TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Canh thức Vượt Qua

“Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại”. (Mc 16,1-8)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Đức Giê-su Ki-tô – Đường tình bạn

Thứ sáu - 02/06/2023 20:04 | Tác giả bài viết: Gm. Phê-rô Nguyễn Văn Viên |   338
Tình yêu và tình bạn là hai chủ đề quan trọng của đời sống con người và nhiều khi con người khó có thể phân biệt rõ ràng đâu là tình yêu và đâu là tình bạn.
Đức Giê-su Ki-tô – Đường tình bạn

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG TÌNH BẠN

WHĐ (02.06.2023) - Tình yêu và tình bạn là hai chủ đề quan trọng của đời sống con người và nhiều khi con người khó có thể phân biệt rõ ràng đâu là tình yêu và đâu là tình bạn. Văn hóa Hy-lạp thời cổ có nhiều khái niệm ‘yêu’ (love). Trong đó, bốn khái niệm căn bản được sử dụng để diễn tả tình yêu trong Kinh Thánh Ki-tô Giáo là: (1) ἔρως/ érōs (tình yêu xác thịt hay tình yêu vị kỷ), (2) στοργή/ storgē (tình yêu gia đình giữa cha mẹ, con cái, anh chị em), (3) φιλία/ philia (tình yêu bạn bè hay tình bạn) và (4) ἀγάπη/ agápē (tình yêu hy sinh hay tình yêu vô điều kiện). Trong Kinh Thánh, ἔρως/ érōs được sử dụng 2 lần trong Cn 7,18 và Cn 30,16; στοργή/ storgē xuất hiện 2 lần trong 4 Mcb 14,13.17 (sách 3 Mcb và 4 Mcb thuộc Quy Điển của Chính Thống Giáo); φιλία/ philia được sử dụng 33 lần (32 lần trong Cựu Ước và 1 lần trong Tân Ước), cùng với động từ φιλέω/ phileō được sử dụng 54 lần (33 lần trong Cựu Ước và 21 lần trong Tân Ước); ἀγάπη/ agápē được sử dụng 124 lần (18 lần trong Cựu Ước và 106 lần trong Tân Ước), cùng với động từ ἀγαπάω/ agapaō được sử dụng 378 lần (268 lần trong Cựu Ước và 110 lần trong Tân Ước). Bài viết này chủ yếu quan tâm chủ đề tình yêu φιλία/ philia (amicitia/ friendship/ amitié) trong tương quan với chủ đề tình yêu ἀγάπη/ agápē (caritas/ love/ amour). Hình thức động từ của danh từ φιλία/ philia là φιλέω/ phileō (yêu, thích, làm bạn); còn hình thức động từ của danh từ ἀγάπη/ agápē là ἀγαπάω/ agapaō (yêu, ưa chuộng, quí mến). Trong Tân Ước, có khi tình yêu agape được sử dụng phân biệt với tình yêu philia nhưng cũng có khi tình yêu agape được sử dụng như tình yêu philia. Bản Bảy Mươi (Septuagint, bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước từ tiếng Do-thái sang tiếng Hy-lạp) dùng hai động từ φιλέω và ἀγαπάω trong cùng một câu, chẳng hạn trong sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan minh định: “Kẻ yêu ta sẽ được ta yêu lại, người tìm ta ắt sẽ gặp ta” [ἐγὼ τοὺς ἐμὲ φιλοῦντας ἀγαπῶ, οἱ δὲ ἐμὲ ζητοῦντες εὑρήσουσιν] (Cn 8,17). Điều đáng để chúng ta quan tâm là cùng một động từ yêu (אהב/ ahab) của tiếng Do-thái nhưng các tác giả Bản Bảy Mươi dịch Thiên Chúa yêu là tình yêu agape, còn con người yêu là tình yêu philia. Như vậy, các tác giả Bản Bảy Mươi đã ‘hội nhập văn hóa’ khi dịch Kinh Thánh Cựu Ước từ tiếng Do-thái sang tiếng Hy-lạp hầu giúp mọi người hiểu biết và phân biệt rõ ràng hơn giữa tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của con người.

Chúng ta có thể khẳng định rằng tình bạn xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người trên trái đất này. Con người không thể có hạnh phúc thực sự nếu cuộc đời vắng bóng tình bạn. Các hình thức tình bạn thật đa diện, chẳng hạn như tình bạn theo lứa tuổi, tình bạn theo giới tính, tình bạn theo nghề nghiệp, tình bạn theo trường lớp, tình bạn theo sở thích, tình bạn theo học thức, tình bạn theo tầng lớp xã hội, tình bạn theo chí hướng, tình bạn theo tính nết, tình bạn theo sắc tộc. Nói cách khác, có bao nhiêu hình thức phân loại trong xã hội loài người thì có bấy nhiêu hình thức tình bạn. Chủ đề tình bạn được quan tâm từ rất sớm trong các truyền thống triết học và tôn giáo thuộc thế giới Hy-lạp và Rô-ma với những nhân vật nổi tiếng như Socrates (469-399 trước Công Nguyên), Plato (428-348 trước Công Nguyên), Aristotle (384-322 trước Công Nguyên) hay Cicero (106-43 trước Công Nguyên). Nhu cầu tình bạn thật là mãnh liệt: Có người cần tình bạn để bổ sung kiến thức; có người cần tình bạn để giảm thiểu những sai lầm; có người cần tình bạn để nâng cao chất lượng cuộc sống; có người cần tình bạn để dễ bề tâm sự trong lúc gặp khó khăn; có người cần tình bạn để vui chơi; có người cần tình bạn cho một tương lai tốt đẹp hơn.

Theo Diogenes Laërtius (sống vào thế kỷ thứ ba, người viết tiểu sử các triết gia Hy-lạp) thì Aristotle định nghĩa bạn bè chân thực, bạn bè tri kỷ là: “Một tâm hồn trong hai thân thể” [μία ψυχὴ δύο σώμασιν ἐνοικοῦσα] (Diogenes Laërtius, The Lives and Opinions of Eminent Philosophers, Book V,20). Aristotle đề cập ba hình thức tình bạn chính yếu, đó là tình bạn lợi ích, tình bạn vui thú và tình bạn đức hạnh (Aristotle, Nicomachean Ethics, Book VIII,3): (1) Tình bạn đặt nền tảng trên lợi ích hay tình bạn thực dụng (friendship of utility), nghĩa là đôi bên cùng có lợi, nếu không có bạn sẽ bị thiệt thòi; (2) tình bạn đặt nền tảng trên vui thú hay sự hài lòng (friendship of pleasure), nghĩa là mỗi người đều cảm nhận được vui thú trong tương quan tình bạn. Hai hình thức tình bạn này hướng tới bản thân hơn là hướng tới người khác. Đây là những hình thức tình bạn chóng qua, mau tàn, không bền vững bởi vì khi không còn lợi ích hay vui thú nữa cũng là khi người ta buông bỏ tình bạn. Tình bạn theo hai hình thức này nặng tính sở hữu ‘muốn có lợi ích, muốn có thú vui’, nhắm tới ‘cái con người cần có’ (to have) hơn ‘cái con người là’ (to be); (3) tình bạn đặt nền tảng trên đức hạnh hay sự tốt lành (friendship of virtue), nghĩa là đôi bên đều quan tâm đến đức hạnh hay sự tốt lành của nhau, đôi bên đều hướng về sự toàn thiện. Tình bạn đức hạnh quan tâm phẩm giá cao quý của con người so với vạn vật, quan tâm ‘cái con người là’ hơn là ‘cái con người cần có’. Đây là tình bạn cao quý, bền vững, đáng trân trọng hơn hai hình thức tình bạn trước đó.

Những trang đầu của sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng, sau khi tác tạo A-đam, Thiên Chúa nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Thiên Chúa đã lấy xương sườn của A-đam và làm thành người đàn bà (tên là E-và) và cả hai thành một xương một thịt (St 2,21-24; St 3,20). Không chỉ A-đam và E-và trở thành bạn của nhau mà cả hai còn có mọi súc vật, chim trời, muông thú làm bạn (St 2,19). Đặc biệt, A-đam và E-và được sống thân tình với Thiên Chúa: Người đi dạo trong vườn mà Người đã chuẩn bị cho họ (St 3,8). Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Con người đầu tiên không phải chỉ được sáng tạo tốt lành mà thôi, nhưng còn được đặt trong tình thân với Đấng Tạo Hóa, hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh. Tình thân và sự hài hòa này chỉ thua kém vinh quang của sáng tạo mới trong Đức Ki-tô” (GLGHCG 374). Sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết rằng, vì tội lỗi của A-đam và E-và, tình thân hữu giữa Thiên Chúa và con người trở nên méo mó, biến dạng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương con người. Lịch sử tình yêu đó được diễn tả cách cụ thể trong gia đình nhân loại. Theo thánh I-rê-nê (130-202), chương trình mặc khải của Thiên Chúa trong dòng lịch sử là chuẩn bị cho con người trở nên bạn hữu của Thiên Chúa (Irenaeus, Against Heresies, Book IV, Chapter 16,3-4).

Thiên Chúa trở thành Bạn của con người. Bạn ở đây được hiểu là φίλος/ philós (φιλία/ philia - tình yêu bạn bè hay tình bạn). Điều này vượt quá tâm thức của con người qua dòng lịch sử. Chẳng hạn, tâm thức triết lý và tôn giáo của một số nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng lớn ở Hy-lạp và nhiều nước quanh vùng Địa Trung Hải trước Biến Cố Nhập Thể của Đức Giê-su là: Những gì thuộc thế giới linh tượng thì không thể là bạn của những gì thuộc thế giới khả giác, do đó, không có chuyện tình bạn giữa thần thánh (thuộc thượng giới) và con người (thuộc hạ giới). Bổn phận của con người là tìm cách lìa bỏ đời sống hạ giới để về với đời sống thượng giới. Đối với Aristotle, nói đến tình bạn là nói đến sự tương đồng. Khoảng cách giữa Thượng Đế và con người xa nhau vời vợi. Vì vậy, tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan tình bạn (Aristotle, Nicomachean Ethics, Book VIII, 7). Hầu hết các tôn giáo trên thế giới không bao giờ đề cập tình bạn giữa con người và thần thánh. Chẳng hạn, đối với Hồi Giáo, không có tình bạn giữa Đấng Allah và con người. Bổn phận căn bản của các tín hữu Hồi Giáo là tuyên xưng đức tin (Allah là Đấng duy nhất và Muhammad là sứ giả của Allah), cầu nguyện, bố thí, ăn chay và hành hương tới nhà của Allah (ở Mecca). Đấng Allah hay các thần linh lại trở nên bạn của con người là điều không thể hiểu được đối với anh chị em Hồi Giáo hay các tín hữu thuộc các tôn giáo khác. Tuy nhiên, đây lại là mặc khải vô cùng quan trọng đối với Ki-tô Giáo.

Trở về với Cựu Ước, chúng ta biết rằng những nhân vật điển hình trong Cựu Ước như Áp-ra-ham, Mô-sê và Đa-vít được gọi là ‘bạn của Thiên Chúa’ bởi vì Thiên Chúa luôn đồng hành với họ, nhờ đó, chương trình cứu độ của Người ngày càng được tỏ hiện. Chẳng hạn, tác giả sách Sử Biên Niên trình thuật lời nguyện của vua Giơ-hô-sa-phát rằng: “Lạy Thiên Chúa chúng con, chẳng phải Ngài là Đấng đã đuổi cư dân xứ này, bắt nhường chỗ cho Ít-ra-en dân Ngài và ban đất ấy cho dòng dõi Áp-ra-ham, bạn thân của Ngài đến muôn đời đó sao?” (2 Sbn 20,7). Trong sách ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa phán: “Phần ngươi, hỡi Ít-ra-en, tôi tớ của Ta, hỡi Gia-cóp, kẻ Ta tuyển chọn, dòng dõi Áp-ra-ham, bạn của Ta, Ta đã nắm chặt lấy ngươi, đưa ngươi về từ tận cùng cõi đất, kêu gọi ngươi từ những miền xa thẳm” (Is 41,8-9). Trong Tân Ước, thánh Gia-cô-bê gợi lại điều đó: “Ông Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính và ông được gọi là bạn của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Tương tự như Áp-ra-ham, Mô-sê cũng được gọi là bạn của Thiên Chúa. Chẳng hạn, theo sách Xuất Hành: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Đa-vít cũng luôn ý thức về sự gần gũi, thân tình với Thiên Chúa như là Bạn của mình. Điều này được diễn tả trong nhiều Thánh Vịnh, chẳng hạn: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27,1). Lời rao giảng của thánh Phao-lô cho người Do-thái khẳng định tình thân hữu giữa Thiên Chúa với Đa-vít: “Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta” (Cv 13,22).

Một trong những câu chuyện đặc sắc nhất về tình bạn chân thành trong Cựu Ước là tình bạn giữa Giô-na-than và Đa-vít. Giô-na-than là con vua Sa-un nhưng Giô-na-than không màng đến danh vọng kế vị cha mình để được vinh dự, sang giàu với nhiều kẻ hầu người hạ. Trong lịch sử nhân loại chưa có hoàng tử nào lại nói với bạn mình như Giô-na-than nói với Đa-vít: “Chính anh sẽ làm vua cai trị Ít-ra-en, còn tôi sẽ làm phó cho anh” (1 Sm 23,17). Giô-na-than yêu Đa-vít như chính mình (1 Sm 18,1-3). Tình bạn đó còn được diễn tả rất cụ thể: “Ông Giô-na-than cởi chiếc áo khoác đang mặc mà cho ông Đa-vít, cho áo, cho cả gươm, cả cung, cả thắt lưng của ông” (1 Sm 18,4). Tình bạn giữa Giô-na-than và Đa-vít đối diện với muôn vàn thử thách gian truân, đặc biệt là trong hoàn cảnh vua Sa-un thay lòng đổi dạ từ chỗ mến yêu Đa-vít tới chỗ ghen ghét vì Đa-vít tuổi trẻ tài cao, được nhiều người mến yêu kính trọng. Vua Sa-un muốn dùng tay người Phi-li-tinh để giết Đa-vít nhưng Đa-vít được Thiên Chúa phù trợ và thoát khỏi mọi hiểm nguy, đồng thời, giành nhiều chiến thắng lừng lẫy trước quân Phi-li-tinh. Vì ghen tương và sợ mất ngôi, chính vua Sa-un tự tay cầm giáo để giết Đa-vít nhưng Đa-vít đã thoát nạn (1 Sm 19,8-10). Tình thế biến đổi mau lẹ, Giô-na-than cùng các con của vua Sa-un đều bị giết, còn vua Sa-un tự mình lao vào mũi gươm và đã chết. Đa-vít không hận thù vua Sa-un bởi vì vua là người được Đức Chúa xức dầu tấn phong (2 Sm 1,14). Đa-vít đã làm văn tế khóc thương vua Sa-un và Giô-na-than: “Sa-un và Giô-na-than, ôi những con người dễ thương, dễ mến, sống chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời, nhanh hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!” (2 Sm 1,23). Đặc biệt, Đa-vít khóc thương Giô-na-than, người bạn thân thiết nhất đời mình: “Giô-na-than, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh [ἀγάπησίς] đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ” (2 Sm 1,26). Theo ngôn ngữ của Aristotle, tình bạn giữa Giô-na-than và Đa-vít không phải là tình bạn lợi ích hay tình bạn vui thú mà là tình bạn đức hạnh định hướng về tình yêu ἀγάπη/ agápē của Tân Ước. Đây là hình ảnh giúp mọi người có thể cảm nhận cách rõ ràng hơn tình bạn mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng cuộc sống của Người.

Chúng ta biết rằng, trong Cựu Ước, Khôn Ngoan hay Đức Khôn Ngoan không chỉ là ý niệm trừu tượng hay là đặc tính của Thiên Chúa mà còn được nhân cách hóa (personification). Chẳng hạn, Khôn Ngoan tiền hữu, bất biến, hợp nhất, sống động, sáng tạo, hiểu biết, cộng tác, chỉ dẫn (Cn 8,27-29; Hc 1,9-10.26; Hc 24,7.12.19-22, Kn 6,18; Kn 1,7; Kn 8,4, Kn 9,9; Br 3,9–4,4); Đức Khôn Ngoan đứng đó, Đức Khôn Ngoan toàn năng, Đức Khôn Ngoan phản ánh lòng nhân hậu của Thiên Chúa (Cn 3,17-18; Cn 8,2-4; Kn 7,25-26). Trong ngôn ngữ tình bạn giữa Thiên Chúa và con người, tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” (Kn 7,14). Cũng theo tác giả sách Khôn Ngoan: “Từ thế hệ này qua thế hệ khác, Đức Khôn Ngoan ngự vào những tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa, nên ngôn sứ của Người” (Kn 7,27). Ai chiếm được Đức Khôn Ngoan, ai có được Đức Khôn Ngoan là có tất cả. Với Tân Ước, chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Lời và cũng là Khôn Ngoan của Thiên Chúa Nhập Thể. Điều này có nghĩa rằng nhờ Đức Giê-su trong hành trình trần thế, những trình thuật về Khôn Ngoan hay Đức Khôn Ngoan trong Cựu Ước trở nên hiện thực (Cl 1,15; Ga 1,14).

Chúng ta thấy hình ảnh của Giô-na-than và Đa-vít nơi thánh Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su là Lời và là Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Giô-na-than nói với Đa-vít: “Chính anh sẽ làm vua cai trị Ít-ra-en, còn tôi sẽ làm phó cho anh” (1 Sm 23,17). Còn Gio-an Tẩy Giả nói với các môn đệ về Đức Giê-su: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Tại sao Đức Giê-su lại nổi bật như vậy? Theo trình thuật của thánh Gio-an Tông Đồ, trước đó, thánh Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giê-su cho các môn đệ mình: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,29-30). Thánh Gio-an Tẩy Giả vừa là vị tiền hô dọn đường cho Đức Giê-su, vừa là bạn của Đức Giê-su như lời của thánh nhân: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3,29). Hơn nữa, khi nhận ra Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian, thánh Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu các môn đệ thân thuộc của mình cho Đức Giê-su để họ trở thành môn đệ, tông đồ và là bạn của Người (Ga 1,36-37).

Khi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su làm bạn với mọi người, đặc biệt, những người tội lỗi, những người bị bỏ rơi hay bị những người quyền cao chức trọng trong xã hội Do-thái khinh bỉ. Thánh Mát-thêu trình thuật lời của Đức Giê-su đối với những người Do-thái: “Ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,18-19). Theo trình thuật của thánh Lu-ca, Đức Giê-su giải thích lý do Người quan tâm những kẻ yếu thế: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Như vậy, vấn đề đã rõ: Đức Giê-su làm bạn với những người như thế để biến đổi họ trở nên giống Người chứ không phải làm cho Người trở nên giống họ. Hơn nữa, lời của Đức Giê-su nhắc nhở những ai tự cho mình là công chính thánh thiện thì cần phải xem lại bản thân trước khi dèm pha hay khinh thường người khác. Quả thực, trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều là tội nhân và được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng gần gũi hơn với chính mình, với anh chị em, với muôn vật muôn loài và với Thiên Chúa.

Câu chuyện người Sa-ma-ri tốt lành cũng là câu chuyện giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình người, tình đời và tình bạn (Lc 10,29-37). Trong khi thầy tư tế và thầy Lê-vi là những người đồng hương, đồng bào, đồng đạo thì không cứu giúp người bị nạn, còn người Sa-ma-ri (dân Do-thái coi họ là dân ngoại) lại yêu thương người bị nạn. Đức Giê-su muốn dùng câu chuyện này để nói về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa mà Đức Giê-su diễn tả. Bởi vì, Đức Giê-su từ ‘môi trường xa lạ’, ‘môi trường Thiên Chúa’ đến với môi trường con người, môi trường vĩnh cửu đến với môi trường thời gian, môi trường vô biên đến với môi trường giới hạn. Người không chỉ đến với một người, một nhóm người, một dân tộc, một quốc gia nào đó mà là đến với mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Đức Giê-su đến để mời gọi mọi người trở nên bạn của Thiên Chúa để được chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Sau khi kể dụ ngôn, để trả lời cho câu hỏi của người thông luật ‘ai là người thân cận của tôi?’, Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37). Quả thực, trong dụ ngôn này, người Sa-ma-ri xa lạ lại trở thành người bạn thân nhất của nạn nhân còn những người ‘bạn thân’ của nạn nhân lại trở thành những người xa lạ.

Hành trình trần thế của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng, một mặt, Người đến với mọi người thuộc mọi giai tầng trong xã hội, mặt khác, tình bạn của Người rất cụ thể. Câu chuyện về mối tương quan giữa Đức Giê-su và ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a, La-da-rô ở Bê-ta-ni-a (cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số) giúp chúng ta hiểu thêm về tình bạn của Người. Thánh Gio-an trình thuật rằng khi La-da-rô bị bệnh, hai cô Mác-ta và Ma-ri-a nhờ người đến báo cho Đức Giê-su biết về bệnh tình của La-da-rô: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng" [Κύριε, ἴδε ὃν φιλεῖς ἀσθενεῖ] (Ga 11,3). Động từ thương mến (yêu) dùng ở đây là ‘tình yêu bạn hữu (φιλεῖς từ φιλέω/ phileō). Khi nhận được tin, Đức Giê-su còn lưu lại nơi Người đang ở hai ngày nữa. Sau đó, Người đến quê hương của ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Khi Người tới thì La-da-rô đã chết và người ta chôn cất anh bốn ngày rồi. Trước cảnh tượng đau buồn của Mác-ta, Ma-ri-a và những người thân cận, Đức Giê-su khóc (Ga 11,35). Sau đó, Người đã tới mồ gọi La-da-rô và La-da-rô được hồi sinh trước sự chứng kiến của nhiều người. Câu chuyện này vừa cho chúng ta biết tình bạn thân thiết của Đức Giê-su đối với ba chị em ở Bê-ta-ni-a, vừa cho chúng ta biết quyền năng cao cả của Đức Giê-su là cho người chết hồi sinh. Với dấu chỉ cho La-da-rô hồi sinh, Đức Giê-su mời gọi mọi người quan tâm hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người là làm cho mọi người được sống lại trong ngày sau hết.

Giáo huấn của Đức Giê-su về tình bạn vượt quá thông lệ văn hóa Do-thái cũng như các nền văn hóa khác của xã hội loài người. Trong Cựu Ước, tác giả sách Châm Ngôn viết: “Bạn bè làm thương tổn, bạn bè vẫn chân thành, kẻ thù có ôm hôn, kẻ thù cũng giả dối” (Cn 27,6). Còn tác giả sách Huấn Ca viết: “Trong mọi chuyện lớn nhỏ, đừng tỏ ra vô ý thức; đang là bạn, chớ trở nên thù” (Hc 5,15) hay: “Không buồn chết được sao khi bạn bè thân hữu lại hóa nên thù địch?” (Hc 37,2). Còn theo luật báo phục của Cựu Ước, “nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: Chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy” (Lv 24,19-20). Tuy nhiên, trong Tân Ước, Đức Giê-su mời gọi mọi người hướng tầm nhìn vượt qua nhãn quan Cựu Ước về kẻ thù. Quả thực, với Đức Giê-su, không ai trong gia đình nhân loại là kẻ thù của nhau hay kẻ thù của Thiên Chúa. Khi khai triển bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói rằng Người đến trần gian để kiện toàn lề luật (Mt 5,17). Với đồng loại và kẻ thù, Đức Giê-su nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44). Quả thực, đối với con người, thật khó để làm bạn với kẻ thù nhưng vì lắng nghe giáo huấn ‘yêu kẻ thù’ của Đức Giê-su, các môn đệ của Người hãy làm bạn với kẻ thù. Người ta thường nói rằng ‘chọn bạn mà chơi’. Còn Đức Giê-su thì chọn tất cả mọi người trong gia đình nhân loại là bạn của Người và yêu thương mọi người (Ga 3,16). Như vậy, dõi theo đời sống và giáo huấn của Đức Giê-su, biên độ tình yêu và tình bạn của các Ki-tô hữu thật rộng lớn: Từ Thiên Chúa tới kẻ thù. Nói cách khác, tình yêu và tình bạn của những ai theo Đức Giê-su đặt nền tảng trên tình yêu và tình bạn vô biên vô lượng của Thiên Chúa.

Các môn đệ theo Đức Giê-su nhưng không phải ai cũng thành tâm, tin tưởng và phó thác đời sống mình cho Người. Chẳng hạn, như các môn đệ khác, Giu-đa cảm nhận được quyền năng và tình bạn sâu thẳm của Đức Giê-su nhưng Giu-đa vẫn muốn tự mình định đoạt số phận hơn là cậy dựa vào Người. Nhiều lần Đức Giê-su đã cảnh báo về sự phản bội của Giu-đa (Mt 26,24–25; Mc 14,18–21; Lc 22,21–23; Ga 13,21–30). Đặc biệt, sau lời tuyên xưng lòng tin của thánh Phê-rô, Đức Giê-su nói: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” (Ga 6,70). Tuy nhiên, Giu-đa không hề nao núng với ý định trao nộp Đức Giê-su cho những kẻ chống đối Người. Trong Cựu Ước, tác giả Thánh Vịnh viết: “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!" (Tv 41,10). Đức Giê-su đã chia cơm sẻ áo với Giu-đa nhưng não trạng của Giu-đa là ‘đồng sàng dị mộng’, theo chương trình riêng của mình chứ không theo chương trình của Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu trình thuật rằng, trong cuộc thương khó, khi Giu-đa Ít-ca-ri-ốt tiến lại hôn Đức Giê-su thì Người bảo hắn: “Này bạn [Ἑταῖρε], bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” (Mt 26,50). Trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, trước khi gọi Giu-đa ‘này bạn’, Đức Giê-su dùng hạn từ ‘này bạn’ hai lần trong hai dụ ngôn khác nhau. Lần thứ nhất là trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho. Ông chủ nói với một trong những người phàn nàn vì anh ta làm mười một giờ mà tiền lương cũng bằng người làm một giờ: “Này bạn [Ἑταῖρε], tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?” (Mt 20,13). Lần thứ hai, trong dụ ngôn tiệc cưới, khi nhà vua, cũng là chủ tiệc cưới, thấy có người dự tiệc nhưng không mang y phục lễ cưới thì nói với người đó: “Này bạn [Ἑταῖρε], làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22,12). ‘Này bạn’ trong hai dụ ngôn ở trên không thể so sánh với ‘này bạn’ khi Đức Giê-su nói với Giu-đa. Bởi vì, Đức Giê-su gọi ‘này bạn’ với người môn đệ sắp nộp Người cho kẻ dữ.

Câu đầu tiên trong Bữa Ăn Cuối Cùng (the Last Supper) của Đức Giê-su với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn theo trình thuật của thánh Gio-an là: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giê-su loan báo Giu-đa sẽ phản bội và nói lời cáo biệt. Khi Giu-đa ra đi, Đức Giê-su nói với mười một môn đệ còn lại: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Đức Giê-su nói về ‘điều răn mới’ là yêu như Người đã yêu. Quả thực, trong khi các môn đệ khó hiểu về căn tính, sứ mệnh cũng như giáo huấn của Đức Giê-su thì các ngài hiểu được tình yêu và tình bạn mà Đức Giê-su dành cho họ. Đó là lý do tại sao trong Ga 15,12-13, Đức Giê-su vừa lặp lại điều Người đã nói ở Ga 13,34 vừa trình bày ‘tình yêu mới’ cách cụ thể hơn: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,12-13). Dưới nhãn quan của các triết gia, chẳng hạn như Aristotle, chết cho bạn mình là chết cho lý tưởng cao đẹp, cái chết của ‘tình bạn đức hạnh’. Trong lịch sử nhân loại có nhiều người yêu thương nhau đến nỗi hy sinh tính mạng cho nhau, chẳng hạn như vợ chồng hy sinh tính mạng cho nhau, người mẹ mang thai hy sinh tính mạng cho con được sống hay những người lính sẵn sàng hy sinh mạng sống vì tổ quốc thân yêu. Tuy nhiên, việc Đức Giê-su hy sinh tính mạng vì bạn hữu diệu kỳ hơn các hình thức hy sinh tính mạng trong gia đình nhân loại.

Hai điều quan trọng liên quan đến điều răn mới, điều răn yêu thương như Đức Giê-su yêu, yêu thương đến nỗi hy sinh tính mạng vì bạn hữu đáng để chúng ta quan tâm: (1) Là Thiên Chúa nhưng Đức Giê-su lại trở nên Bạn của con người. Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình đến mức con người có thể lắng nghe, nhìn thấy, chiêm ngưỡng, đụng chạm (1 Ga 1,1; Dt 1,1-2). Khi Đức Giê-su gọi các môn đệ là bạn, mặc nhiên, Người cũng cho họ biết rằng họ là bạn của Thiên Chúa bởi vì sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su là sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa không còn xa lạ nữa, Người là Đấng gần gũi với những ai liên kết mật thiết với Đức Giê-su; (2) Là Thiên Chúa nhưng Đức Giê-su đã chết vì con người. Đức Giê-su là Sự Sống nhưng lại chết dưới bàn tay con người. Thật nghịch lý, Đấng cả vũ trụ không chứa nổi lại chịu chết và được táng trong mồ như mọi người trong gia đình nhân loại; Đấng vĩnh cửu lại chết trong thời gian; Đấng trao ban ân sủng lại chết như con người tội lỗi. Tình yêu, tình bạn và cái chết của Đức Giê-su là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Thánh Phao-lô minh định: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).

Sau khi nói với các môn đệ về giới răn yêu thương mới và khẳng định tình thương cao quý nhất là tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu, Đức Giê-su lại nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15,14). Như vậy, một mặt, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ trở thành bạn của Người, cũng là bạn của Thiên Chúa. Mặt khác, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ thực hiện những điều Người truyền dạy. Với Đức Giê-su, món quà càng cao quý bao nhiêu thì trách nhiệm càng lớn lao bấy nhiêu. Cũng trong bối cảnh Bữa Ăn Cuối Cùng, các trình thuật trước đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21); “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,10). Như vậy, ai là bạn của Đức Giê-su thì thực hiện những điều Đức Giê-su truyền dạy và ai yêu Đức Giê-su thì tuân giữ các điều răn của Người. Ở đây, chúng ta nhận thức được tương quan mật thiết giữa tình yêu, tình bạn và giới răn của Đức Giê-su. Điều này có nghĩa rằng ai là bạn của Đức Giê-su thì yêu Đức Giê-su và yêu người khác như Đức Giê-su đã yêu; ai là bạn của Đức Giê-su thì liên kết với Người cách mật thiết như cành nho với cây nho để sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ Người (Ga 15,8); ai là bạn của Đức Giê-su thì tuân giữ giới răn của Người như Người đã giữ các điều răn của Chúa Cha và ở lại trong tình thương của Chúa Cha. Sau này, thánh Phao-lô diễn tả tình yêu mà Đức Giê-su trối lại cho các môn đệ cách cụ thể hơn là “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7). Quả thực, điều răn yêu thương ‘cũ như trái đất’, điều răn này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người trên trái đất. Đây là điều răn phổ quát của mọi sắc tộc, quốc gia, tôn giáo trong gia đình nhân loại. Tuy nhiên, với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su, điều răn yêu thương trở thành điều răn mới. Điều răn này không mới ở ‘nội dung yêu/ what’ nhưng mới ở ‘cách thế yêu/ how’. Mới ở đây được Đức Giê-su diễn tả bằng đời sống, cái chết và sự phục sinh của Người hầu giải thoát mọi người khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.

Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Chúng ta biết rằng danh xưng ‘tôi tớ’ là danh xưng chỉ những người thấp bé nhẹ cân trong xã hội; những người ‘vâng lời tối mặt’ đối với chủ mình. Tuy nhiên, danh xưng tôi tớ trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người lại là danh xưng cao quý vì người tôi tớ của Thiên Chúa là người lắng nghe, tin tưởng và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, Đức Ma-ri-a thưa cùng sứ thần Gáp-ri-en: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Trong xã hội loài người, khoảng cách không gian giữa chủ và tôi tớ không lớn nhưng khoảng cách phẩm trật giữa chủ và tôi tớ thật lớn. Tuy nhiên, khoảng cách phẩm trật giữa chủ và tôi tớ lớn đến mức nào đi nữa thì cũng là phẩm trật giữa con người với nhau. Trong khi đó, khoảng cách phẩm trật giữa Đức Giê-su và các môn đệ không chỉ là khoảng cách giữa Thầy và trò, giữa người với người mà còn là khoảng cách giữa Thiên Chúa toàn năng và con người yếu đuối, giữa Thiên Chúa thánh thiện và con người tội lỗi, giữa Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và con người là thụ tạo thấp hèn, giữa Thiên Chúa vô biên và con người hữu hạn. Thế mà, Đức Giê-su đã gọi các môn đệ là bạn. Khi Đức Giê-su nói ‘Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu’, chắc rằng các môn đệ rất ngạc nhiên bởi vì những lời nói và việc làm của Người minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến và sự hiện diện của Người là sự hiện diện của Thiên Chúa. Chắc rằng trong các môn đệ sẽ có người thầm đặt câu hỏi: Thiên Chúa lại là Bạn của con người sao? Như đề cập ở trên, một số nhân vật trong Cựu Ước như Áp-ra-ham, Mô-sê hay Đa-vít được gọi là bạn của Thiên Chúa nhưng tình bạn ở đây thật trừu tượng. Trong khi đó, tình bạn giữa Đức Giê-su và các môn đệ rất cụ thể bởi vì các môn đệ của Người đã cảm nhận và đi vào mối tương quan thân mật với Người trong hành trình loan báo Tin Mừng: Đồng bàn, đồng tâm, đồng hướng, đồng hành... Đặc biệt, Người muốn các môn đệ đồng chịu khổ nạn để đồng hưởng vinh quang với Người. Như vậy, chắc rằng các môn đệ ngạc nhiên về việc Đức Giê-su gọi các ngài là ‘bạn’ chứ không ngạc nhiên về ‘nội hàm tương quan tình bạn’ giữa họ và Người. Bởi vì, trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su tỏ cho mọi người thấy sự hòa hợp giữa lời nói và việc làm của Người nhưng thông thường, Đức Giê-su lại làm trước khi nói (Ga 6,1-58; Ga 13,1-15).

Tình yêu và tình bạn của Đức Giê-su không kết thúc với cái chết của Người trên thập giá bởi vì Đức Giê-su đã phục sinh. Người đã đánh bại tội lỗi, sự chết và trao ban sự sống vĩnh cửu cho con người. Thánh Phao-lô viết: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em… Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,14-19). Sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ bên bờ Biển Hồ Ga-li-lê, Đức Giê-su đã hỏi Phê-rô ba lần về tình yêu của Phê-rô đối với Người. Hai lần đầu Đức Giê-su hỏi với động từ diễn tả tình yêu hy sinh ἀγαπάω/ agapaō, còn lần thứ ba với động từ diễn tả tình yêu bạn hữu φιλέω/ phileō. Ba câu trả lời của thánh Phê-rô đều với động từ φιλέω/ phileō (Ga 21,15-19). Đức Giê-su nói tiếng A-ram (Aramaic language) nhưng các tác giả Tin Mừng lại viết bằng tiếng Hy-lạp. Trình thuật này của thánh Gio-an gây nhiều tranh luận giữa các nhà chú giải cũng như các nhà thần học. Một số học giả Kinh Thánh cho rằng Phê-rô không dám trả lời theo ‘bậc tình yêu’ của Đức Giê-su, tình yêu hy sinh, tình yêu vô điều kiện (ἀγαπάω/ agapaō) mà theo bậc tình yêu bạn hữu (φιλέω/ phileō) phù hợp với kinh nghiệm của thánh nhân. Đó là lý do tại sao trong câu hỏi lần thứ ba, Đức Giê-su đã dùng động từ diễn tả tình yêu bạn hữu (φιλέω/ phileō) cho phù hợp với kinh nghiệm của thánh Phê-rô và thánh nhân cũng trả lời với động từ tương tự. Quả thực, sau ba năm chung sống và chứng kiến sự hiện diện khiêm hạ của Đức Giê-su phục sinh, thánh Phê-rô đã choáng ngợp với tình yêu của Người. Chắc rằng, theo dòng thời gian, thánh nhân càng cảm nghiệm sâu đậm hơn tình yêu mà Đức Giê-su biểu lộ. Đồng thời, thánh nhân cũng ngộ ra rằng, với Đức Giê-su, tình yêu của Người cũng là tình bạn và ngược lại. Với khởi đầu bằng tình yêu bạn hữu (φιλέω/ phileō) như thế, thánh nhân từng bước được biến đổi để cuối cùng đạt tới tình yêu hy sinh (ἀγαπάω/ agapaō) khi dấn thân sống và chết cho Thầy Giê-su và anh chị em đồng loại.

Đức Giê-su không chỉ là Bạn của con người trong hành trình trần thế, Người luôn là Bạn của con người sau khi phục sinh. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau là ví dụ điển hình. Khi Đức Giê-su chịu nhiều đau khổ, chịu nạn, chịu chết và được an táng trong mồ như bao người khác, hai môn đệ đó đã rời bỏ cộng đoàn được Đức Giê-su thiết lập ở Giê-ru-sa-lem. Họ thất vọng trở về cố hương có tên là Em-mau, hướng Tây của Giê-ru-sa-lem, hướng mặt trời lặn, hướng đêm tối. Họ về đó lúc ‘trời đã xế chiều và ngày sắp tàn’. Đức Giê-su phục sinh đã xuất hiện và đồng hành với họ, giải thích Kinh Thánh cho họ và lòng trí họ đã sáng ra. Sau đó, họ mời Người ở lại nhà mình. Trong bữa ăn tối: “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Khi được sáng mắt, sáng trí, sáng lòng, họ đã trở về Giê-ru-sa-lem, về hướng Đông, hướng mặt trời mọc, hướng Đức Giê-su là Mặt Trời Công Chính và là Hy Vọng của mọi người (1 Tm 1,1). Sau khi cùng với các môn đệ khác chia sẻ niềm vui vô bờ bến, họ đã lên đường loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng Tình Bạn của Người cho anh chị em đồng loại.

Biến cố Em-mau trở thành biến cố khuôn mẫu về tình bạn giữa Đức Giê-su và các Ki-tô hữu qua muôn thế hệ. Chúng ta biết rằng tình bạn chân thành là tình bạn cùng chia sẻ các giá trị, cùng chia sẻ thế giới quan, cùng chia sẻ chí hướng, cùng chia sẻ sự thật và cụ thể nhất là cùng chia sẻ cơm bánh. Trong tiếng Anh, ‘companion’ có nghĩa là bạn đồng hành. Từ này xuất phát từ tiếng La-tinh, trong đó ‘com-‘ có nghĩa là cùng với (together with) và ‘panis’ có nghĩa là bánh (bread). Như vậy, bạn đồng hành là người ăn cùng tấm bánh với nhau. Quả thực, bạn bè thân thuộc thường ăn uống cùng nhau. Ba năm loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su cùng ăn uống với các môn đệ. Trước khi bước vào cuộc khổn nạn, Người đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại và trở nên Của Ăn Của Uống thiêng liêng cho các tín hữu trong hành trình trần thế (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1 Cr 11,23-25). Sau Biến Cố Phục Sinh, vâng lời Đức Giê-su, các môn đệ “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Thánh Phao-lô trình bày Bí Tích Thánh Thể cách khúc chiết như sau: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17). Ở đây, thánh nhân cho các tín hữu biết rằng Bí Tích Thánh Thể giúp các tín hữu ý thức hơn về tình thân hữu giữa những người họp nhau nhân danh Đức Giê-su. Đặc biệt, thánh nhân nhắc nhở những ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì không đồng lõa với ác thần và tránh xa các hình thức ngẫu tượng: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được” (1 Cr 10,21).

Như đề cập ở trên, Aristotle định nghĩa bạn bè hay tình bạn là ‘hai thân thể một tâm hồn’. Tình bạn giữa Đức Giê-su với các môn đệ Người còn sâu nhiệm hơn bội phần bởi vì Người cho phép bạn mình ăn Người, ăn lấy Sự Sống vĩnh cửu ngay trong hành trình trần thế (Ga 6,54-56). Nói đến Bí Tích Thánh Thể là nói đến sự hiệp nhất, nghĩa là những ai tham dự Bí Tích Thánh Thể thì hiệp nhất với Đức Giê-su, hiệp nhất với nhau và nhờ đó được hiệp nhất với Chúa Cha như lời nguyện cuối cùng của Đức Giê-su với Chúa Cha trước khi bước vào cuộc khổ nạn: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17,20-23). Như vậy, Bí Tích Thánh Thể là Bữa Ăn Tình Yêu, Bữa Ăn Tình Bạn, Bữa Ăn Hiệp Nhất. Đức Giê-su không chỉ là Bạn bên cạnh các tín hữu mà là Bạn thân thiết và gần gũi nhất, gần gũi đến mức trở nên ‘một xương một thịt’ với bạn mình. Hơn nữa, những ai tham dự sự sống của Đức Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể thì được mời gọi sống tình hiệp nhất và cổ vũ tình hiệp nhất trong gia đình nhân loại.

Qua dòng thời gian, các môn đệ Đức Giê-su ngày càng ý thức hơn về tình bạn và tình yêu của Đức Giê-su đối với họ cũng như với mọi người. Đồng thời, họ đã diễn tả tình bạn và tình yêu của Đức Giê-su bằng chính cuộc sống mình. Chẳng hạn, việc gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh trên đường Đa-mát đã biến đổi cuộc đời của thánh Phao-lô luôn mãi, từ kẻ thù địch (enemy) của các Ki-tô hữu thành bạn tâm giao (soulmate) của Đức Giê-su và cũng là của các Ki-tô hữu (Gl 2,20; Pl 1,21). Ngài đã trở thành khí cụ hữu hiệu trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, đối với thánh nhân, các Ki-tô hữu là những người bạn của nhau: “Xin gửi lời thăm các bạn hữu cùng một đức tin như chúng ta” (Tt 3,15) hay: “Anh Ê-páp-ra, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và Lu-ca” (Plm 1,23-24). Đặc biệt, thấm nhuần tinh thần của Đức Giê-su, trong Thư gửi Phi-lê-môn, thánh nhân nói với Phi-lê-môn về việc giải thoát Ô-nê-xi-mô từ thân phận nô lệ sang thân phận bạn bè. Thánh nhân viết cho Phi-lê-môn như sau: “Nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó [Ô-nê-xi-mô] như đón nhận chính tôi. Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả” (Plm 1,17-18). Hơn ai hết, thánh Phao-lô cảm nghiệm sâu xa về tình bạn của Đức Giê-su đối với con người cũng như sự cần thiết của con người trong việc đáp lại lời mời gọi của Người đối với mình. “Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5,10). Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, sống trong ‘môi trường Nguyên Tội’, mọi người đều là thù nghịch của Thiên Chúa nhưng nhờ Đức Giê-su, mọi người được mời gọi trở nên bạn hữu của Thiên Chúa trong hành trình trần thế và trong Quê Hương Vĩnh Cửu.

Như đề cập ở trên, ai là bạn của Đức Giê-su thì người đó cũng là bạn của mọi người. Trong Cựu Ước, tác giả sách Huấn Ca viết: “Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế” (Hc 6,17). Người ta thường nói rằng hãy cho tôi biết bạn thân với ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người thế nào. Nếu chúng ta thân với Đức Giê-su, thì người khác sẽ biết chúng ta là người thế nào. Ai là bạn của Đức Giê-su thì được mời gọi sống đời cầu nguyện, vâng phục, hy sinh, quên mình, từ bỏ để ngày càng giống Đức Giê-su nhiều hơn. Sau khi nói với các môn đệ về điều răn mới, điều răn yêu thương, Đức Giê-su cũng nói với họ: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Khi khai triển bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Như vậy, ai là môn đệ và là bạn của Đức Giê-su thì được mời gọi đón nhận Người là ‘Ánh Sáng bởi Ánh Sáng’, sống theo Ánh Sáng của Người và phản chiếu Ánh Sáng của Người cho anh chị em đồng loại.

Trong thế giới hôm nay, nhiều người thích làm bạn với những gì thuộc thế giới ảo hơn là những gì thuộc thế giới thật, với những gì trừu tượng hơn là những gì thực tế, với những gì online hơn là những gì offline, với những gì vô cảm hơn là những gì làm cho trái tim con người rung động. Hậu quả là các đặc tính xã hội của con người bị băng hoại, nhiều người bị các chứng bệnh hoang tưởng, căng thẳng, rối loạn, đối xử với anh chị em đồng loại như những gì vô tri vô giác. Các hình thức tình bạn như thế có thể được liệt kê vào hai hình thức ‘tình bạn tầm thấp’ mà Aristotle đề cập là tình bạn lợi ích và tình bạn vui thú chứ không phải là tình bạn đức hạnh (friendship of virtue). Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, các hình thức tình bạn không gia tăng đức hạnh hay không phù hợp với phẩm giá con người có thể đem lại lợi ích hay lạc thú chóng qua hơn là đem lại cho con người niềm vui đích thực hầu giúp con người được phát triển toàn diện.

Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, tình bạn đặt trên nền tảng lợi ích hay vui thú thì không phải là tình bạn đáng mơ ước (Thomas Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ, q.26.a4). Thánh nhân khẳng định: “Tình bạn đích thực đặt nền tảng trên đức hạnh, bất cứ điều gì trái với đức hạnh đều cản trở tình bạn và bất cứ điều gì là đức hạnh đều là động lực xây dựng tình bạn” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ, q.106.a1). Đặc biệt, thấm nhuần tinh thần của Đức Giê-su về tương quan giữa tình yêu và tình bạn, thánh nhân đề cao tình yêu của tình bạn (the love of friendship) so với các hình thức tình yêu khác, chẳng hạn tình yêu của con người đối với thứ gì đó mà mình thích thú. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, tình yêu của tình bạn (the love of friendship) gồm hai khía cạnh: Trước hết, đó là tình yêu dành cho bạn mình, sau nữa, tình yêu dành cho những gì tốt lành mà mình mong muốn cho bạn (Thomas Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ, q.25, a.2). Theo thánh nhân, tình yêu của tình bạn đúng nghĩa là tình yêu đi ra, tình yêu trút bỏ, tình yêu hy sinh vì bạn của mình. Trong khi đó, các hình thức tình yêu khác chủ yếu phát xuất từ lòng ham muốn, tham vọng hay hoài bão của bản thân, tình yêu vị kỷ, tình yêu hướng về mình chứ không phải vì người khác (Thomas Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ, q.26.a4).

Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết rằng không có tình bạn chân thành thì cuộc đời con người không có ý nghĩa. Theo tác giả sách Giảng Viên: “Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả!” (Gv 4,9-10). Bạn bè chân thành thì muốn điều tốt ở gần và điều xấu ở xa bạn mình. Bạn bè chân thành đau với nỗi đau của bạn mình, vui với niềm vui của bạn mình, kiên nhẫn với những kiên nhẫn của bạn mình. Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng người hạnh phúc nhất là người có tình bạn chân thành nhất. Điều này có nghĩa rằng không ai có hạnh phúc đích thực lại không có tình bạn chân thành. Quả thực, trong hành trình trần thế, hạnh phúc của con người không chỉ do mình mà có nhưng còn lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Đặc biệt, con người càng biết trút bỏ, càng biết chia sẻ, càng biết mong muốn những điều tốt lành đến với người khác thì càng được hạnh phúc hơn (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.4, a.8). Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, con người cần sự giúp đỡ của bạn bè để có thể làm việc tốt trong đời sống hoạt động cũng như trong đời sống chiêm niệm [Indiget enim homo ad bene operandum auxilio amicorum, tam in operibus vitae activae, quam in operibus vitae contemplativae] (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.4, a.8). Nói cách khác, trong môi trường tình bạn, đời sống hoạt động cũng như chiêm niệm của con người mới thực sự có ý nghĩa.

Trong Cựu Ước, theo tác giả sách Huấn Ca, người bạn trung thành là chỗ dựa vững chắc, là kho tàng vô giá, là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, là không gì có thể thay thế được (Hc 6,14-16). Đồng thời, tác giả sách Huấn Ca đề cao tình bạn của những người nằm gai nếm mật cùng nhau: “Đừng bỏ rơi người bạn cố tri: Người mới đâu có giá bằng người cũ. Rượu mới thế nào, thì bạn mới cũng vậy; để lâu rồi uống, mới thấy ngon” (Hc 9,10). Còn tác giả sách Châm Ngôn thì viết: “Bạn của con hay bạn của cha con, đừng nỡ bỏ rơi họ. Gặp ngày khốn quẫn, đừng đến nhà anh em con, vì anh em xa không bằng láng giềng gần” (Cn 27,10). Theo Aristotle, tình bạn trung thành hay tình bạn hoàn hảo “đòi hỏi thời gian và sự thấu hiểu lẫn nhau như câu châm ngôn rằng ‘con người không thể biết nhau cho đến khi ‘ăn muối cùng nhau’” (Aristotle, Nicomachean Ethics, Book VIII, 3). Tương tự như Aristotle, thánh Au-gút-ti-nô rất tâm đắc với ý tưởng rằng tình bạn trung thành như ‘một tâm hồn trong hai thân thể’ (Augustine, Confessions, Book IV.6.11). Thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của tình bạn trung thành, theo ngài: “Trong thế giới có hai điều thiết yếu: Đời sống lành mạnh và tình bạn. Thiên Chúa sáng tạo con người để con người tồn tại và sinh sống: Đây là cuộc sống. Để không cô đơn, con người phải có tình bạn” (Augustine, Sermon 299D.1). Cũng theo thánh nhân, “Không có niềm an ủi nào lớn hơn lòng trung thành không giả tạo và tình thương mến của những người bạn tốt lành và chân thực” (Augustine, City of God, Book XIX.8). Thánh nhân cho rằng tình bạn trung thành là điều kiện cần thiết cho sự hiệp nhất trong xã hội: “Tình bạn liên kết con người với nhau trong mối dây êm dịu thật là ngọt ngào đối với chúng ta bởi vì nhiều tâm trí dệt nên sự hiệp nhất” (Augustine, Confessions, Book II.5.10). Đặc biệt, ngài nhấn mạnh rằng tình bạn trung thành của con người đặt nền tảng trên tình bạn của Thiên Chúa (Augustine, Confessions, Book IV.4.7). Tư tưởng của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Mặc Khải giúp chúng ta hiểu thêm về nhận định của thánh nhân: “Với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với loài người như với bạn hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài” (DV 2).

Như đề cập ở trên, tình bạn trong môi trường nhân loại thường mang tính trao đổi ‘bánh ít trao đi, bánh quy trao lại’, tình bạn theo kiểu ‘ăn xổi ở thì’, ‘được chăng hay chớ’; tình bạn thay đổi theo không gian, thời gian, hoàn cảnh. Trong Cựu Ước, tác giả sách Huấn Ca liệt kê một số hình thức tình bạn như vậy: “Có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Có người là bạn lại trở nên thù, và tiết lộ chuyện cãi nhau, khiến con phải xấu hổ. Có người là bạn khi đồng hành với con, nhưng ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Khi con gặp may, thì nó chẳng khác nào chính con: gia nhân con, nó tự do sai bảo. Nhưng lúc con sa cơ, nó liền chống lại và lánh mặt con luôn” (Hc 6,8-12). Chúng ta có thể diễn giải cách ngắn gọn hơn rằng tình bạn trong xã hội loài người thường mang nghĩa ‘hợp đồng’ (contract friendship), trong khi đó, tình bạn theo mặc khải Ki-tô Giáo, tình bạn theo giáo huấn của Đức Giê-su là tình bạn mang nghĩa ‘giao ước’ (covenant friendship). Tương quan giữa Đức Giê-su, giữa Thiên Chúa với con người luôn là tương quan giao ước. Đó là lý do tại sao giáo huấn của Đức Giê-su mời gọi mọi người xây dựng tình bạn vượt qua não trạng thực dụng, trao đổi hay quy ngã.

Tình bạn được Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng cuộc sống của Người không chỉ là tình bạn bền vững, lâu dài mà còn là tình bạn vĩnh cửu, tình bạn được thiết lập trên trần gian nhưng hướng về Vương Quốc Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Giê-su là Đấng vĩnh cửu hiện diện trong thời gian để mời gọi con người trong thời gian trở thành bạn hữu của Người trong vĩnh cửu. Là con người, không ai thỏa mãn với những gì chóng qua mau tàn. Bao lâu con người chưa thiết lập tình bạn với Thiên Chúa theo giáo huấn của Đức Giê-su thì bấy lâu con người vẫn không thể thỏa mãn với các hình thức tình bạn mà mình có kinh nghiệm trong gia đình nhân loại. Trước khi gọi các môn đệ là bạn, Đức Giê-su nói với họ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14,18). Câu chuyện Đức Giê-su làm cho La-da-rô hồi sinh từ nấm mồ giúp mọi người nhận thức rằng Đức Giê-su đến mời gọi mọi người từ cõi chết tới cõi sống muôn đời bởi vì chính Người là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Người thì dù có chết cũng được sống (Ga 11,25). Trong Cựu Ước, tác giả sách Diễm Ca viết: “Tình yêu mãnh liệt như tử thần” (Dc 8,6). Tuy nhiên, hành trình trần thế của Đức Giê-su cho chúng ta thấy tình yêu mãnh liệt hơn tử thần, tình yêu mãnh liệt hơn sự chết (love is stronger than death). Nhờ sự chết và phục sinh của Người, Đức Giê-su tiêu diệt tội lỗi và sự chết một lần cho tất cả và ban tặng sự sống vĩnh cửu cho muôn người (Rm 6,10; 1 Pr 3,18; Dt 9,26-28; Dt 10,14).

Trong xã hội loài người, bạn bè đến với nhau cách tự nhiên hơn là chọn lựa. Chẳng hạn, những người cùng bến cùng thuyền, cùng tuổi, cùng trình độ, cùng hoàn cảnh đến với nhau, làm bạn với nhau mà không quan tâm chuyện ai là người khởi xướng. Điều này không giống với Đức Giê-su, bởi vì chính Người đã chủ động chọn những ai theo Người là bạn. Đây là sự khác biệt căn bản giữa tình bạn trong xã hội loài người và tình bạn theo mặc khải Ki-tô Giáo. Chính Đức Giê-su chọn các môn đệ, đồng hành với họ, cắt cử họ và sai đi, chứ không phải họ tự thân vận động. Quả thực, con người có khả năng thiết lập tương quan tình bạn với anh chị em đồng loại nhưng không thể thiết lập tương quan tình bạn với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao sau khi gọi các môn đệ là bạn, Đức Giê-su cũng nói với họ rằng không phải họ chọn Người nhưng chính Người đã chọn họ (Ga 15,16). Việc Đức Giê-su chọn gọi các môn đệ giúp mọi người có được nhãn quan phổ quát hơn rằng tình bạn giữa Thiên Chúa và con người phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả trong hành trình trần thế của Đức Giê-su. Dĩ nhiên, tình bạn giữa Thiên Chúa và con người còn lệ thuộc vào sự tự do tuân phục của con người nữa bởi vì nếu con người không đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa thì họ không thể thiết lập tương quan tình bạn với Người. Nói cách khác, tình bạn giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập nhờ ân sủng của Thiên Chúa và sự tự do cộng tác của con người.

Dẫn xuất từ tình bạn theo giáo huấn và đời sống của Đức Giê-su, tình bạn tâm linh (spiritual friendship) là một trong những hình thức tình bạn phổ biến trong Ki-tô Giáo thuở ban đầu (Cv 13,13; Cv 19,29). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng không ai nên thánh một mình. Điểm chung của các thánh là giúp nhau hướng tới sự toàn thiện theo giáo huấn của Đức Giê-su. Điều này có nghĩa rằng đời sống thánh thiện của một người được thêu dệt bởi muôn vàn sợi chỉ thánh thiện của người khác và tất cả các sợi chỉ đó đều bắt nguồn từ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối, là nguồn của sự thánh thiện và cũng là Đấng chia sẻ sự thánh thiện cho mọi người. Sự thánh thiện của các thánh chính là sự thánh thiện của những người nhận ra thánh ý Thiên Chúa, sống theo thánh ý Thiên Chúa và cùng nhau hướng về Thiên Chúa. Tình bạn trong Ki-tô Giáo không đặt ưu tiên về chuyện ‘ngang đôi phải lứa’ nhưng đặt ưu tiên trong mục đích chung là mưu cầu sự sống vĩnh cửu cho bản thân mình và anh chị em đồng loại. Có vô số nhân chứng tình bạn thánh thiện trong Kinh Thánh cũng như trong lịch sử Giáo Hội, chẳng hạn như tình bạn giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a, giữa thánh Pê-pê-tu-a và thánh Fê-li-xi-ta, thánh Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Đô-mi-ni-cô, thánh I-nha-xi-ô và thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh Gio-an Thánh Giá và thánh Tê-rê-xa A-vi-la, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và thánh Tê-rê-xa Can-cút-ta. Các ngài đã giúp nhau nhìn về một hướng trong khi mỗi người trung tín thực thi ơn gọi của mình theo những đặc sủng được Thiên Chúa ban tặng. Chúng ta có thể định nghĩa vị thánh là người bạn trung tín của Đức Giê-su, của Thiên Chúa. Mọi người được mời gọi làm bạn với Đức Giê-su như các thánh trong lịch sử Giáo Hội. Bạn của Đức Giê-su không chỉ là người có nhiều kiến thức giáo lý về Người mà còn là người có trái tim đồng nhịp với trái tim Người, nhờ đó, có thể đồng hình đồng dạng với Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình.

Tình bạn của con người với Đức Giê-su không phải là tình bạn thiết lập một lần cho tất cả xét về phía con người. Trong khi Đức Giê-su luôn trung tín thì con người lại hay bất tín trong tình bạn bởi vì con người không thực thi các giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương mới như Đức Giê-su đã yêu. Để là bạn của Đức Giê-su, con người cần luôn trở về, luôn hoán cải, luôn cộng tác với Đức Giê-su trong việc biến đổi bản thân mình. Mãnh lực của ma quỷ, thế gian, xác thịt thường làm cho con người sao nhãng tình bạn với Đức Giê-su để theo đuổi các hình thức tình bạn của thế giới ngẫu tượng. Tình bạn của con người với Đức Giê-su chỉ có thể bền vững khi con người biết đón nhận ân sủng của Người, sống theo ân sủng của Người và làm cho ân sủng đó được triển nở trong đời sống nội tâm cũng như trong hành động bác ái đối với anh chị em đồng loại. Quả thực, tự thân, con người không thể duy trì tình bạn luôn mãi với Người. Giáo huấn của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng con người chỉ có thể đi đúng hướng khi gắn bó với Người, duy trì tình bạn với Người và cộng tác với Người trong việc thiết lập những chiếc cầu tình bạn với anh chị em mình.

Trong Giáo Hội sơ khai, trước Hội đồng A-rê-ô-pa-gô (Hy-lạp), thánh Phao-lô quả quyết: "Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó… Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người” (Cv 17,24-28). Quả thực, Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của con người và vạn vật. Trong thế giới vĩ mô hay vi mô, không thực thể nào lại tồn tại độc lập so với các thực thể khác. Các thực thể trong vũ trụ đều là ‘bạn của nhau’ và cùng nhau tồn tại. Đối với xã hội loài người, nói đến tình bạn là nói đến cộng đoàn, nói đến tập thể, nói đến lợi ích chung: Chung nguyên khởi, chung lịch sử, chung truyền thống, chung cứu cánh. Nói đến tình bạn là nói đến cộng tác: Sống chết có nhau, buồn đau chia sẻ, mạnh khỏe cùng vui. Theo giáo huấn của Đức Giê-su, nói đến tình bạn là nói đến ưu tiên đời sống cộng đoàn trên đời sống cá nhân, nghĩa là các cá nhân cần trút bỏ chính mình cho vĩ nghiệp của cộng đoàn, của Giáo Hội mà Đức Giê-su thiết lập giữa gia đình nhân loại và cho gia đình nhân loại (Cv 2,42-47). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su không gọi mỗi môn đệ cách riêng lẻ để nói với họ rằng Người là Bạn của họ mà nói với họ như là cộng đoàn đang hiện diện trước mặt Người: ‘Thầy gọi anh em là bạn hữu’. Như vậy, các môn đệ ý thức rằng bổn phận của họ là chăm lo cho cộng đoàn những người bạn của Đức Giê-su và cũng là những chứng nhân tình bạn của Người giữa dòng đời.

Những lời trăng trối của Đức Giê-su với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn, nhất là việc Người nhấn mạnh rằng Người là Bạn của họ, gợi lên trong tâm trí họ sự cần thiết để cộng tác với Người xây dựng nền văn hóa tình bạn trong gia đình nhân loại. Nền văn hóa này chỉ có thể trở thành hiện thực khi mọi người biết quy chiếu tư tưởng, lời nói và hành động của mình theo giáo huấn và đời sống của Đức Giê-su. Trong thế giới hôm nay, chủ nghĩa cá nhân ngày càng lan rộng. Việc xây dựng nền văn hóa tình bạn thật cần thiết hầu giúp mọi người biết đặt lợi ích của các hình thức tập thể, của gia đình nhân loại, của thế giới thụ tạo trên lợi ích của các cá nhân hay phe nhóm. Khi các Ki-tô hữu ý thức rằng mình là bạn của nhau, khi các tín hữu thuộc các tôn giáo trên thế giới ý thức rằng mình là bạn của nhau, khi mọi người trong gia đình nhân loại ý thức rằng mình là bạn của nhau cũng là khi nền văn hóa tình bạn được thiết lập và đem lại hạnh phúc đích thực cho mọi người. Nhờ đó, mọi người sống xứng đáng với phẩm giá của mình là thụ tạo được dựng nên chẳng thua kém thần linh là mấy và được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa (St 1,26-27; Tv 8,5; Dt 2,7; Ga 1,12).

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng Người là Đường và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người (Ga 14,6). Suy niệm về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su, chúng ta có thể nói rằng Đường của Người là Đường Tình Bạn. Đường này khởi đầu với Biến Cố Nhập Thể, ngang qua muôn vàn hình thức đau khổ, tới cao điểm là sự chết và phục sinh của Người. Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su trong gia đình nhân loại, tình bạn đích thực giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi trên Đường Tình Bạn của Đức Giê-su bởi vì Đường này cho phép mọi người có được sự hòa hợp trong đời sống nội tại cũng như trong các tương quan với anh chị em, với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và với Thiên Chúa. Đường Tình Bạn của Đức Giê-su là Đường cho phép mọi người được tham dự sự sống của Thiên Chúa trong hành trình trần thế này và được hưởng sự sống viên mãn mai ngày.

Trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14,12-13). Khi loan báo Tin Mừng Tình Bạn của Đức Giê-su, các môn đệ của Người luôn phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, lời nhắn nhủ của Đức Giê-su giúp các môn đệ vững tâm trong mọi hoàn cảnh: "Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa” (Lc 12,4). Quả thực, sau khi phục sinh, với sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần được Đức Giê-su gửi đến từ Chúa Cha, các môn đệ đã ra đi loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng Tình Bạn của Người tại Giê-ru-sa-lem, khắp miền Giu-đê-a, Sa-ma-ri cho đến tận cùng trái đất (Cv 1,8). Qua dòng thời gian, Đức Giê-su luôn mời gọi các môn đệ và đồng hành, hướng dẫn họ tiếp tục sứ mệnh của Người. Do đó, ai là bạn của Đức Giê-su thì đồng hình đồng dạng với Người về viễn kiến (vision) cũng như sống theo các giá trị (values) mà Người loan báo và minh chứng bằng cuộc sống mình. Ai là bạn của Đức Giê-su thì được mời gọi mặc lấy quyền năng của Người (quyền năng được diễn tả qua sự trút bỏ, khiêm tốn, vâng phục) để trở nên khí cụ hữu hiệu của Người khi đến với anh chị em mình.

Chúng ta có thể kết luận rằng, theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa sáng tạo con người và đồng hành với con người nhưng con người đã phạm tội và tự mình tách khỏi tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người và sống thân tình với mọi người, nhất là những người tội lỗi, nghèo khó, bị bỏ rơi hay phải đương đầu với muôn vàn hình thức đau khổ trong cuộc sống. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su đã gọi các môn đệ là bạn của Người và cho họ biết rằng không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Hơn ai hết, chính Đức Giê-su đã thực thi điều đó: Là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ nhưng Đức Giê-su đã làm bạn với con người và chết vì con người. Nhờ Đức Giê-su, chúng ta biết rằng tình yêu và tình bạn của Thiên Chúa cũng là tình yêu và tình bạn mà Người diễn tả trong hành trình trần thế. Đức Giê-su mời gọi các môn đệ không chỉ yêu thương bạn mình hay yêu thương những ai yêu mình mà yêu thương hết mọi người. Do đó, ai đón nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn thì hãy yêu thương mọi người như Đức Giê-su đã yêu, yêu cho đến tận cùng, yêu cho đến nỗi bằng lòng chịu chết cho toàn thể nhân loại. Ước gì mọi người trong gia đình nhân loại biết đón nhận Đức Giê-su và luôn lắng nghe lời mời gọi đi vào mối tương quan tình yêu cũng là tương quan tình bạn với Người trong hành trình trần thế này, hầu mai ngày được chung hưởng tình yêu cũng là tình bạn vĩnh cửu với Người trong Nước Thiên Chúa.

Gm. Phê-rô Nguyễn Văn Viên

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây