Chúa Nhật IV – MC – A
Phải có “đức tin và đức mến”
Người xưa có nói: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Và, mỗi khi nghe đến lời nhận định này, có lẽ không ít người trong chúng ta đều phải thốt lên rằng: Sự đời sao mà nghiệt ngã thế!
Vâng, thật là nghiệt ngã. Có đời nào khi cha mẹ làm điều thất đức, thì đến đời con cháu, chúng nó phải bị vạ lây. Thật bất công, khi đã không nhận được phúc đức từ cha mẹ, thế mà lại phải cả đời khổ sở vì những tội lỗi, những điều xấu xa mà cha mẹ gây nên.
Xã hội của người Do Thái xưa, cũng không là ngoại lệ. Con cái sinh ra chẳng may bị tật nguyền, lập tức dư luận đều cho rằng do tội lỗi cha mẹ gây nên.
Với quan điểm cổ hũ (nêu trên), Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài đã không tán đồng. Quan điểm của Ngài, đó là: bất cứ điều gì xảy ra (dù xấu hay tốt), trên thế gian này, đều là “công trình của Thiên Chúa”, một Thiên Chúa là Đấng nhân lành và là Đấng chữa lành, một Thiên Chúa là tình yêu.
Câu chuyện “Đức Giê-su chữa một anh mù từ thuở mới sinh”, được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an, như là một điển hình nói đến quan điểm của Ngài, hồi ấy.
**
Câu chuyện được kể lại rằng: Hôm ấy, trong lúc Đức Giê-su ra khỏi Đền Thờ, và chỉ là một tình cờ: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù”. Người này bị mù “từ thuở mới sinh”.
Các người môn đệ của Ngài cũng nhìn thấy. Các ông nhìn thấy người mù này đang ngồi ăn xin. Thật không thể tin được, các vị môn đệ thay vì nhìn anh mù này với một tấm lòng thương xót, thì lại nhìn anh ta với một ánh mắt của một vị quan tòa.
Các môn đệ, dựa theo tập tục Do Thái giáo, cho rằng những ai bị tật nguyền như: đui mù què quặt, họ cho rằng, kẻ đó bị Thiên Chúa trừng phạt. Thế nên, hôm ấy, thay vì kêu thủ quỹ Giu-đa xuất quỹ bố thí cho anh mù vài xu, các ông xúm xít quanh Thầy Giê-su “thí” cho anh ta những lời lẽ nặng mùi của một công tố viên.
Hôm ấy, các ông đã trịnh trọng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (x.Ga 9, 2).
Ô hay! Lời Thầy truyền dạy các ông quên rồi sao! “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Chẳng lẽ anh mù này không đáng xót thương!!!
Không để cho các môn đệ luẩn quẩn trong một mớ tập tục theo thói đời, Đức Giê-su tuyên bố: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
Anh mù bẩm sinh là ai? Há không phải là công trình mà Thiên Chúa đã tác tạo sao! Làm sao Đức Giê-su có thể làm ngơ trước một công-trình-của-Thiên-Chúa, một Thiên Chúa là tình yêu.
Hôm ấy, Đức Giê-su đã truyền dạy cho các môn đệ một bài học về trách nhiệm, trách nhiệm của một người đã dấn thân cho tình yêu, Ngài truyền dạy, rằng: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng…” Và, sau đó Ngài đã công bố cho các ông biết, rằng: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”.
Nói xong, chuyện kể tiếp rằng: “Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù”. Tiếp đó, Ngài bảo anh ta “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa”.
Thật kỳ diệu, “Anh ta đến rửa ở hồ và khi về thì nhìn thấy được”.
***
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su chữa lành người bị mù. Nhớ, có lần Ngài đã chữa một người mù ở Giê-ri-cô. Anh ta tên là Ba-ti-mê. Với anh này, sau khi được chữa lành, anh ta đã có được một niềm vui trọn vẹn.
Tại sao lại gọi là trọn vẹn? Thưa, là bởi, ngoài việc “nhìn thấy được” anh ta còn có thể thực hiện ước muốn của mình, đó là “đi theo Người trên con đường Người đi”.
Còn anh mù hôm nay thì sao! Vâng, dựa theo lời mô tả của J.Z Young, một chuyên gia trong ngành chức năng não bộ, chúng ta được biết: “Khi được mở mắt, bệnh nhân chỉ rất ít hoặc hoàn toàn không vui thú gì, thật vậy, họ đối diện với cảm nghiệm đầu tiên này trong đau đớn. Trước mắt họ chỉ là một đống hỗn độn ánh sáng và màu sắc quay vòng vòng. Rõ ràng là với thị giác, họ gần như không thể cầm nắm đồ vật, nhận diện và gọi tên chúng. Họ không có khái niệm về không gian và vật thể, cho dù họ đã biết và xác định được tất cả mọi vật này bằng xúc giác”. (nguồn: internet)
Thế nên, để trả lời cho câu hỏi trên, có phần chắc, anh mù bẩm sinh, khi nhìn thấy được, cũng trải qua một phần nào của sự đau đớn. Và, quả thật, anh ta đã phải trải qua những đau đớn (ít nhất) là về tinh thần.
Cái đau đớn thứ nhất, đó là: từ Si-lô-ác trở về, anh ta bị bủa vây bởi những luồng dư luận đầy ác ý. Dư luận nói rằng: người được chữa lành không phải là anh, “nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi”.
Rồi, thật đau đớn làm sao khi ngay cả cha mẹ anh ta cũng đã khéo léo từ chối xác nhận rằng thì-là-mà; “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đó mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay.”
Và, đây là cái đau đớn nhất cho anh ta. Khi biết được người chữa lành anh là một “Người tên là Giê-su”. Những ông kẹ Phariseu đã ra sức gây cho anh sự hoang mang. Họ nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabat”. Có người lại nói: “Một người tội lỗi sao có thể làm những dấu lạ như vậy?”.
Cái đau đớn cuối cùng, đó là vạ “tuyệt thông” của thần quyền Do Thái. Hôm ấy, sau những lời làm chứng về Đức Giê-su, rằng “Người là một vị ngôn sứ”, cùng với những lý lẽ thuyết phục để minh chứng Ngài chính là “người bởi Thiên Chúa mà đến”, những người Phariseu “trục xuất anh”.
Vâng, quả là một cảm nghiệm trong đau đớn, giống như sự đau đớn của Đức Giê-su trên Thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Không, hôm đó Đức Giê-su không bỏ rơi anh ta. Nghe người ta trục xuất anh, Đức Giê-su tìm gặp lại anh và hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?”.
Trước mặt Đức Giê-su, anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người”.
****
Mỗi một phép lạ Đức Giêsu thực hiện, Ngài đều muốn gửi đến một thông điệp hoặc dẫn đến một chân lý nào đó. Qua phép lạ chữa lành anh mù bẩm sinh, phải chăng Đức Giêsu muốn gửi đến chúng ta thông điệp rằng “mù mắt sáng hồn hơn mù hồn sáng mắt?”.
Đúng vậy, cái sợ của thế giới hôm nay không phải là cái sợ mù-thể-lý. Y học ngày nay cho biết, những bệnh có thể gây mù, lé, nhược thị ở trẻ em thường gặp nhất, đó là: bệnh ROP, glocom bẩm sinh, đục thủy tinh thể và bướu nguyên bào võng mạc. Tuy nhiên, nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ ngăn ngừa được mù lòa, giảm thiểu biến chứng.
Ngày nay, có sợ, chúng ta hãy sợ mình rơi vào căn bệnh “mù quáng”. Người mù quáng thấy rõ những “cái rác trong đôi mắt của người anh em”, nhưng lại không nhìn thấy “cái xà trong con mắt của mình”.
Thật đúng với câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.” Mù thể lý là một mất mát lớn, nhưng không làm hại ai. Còn người bị bệnh “mù quáng”, họ có thể gây ra vô số điều tai hại cho mình cũng như cho tha nhân.
Trường hợp Vua David như một điển hình. Tuy đã có nhiều thê thiếp, nhưng David lại say mê bà Bát-sa-bê là vợ của Uria. Sự say mê đó đã làm cho nhà vua trở nên “mù quáng”. Bất chấp đạo lý, ông ta tìm cách chiếm đoạt Bát-sa-bê.
Một âm mưu thâm độc được ông ta vạch ra. Đó là mượn tay quân thù giết chết Uria ngoài mặt trận. Uria chết, ông công khai lấy bà Bát-sa-bê. Thế là cùng một lúc David phạm hai tội ác: tội ngoại tình và tội giết người. Thế mà, nhà vua vẫn bình thản như không thấy gì. Nhờ Ngôn Sứ Na-ta-an đến cảnh tỉnh, David mới nhận ra căn bệnh “mù quáng” của mình, ông ăn năn thống hối. (II Sm 11,1-12,12).
Tưởng chúng ta cũng nên nhắc đến một ông vua khác, vua Hê-rô-đê. Say mê trước “một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích” của con gái bà Hê-rô-đi-a, đôi mắt nhà vua đã trở nên “mù quáng”, mù quáng đến độ sẵn sàng chém đầu Gio-an Tẩy Giả, để đáp ứng lời yêu cầu của nàng vũ nữ.
Căn bệnh “mù quáng” rất đáng sợ. Nó làm cho ta sơ cứng tâm hồn. Sơ cứng tâm hồn làm cho ta mù nhân đức.
Mà, khi đã mù nhân đức, những nhân đức như: bác ái, nhân hậu, từ tâm, nhẫn nhục, trung tín, hiền hòa, tiết độ v.v… có phần chắc, những con virus-ích-kỷ, virus-hận-thù, virus-tranh-chấp, virus-chia-rẽ, virus-bè-phái, virus-say-sưa-chè-chén, v.v… tha hồ tung hoành ngang dọc trong tâm hồn chúng ta.
Thế nên, hãy xem lại đôi mắt tâm hồn của mỗi chúng ta và tự hỏi: tôi có đang rơi vào tình trạng mù quáng?
Nếu có, hãy đến, không phải là đến hồ Si-lô-ác năm xưa, nhưng là “hồ Thánh Kinh”, nơi đây đôi mắt tâm linh của ta sẽ được chữa lành, được chữa lành bằng cách lấy “bùn” Lời Chúa, “xức vào mắt” của mỗi chúng ta.
Hãy nhớ rằng: bùn-Lời-Chúa chính là “ngọn đèn soi ta bước, (và) là ánh sáng chỉ đường ta đi” (Tv 119, 105).
Ngọn đèn đó sẽ cho chúng ta nhìn thấy đâu chính là “Đường, là Sự Thật và là sự sống” cho cuộc sống của mình.
Ánh sáng đó sẽ chiếu rọi vào tâm hồn chúng ta “tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5, 9).
Sự “lương thiện, công chính và chân thật”… Vâng, đó chính là liều thuốc công hiệu nhất để chúng ta đánh bật căn bệnh mù quáng, trong tâm hồn mình.
Sống lương thiện, công chính và chân thật… không cần nói, thiên hạ cũng có thể nhận ra chúng ta đang làm cho “công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện”.
Là một Ki-tô hữu, đó là việc chúng ta phải thực hiện. Đừng quên, để thực hiện được một cách trọn hảo, chúng ta cần phải có đức tin và đức mến.
Vâng, phải có “đức tin và đức mến”.
Petrus.tran
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn