Con có thể uống chén này?, chương 02: Chén đắng. Bản tiếng tiếng Việt của An Nguyễn. Nguồn: nguoitinhuu.com
NOUWEN H., Can you drink the cup? – Con có thể uống chén này?, chương 03: Chén vui mừng.
RAHNER K., Wort vom Kreuz, t.67.
PAGLIA V., Die sieben Worte Jesu am Kreuz, t.59-60.
RAHNER K., Wort vom Kreuz, t.68.
Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, NXB. Tôn Giáo 2011, số 632 và 635.
PAGLIA V., Die sieben Worte Jesu am Kreuz, t.61.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 635.
x. GRUEN A., Vater, vergib ihnen, die sieben letzten Worte Jesu am Kreuz, s.99-101.
https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/di-ngon-thu-sau-cua-chua-tren-thanh-gia-the-la-da-hoan-tat--50598